Nghiên cứu phân tâm học - Phần I - Chương 01 - 02

Phần thứ nhất: Vượt xa hơn nguyên tắc khoái lạc

1. Nguyên tắc khoái lạc

Lý thuyết phân tâm học chấp nhận toàn thể rằng sự diễn biến
của tiến trình tâm thần bị chi phối bởi nguyên tắc khoái lạc. Nói khác đi, nhân
danh là tâm phân học gia, chúng tôi cho rằng mỗi khi có một áp lực khó chịu hay
cực nhọc thì tiến trình tâm thần diễn biến cách nào để giảm bớt áp lực, nghĩa
là biến đổi trạng thái khó chịu ra trạng thái dễ chịu. Nói như vậy là chúng tôi
đưa vào việc nghiên cứu tiến trình tâm thần một quan điểm về sự điều động và tổ
chức; trong sự mô tả các hiện tượng chúng tôi kể đến yếu tố điều động và tổ
chức cũng như yếu tố thích xác và yếu tố năng động, sự mô tả ấy sẽ là sự mô tả
đầy đủ nhất mà chúng tôi có thể đạt được hiện thời, sự mô tả đáng gọi là mô tả tâm
lý siêu hình
.

Chúng tôi không bận tâm nghĩ xem nguyên tắc khoái lạc có gần
với hệ thống triết lý nào đã được thừa nhận hay không.

Chỉ nhân việc mô tả và cắt nghĩa những sự kiện hàng ngày quan
sát được mà chúng tôi đi đến chỗ đề ra những giả thuyết dùng vào việc suy lý
như vậy. Trong công việc phân tâm của chúng tôi, chúng tôi không có ý tìm sự ưu
tiên hay sự độc đáo, vả chăng những lý lẽ để đưa ra nguyên tắc ấy có tính cách
hiển nhiên đến nỗi chúng tôi không thể không chấp nhận được. Tuy nhiên, chúng
tôi sẽ thành thực tri ân những thuyết triết học hay tâm lý học giải thích một
cách chính xác những cảm giác dễ chịu và khó chịu chi phối chúng ta như những
mệnh lệnh nghiêm ngặt. Đây là lãnh vực tối tăm và khó thâm nhập nhất của hoạt
động tâm thần, chúng ta không thể cưỡng lại sự thúc giục của nó được, bởi vậy
cho nên chúng tôi nghĩ rằng tốt hơn hết là chỉ nên đưa ra những giả thuyết càng
có tính cách đại quát và đại loại càng hay. Bởi vậy cho nên chúng tôi phải xác
định số lượng tinh lực (không liên kết) cần cho sinh hoạt tâm thần giữa khoảng
cách của hai cảm giác dễ chịu và khó chịu, mặt khác chúng tôi cố tìm ra một vài
liên lạc giữa hai cảm giác ấy trong khi chấp nhận rằng sự khoan khoái dễ chịu
tương ứng với sự bội tăng số lượng tinh lực còn sự khó chịu tương ứng với sự
thuyên giảm số lượng tinh lực. Những liên lạc ấy, chúng tôi không quan niệm
dưới hình thức tương hệ cường độ cảm giác với những biến đổi xảy ra, chúng tôi
cũng ít nghĩ rằng có một tỉ lệ trực tiếp trong mối tương hệ (vì mọi kinh nghiệm
tâm thần sinh lý học của chúng tôi đều chống lại quan niệm ấy); có lẽ yếu tố
quyết định của cảm giác là mức độ tăng hay giảm số lượng tinh lực trong một
thời gian nhất định. Kinh nghiệm có thể đem lại nhiều dữ kiện để tìm hiểu,
nhưng phân tâm học gia không thể bước vào những vấn đề ấy nếu không quan sát
được những sự kiện chắc chắn và nhất định có thể hướng dẫn họ được.

Tuy nhiên, chúng tôi không thể không để ý đến ý kiến của một
nhà bác học thâm trầm như G. Th. Fechner: ông quan niệm vấn đề “dễ chịu khó
chịu” với những nét chính rất gần với những điều mà chúng tôi đã tìm ra nhân
việc nghiên cứu phân tâm học của chúng tôi. Trong cuốn sách Einige Ideen zur
Schöpfungs-und Entwicklungsgeschichte der Organismen
(1873, thiên XI, phụ
lục trang 94), ông trình bày quan niệm của ông như sau:

“Vì những xung động (impulsion) ý thức được đều kèm theo cảm
giác dễ chịu hay khó chịu, chúng tôi có thể chấp nhận rằng cũng có những liên
lạc tâm-thần-thể-chất giữa hai sự kiện: một đằng là cảm giác dễ chịu và khó
chịu, đằng kia là những trạng thái ổn cố và bất ổn; chúng tôi có thể căn cứ vào
những liên lạc ấy để củng cố giả thuyết của chúng tôi (trình bày ở nơi khác)
đại ý như sau: một chuyển động tâm-thần-thể-chất vượt khỏi ngưỡng cửa vào ý
thức sẽ kèm theo sự dễ chịu nếu nó tiến gần đến tình trạng ổn cố hoàn toàn và
đã vượt quá một giới hạn nào đó; chuyển động ấy sẽ kèm theo sự khó chịu nếu nó
tiến gần tới tình trạng bất ổn hoàn toàn và cũng vượt quá một giới hạn nào đó
giữa hai giới hạn đó là một khu vực vô cảm giác, chỉ có hai điểm giới hạn đó
đáng coi là có phẩm chất dễ chịu và khó chịu…”

Những sự kiện khiến cho chúng tôi gán cho nguyên tắc khoan
khoái (dễ chịu) vai trò chính trong đời sống tâm thần đều xuất phát từ một giả
thuyết theo đó bộ máy tâm thần cố gắng giữ cho những khích động ở một mức độ
càng thấp càng hay, hay ít ra ở một mức độ càng ổn cố càng hay. Đó là nguyên
tắc khoái lạc trình bày hơi khác một chút, bởi vì, nếu bộ máy tâm thần ráng giữ
số lượng kích thích ở một mức độ càng thấp càng hay, thì tất cả cái gì có thể
tăng gia số lượng kích thích ấy chỉ có thể coi là yếu tố cản trở, nghĩa là cảm
thấy như một cảm giác khó chịu. Như vậy thì nguyên tắc khoái lạc cũng do nguyên
tắc giữ nguyên tình trạng (principe de constance) mà suy ra; thực ra nguyên tắc
giữ nguyên tình trạng cũng xuất hiện với chúng tôi khi chúng tôi quan sát những
sự kiện bắt buộc chúng tôi phải chấp nhận nguyên tắc khoái lạc. Sự thảo luận
sau này sẽ minh thị rằng khuynh hướng của bộ máy tâm thần nói đến ở đây đại
diện cho một trường hợp đặc biệt của nguyên tắc do Fechner tìm ra, đó là khuynh
hướng trở lại tình trạng ổn cố, ông đã xếp những cảm giác khoan khoái và khó
chịu vào khuynh hướng ấy.

Nhưng nói đến vai trò nổi bật của nguyên tắc khoan khoái
trong sự diễn biến của tiến trình tâm thần có đúng không đã? Nếu đúng thì phần
lớn những tiến trình tâm thần của chúng ta phải kèm theo sự khoan khoái, hay
dắt đến sự khoan khoái, nhưng khốn thay, phần lớn những kinh nghiệm của chúng
tôi đều mâu thuẫn rõ rệt với kết luận ấy. Bởi vậy cho nên chúng tôi buộc lòng
phải chấp nhận rằng có một khuynh hướng mạnh mẽ mật thiết với linh hồn và hoạt
động theo nguyên tắc khoan khoái, nhưng có nhiều mãnh lực và điều kiện khác
chống đối lại khuynh hướng ấy, thậm chí kết quả chung cục có thể không phù hợp
với nguyên tắc khoan khoái. Về vấn đề này Fechner có nói: “Nhưng khuynh hướng
đạt tới đích không có nghĩa là bao giờ cũng thực hiện được mục đích, nói chung
thì chỉ có thể thực hiện gần được mà thôi.” Khi tìm hiểu xem những điều kiện
nào có thể ngăn cản sự thực hiện nguyên tắc khoan khoái, chúng tôi làm việc
trong một lãnh vực chắc chắn và quen thuộc, chúng tôi có thể dùng đến những
kinh nghiệm phân tâm của chúng tôi.

Chúng tôi đã biết từ lâu rằng trở lực thứ nhất cho nguyên tắc khoan
khoái là trở lực bình thường và thường có. Chúng tôi biết rằng bộ máy tâm thần
theo sự cấu tạo của nó, tự nhiên tìm cách vâng theo nguyên tắc khoan khoái,
nhưng vì gặp phải những khó khăn nguồn gốc ở ngoại giới, nó không thể ngang
nhiên tự xác định bất cứ lúc nào, làm như thế còn nguy hiểm cho sự bảo tồn thân
thể con người. Dưới ảnh hưởng của bản năng bảo tồn cái Tôi, nguyên tắc khoan
khoái phải lánh mặt và nhường chỗ cho nguyên tắc thực tại (principe de réalité),
theo nguyên tắc ấy chúng ta vẫn giữ mục tiêu tối hậu là sự khoan khoái nhưng bằng
lòng hoãn lại một thời gian, không thực hiện ngay, không lợi dụng cơ hội thuận
tiện nào đó để hối hả thực hiện, chúng ta còn có thể chịu đựng sự khó khăn nhất
thời để đi một đường lối vòng vèo khác khá dài mới tới đích. Tuy nhiên, những
xung động dục tính khó “giáo hóa” hơn, trong một thời gian lâu chúng vẫn chỉ
nghe theo nguyên tắc khoan khoái; nguyên tắc khoan khoái thường khi chỉ hoạt động
trong phạm vi sinh hoạt dục giới hay trong phạm vi cái Tôi, thành thử nó thắng
hẳn nguyên tắc thực tại, điều đó tai hại cho toàn diện thân thể con người.

Tuy nhiên chúng ta không thể chối cãi được rằng thay thế
nguyên tắc khoan khoái bằng nguyên tắc thực tại chỉ cắt nghĩa được một phần rất
nhỏ những cảm giác khó chịu và chỉ những cảm giác khó chịu và chỉ những cảm
giác khó chịu không mãnh liệt lắm. Một nguồn gốc khác của những cảm giác khó
chịu và nhọc nhằn là sự xung động và chia rẽ xảy ra trong đời sống tâm thần vào
thời kỳ cái tôi tiến triển đến những tổ chức tâm thần cao trọng và nhất trí
hơn. Người ta có thể nói rằng hầu hết tinh lực của bộ máy tâm thần là do những
xung động (impulsion) cố hữu từ tiên thiên của bộ máy ấy, nhưng những xung động
ấy không đạt tới trình độ tiến triển ngang nhau. Có thể rằng trên đường tiến
triển, một vài xung động hay một vài khía cạnh của một vài xung động khác về
cứu cánh và khuynh hướng, nghĩa là không thích hợp với những xung động mà sự
tổng hợp làm thành nhân tính toàn vẹn, hoàn tất. Những khuynh hướng không thích
hợp ấy bị loại trừ và dồn nén lại, không được tham dự vào việc tổng hợp nhân
tính; chúng bị giữ lại ở một mức độ phát triển thấp của tâm thần, và vì thế
không thể nào được thỏa mãn. Nhưng cũng có khi chúng tìm được sự thỏa mãn hoặc
trực tiếp, hoặc bằng cái gì khác thay thế; sự thay thế ấy trở thành nguồn gốc
những cảm giác khó chịu cho thân thể con người, đáng ra, trong những trường hợp
khác, sự thay thế có thể là nguồn gốc những cảm giác khoan khoái. Sau những
cuộc xung động gây ra sự dồn nén, nguyên tắc khoan khoái lại tìm cách củng cố
địa vị bằng những đường lối quanh co, trong khi ấy một vài xung động khác vì có
lợi cũng hùa vào giúp cho nó thắng thế, chúng tìm cách thu hút lấy càng nhiều
khoan khoái càng hay. Người ta chưa hiểu hết hay chưa có thể mô tả sáng sủa
những chi tiết của tiến trình theo đó sự dồn nén biến đổi một sự kiện có thể
đem lại khoan khoái thành một sự kiện gây ra khó chịu, nhưng người ta có thể
chắc chắn rằng mọi cảm giác khó chịu có bản chất suy nhược thần kinh xét cho
cùng chỉ là một sự khoan khoái mà không được người suy nhược cảm thấy là khoan
khoái.

Chúng ta chưa tìm hiểu hết nguồn gốc của phần lớn những kinh
nghiệm tâm thần khoan khoái hay khó chịu, nhưng nếu tìm thấy những nguồn gốc
khác, chúng tôi cũng có thể nào điều đó không phương hại đến ưu thế của nguyên
tắc khoan khoái, quan điểm của chúng tôi không phải là không có phần nào hữu
lý. Quả vậy, phần lớn những cảm giác khó chịu của chúng ta đều gây ra bởi áp
lực của những xung động không được thỏa mãn, hay bởi những yếu tố ở ngoài;
những yếu tố ở ngoài khi thì khơi động những cảm giác khó chịu, khi thì làm nổi
lên những cảm tưởng chờ đợi day dứt, những cảm tưởng “nguy hiểm” trong bộ máy
tâm thần của chúng ta. Phản ứng chống lại những xung động vì không được thỏa
mãn mà gây áp lực và những đe dọa nguy hiểm đó là phản ứng biểu lộ sự hoạt động
riêng của bộ máy tâm thần; phản ứng đó xảy ra vì ảnh hưởng của nguyên tắc khoan
khoái nguyên vẹn hay biến đổi vì nguyên tắc thực tại. Có lẽ không cần phải đặt
một giới hạn mới cho nguyên tắc khoan khoái, tuy nhiên, xét nghiệm cơ quan tâm
thần phản ứng trước những nguy hiểm gây ra bởi thế giới bên ngoài, chúng ta
thâu lượm được những tài liệu mới và nghĩ đến những cách khác để đặt câu hỏi
thích hợp với vấn đề của chúng ta.

2. Nguyên tắc khoan khoái và bệnh suy nhược thần kinh ngoại
thương, nguyên tắc khoan khoái và trò chơi trẻ con

Sau những khi thân xác con người bị đụng mạnh như những tai
nạn hỏa xa và những tai nạn khác nguy hiểm đến tính mạng, người ta thấy xảy ra
một trạng thái đã lâu nay được mô tả với tên gọi là “suy nhược thần kinh ngoại
thương” (névrose traumatique). Trận chiến tranh khủng khiếp mới kết liễu đã gây
ra nhiều bệnh thuộc loại ấy, và ít ra cũng cho ta thấy sự bất lực của những
quan điểm xếp loại những bệnh ấy vào loại tổn thương vật chất của trung học hệ
đồng thời xuất hiện với sự té ngã hay va chạm quá mạnh. Những bệnh suy nhược
thần kinh ngoại thương rất gần với bệnh loạn thần kinh (hystérie) vì có nhiều
triệu chứng vận động (symtôme moteur), nhưng thường thường có khác vì những dấu
hiệu đau đớn chủ quan (tinh thần) như trong trường hợp chứng ưu uất
(mélancolie) và chứng u uất (hypochondrie), cũng có khác vì sự suy yếu và đảo
lộn gần hết các cơ năng tâm thần. Cho đến ngày nay người ta vẫn chưa có một ý
niệm đúng về bệnh suy nhược thần kinh thời chiến tranh và suy nhược thần kinh
ngoại thương. Trong loại bệnh suy nhược thần kinh thời chiến có một sự kiện hầu
như vừa làm cho vấn đề sáng sủa thêm lại vừa làm cho vấn đề rắc rối thêm, đó là
sự kiện sau đây: những triệu chứng bệnh hoạn, tùy trường hợp, có thể xảy ra, mà
bệnh nhân không bị tai nạn thương tích trầm trọng. Còn như bệnh suy nhược thần
kinh ngoại thương thông thường thì chúng tôi thấy có hai điểm có thể dẫn lối
cho công việc khảo sát, đó là sự ngạc nhiên sự kinh hãi, hai
yếu tố ấy hình như đóng một vai trò chủ chốt gây ra bệnh, trong bệnh ấy hầu như
người bệnh không có thương tích hay tổn thương nào cả. Thường thường người ta
vẫn coi những chữ kinh hãi, sợ hãilo sợlà những danh
từ đồng nghĩa. Như vậy có sự lầm lẫn đáng tiếc; rất dễ nhận thấy khác nhau nếu
ta nhận xét xem mỗi xúc động trong ba loại ấy liên hệ với sự nguy hiểm thế nào.
Lo sợ là một trạng thái đặc biệt ở điểm chờ đợi sự nguy hiểm, người ta chuẩn bị
để đối phó với một sự nguy hiểm mà người ta biết rõ hay không biết rõ; sợ hãi
thì phải có một vật trước mắt làm cho người ta phát sinh sự sợ hãi đó; còn như
kinh hãi thì là một trạng thái phát sinh vì có một sự nguy hiểm hiện tại và bất
ngờ: nét đặc biệt của nó là sự bất chợt. Tôi không cho rằng sự lo sợ có thể gây
ra bệnh suy nhược thần kinh ngoại thương; trong sự lo sợ có cái gì bảo vệ người
ta chống lại sự kinh hãi và chống lại bệnh suy nhược thần kinh mà sự kinh hãi
gây ra. Đây là một điểm mà sau này sẽ còn nói đến.

Nghiên cứu giấc mơ có thể là phương tiện thăm dò chắc chắn
nhất để tìm hiểu những tiến trình tâm thần sâu xa. Trong giấc mơ của những
người mắc bệnh suy nhược thần kinh ngoại thương có một điểm đặc biệt là họ trở
lại tình trạng bị tai nạn, lúc tỉnh dậy họ lại có một sự kinh hãi khác. Tiếc
rằng sự kiện ấy không làm cho người ta ngạc nhiên mấy tí. Người ta cho rằng đây
là một bằng chứng về cường độ mạnh của ấn tượng về tai nạn gây ra ngoại thương,
ấn tượng đó mạnh mẽ đến nỗi trong giấc ngủ người bệnh lại thấy nó. Như thế có
thể nói rằng tâm thần người bệnh bị cột chặt vào với ngoại thương. Về bệnh loạn
thần kinh, chúng tôi đã biết từ lâu rằng người bệnh đứng dừng lại ở biến cố
ngoại thương khiến cho họ thành bệnh. Breuer và Freud, vào năm 1893 đã nói
rằng: “Chỗ đau khổ nhất của người loạn thần kinh là họ nhớ lại.” Trong những
bệnh suy nhược thần kinh thời chiến tranh, Ferenczi và Simmel tưởng rằng có thể
cắt nghĩa một vài triệu chứng vận động[1] bằng hiện tượng
“dừng lại ở tình trạng ngoại thương.”

[1] Symptôme moteur.

Nhưng chúng tôi không hề biết có người nào mắc bệnh suy nhược thần kinh
ngoại thương mà trong lúc thức họ bận tâm nhiều đến kỷ niệm về tai nạn xảy ra
cho họ. Trái lại họ cố gắng quên đi không nghĩ đến nữa. Dù cho rằng giấc mộng
ban đêm tự nhiên đặt người vào tình trạng làm ra bệnh chăng nữa, người ta cũng
tỏ ra không biết đến bản chất của giấc mơ. Có lẽ bản chất giấc mơ của người bệnh
phải gồm những quang cảnh thuộc về thời kỳ mà họ còn khỏe mạnh hay liên hệ đến
hy vọng khỏi bệnh của họ. Tuy những giấc mơ đau khổ thường kèm theo bệnh suy
nhược thần kinh ngoại thương, nhưng chúng tôi muốn bảo vệ quan điểm của chúng
tôi – duy nhất phù hợp với sự việc có thật ngoài thực tại – theo quan điểm ấy
thì khuynh hướng trội hẳn của giấc mơ là khuynh hướng thực hiện ước vọng; muốn
bảo vệ quan điểm ấy thì chúng tôi phải chấp nhận rằng trong trạng thái ấy chức
vụ của giấc mơ, cũng như nhiều chức vụ khác, đã bị xáo trộn trầm trọng, nó đã bị đánh lạc khỏi mục tiêu của nó, hay chúng tôi phải nói đến
những khuynh hướng tự hành hạ bí hiểm (masochisme).

Bởi vậy chúng tôi đề nghị hãy gác lại vấn đề suy nhược thần
kinh ngoại thương tối tăm mờ mịt mà chỉ nghiên cứu xem bộ máy tâm thần
làm cách nào để thực hiện một công việc bình thường và sớm sủa nhất là trò chơi
trẻ em.

Những lý thuyết về trò chơi trẻ em mới đây đã được S. Pfeifer
trình bày và xét định về phương diện phân tích trong cuốn sách Imago (V,
4), tôi xin giới thiệu cuốn sách ấy với quý bạn đọc. Những thuyết ấy cố gắng
tìm ra những nguyên nhân chi phối trò chơi trẻ em, nhưng không nhấn mạnh quan
điểm điều động và tổ chức, liên lạc với việc tìm khoan khoái của đứa trẻ. Chúng
tôi không bận tâm với toàn bộ những hiện tượng ấy, chúng tôi chỉ nhân một cơ
hội thuận tiện, quan sát một đứa trẻ mười tám tháng chơi một trò thứ nhất tự nó
nghĩ ra. Không phải là một việc quan sát sơ qua, vì tôi đã sống trong nhiều
tuần lễ cùng với đứa bé và cha mẹ nó trước khi đoán ra ý nghĩa những hành vi bí
hiểm nhắc đi nhắc lại nhiều lần của đứa bé.

Đứa trẻ không có dấu hiệu gì là thông minh sớm; nó biết đi
lúc mười tám tháng, nó chỉ biết nói một vài tiếng có thể hiểu được và kêu một
vài tiếng ấm ứ mà người xung quanh nó hiểu lắm; cách đối xử của nó với cha mẹ
và người đầy tớ gái duy nhất trong nhà là rất tốt, ai cũng khen đứa bé ngoan.
Nó không quấy đêm, cha mẹ cấm sờ vào vật gì hay bước vào chỗ nào nó cũng vâng
lời, nhất là lúc vắng mẹ nó không khóc, tuy mẹ vắng mặt trong nhiều giờ và nó
bám riết mẹ, mẹ đã cho bú sữa mẹ và một mình nuôi con không có ai trợ giúp. Đứa
trẻ ngoan ấy có thói quen cầm được cái gì cũng ném vào một góc nhà hay xuống
gầm giường,… Sau này tìm kiếm và thu nhặt những vật ấy lại không phải là công
việc dễ. Khi liệng đồ vật đi xa như vậy nó nói theo một tiếng o-o-o, bà mẹ và
người quan sát nó đều đồng ý với nhau rằng tiếng kêu đó không phải là một thán
từ, mà có nghĩa tương đương với chữ “mạnh” (ném mạnh cho thật xa). Sau cùng tôi
nhận thấy đó là một trò chơi của nó, đứa trẻ chỉ dùng đồ chơi để “ném ra xa”.
Một hôm tôi quan sát thấy sự kiện sau đây, sự kiện xác định cách nhìn của tôi.
Đứa trẻ có một cái ống chỉ bằng gỗ buộc sợi dây. Nó không bao giờ nghĩ đến cách
chơi cầm đầu dây kéo theo ống đằng sau làm chơi kéo xe; nhưng nó cầm đầu dây
rồi ném ống chỉ rất khéo qua thành giường cho rớt ra ngoài khuất mắt nó. Bấy
giờ nó kêu lên tiếng o-o-o như mọi lần, sau đấy nó cầm đầu dây lôi ống chỉ lên
vui vẻ mà chào bằng tiếng “đa” (đây rồi!). Trò chơi như thế là đầy đủ, gồm có
một hồi làm biến mất đồ vật và hồi thứ hai làm tái xuất hiện đồ vật, nhưng
thường thường người ta chỉ trông thấy có hồi thứ nhất nhắc đi nhắc lại mãi đến
nhàm chán, hiển nhiên là hồi thứ hai mới làm cho đứa trẻ vui thích hơn cả.

Giải thích trò chơi ấy cũng dễ. Sự cố gắng lớn lao của đứa
trẻ có nghĩa là từ bỏ một xu hướng (sự thỏa mãn một xu hướng), và như thế để
chịu đựng tình trạng vắng mẹ mà không ta thán. Đứa trẻ tự đền bù sự vắng mặt mẹ
bằng cách tái tạo quang cảnh biến mất rồi tái xuất hiện với những đồ vật ở tầm
tay nó. Dĩ nhiên giá trị tình cảm của trò chơi không tùy thuộc sự kiện chính nó
nghĩ ra, hay người nào, cảnh tượng nào đã gợi ý cho nó. Cái chúng tôi chú trọng
đến ở chỗ khác chứ không ở chỗ ấy. Hẳn là bà mẹ đi khỏi đối với đứa trẻ không
phải là một chuyện vui vẻ hay nó chỉ dửng dưng. Như vậy thì ta làm cách nào
dùung hòa việc tái tạo một sự tình đau khổ cho nó với nguyên tắc khoan khoái?
Có lẽ người ta sẽ bảo rằng biến việc mẹ đi khỏi thành trò chơi là bởi mẹ đi
khỏi bao giờ cũng cần phải xảy ra trước rồi sau mới có lúc mẹ trở về là lúc vui
vẻ mà đứa trẻ cho là đối tượng của trò chơi. Nhưng cắt nghĩa như thế không đúng
với những điều quan sát được; hồi thứ nhất nghĩa là lúc mẹ đi, tạo cho nó một
trò chơi riêng rẽ, đứa trẻ lặp lại cảnh tượng ấy nhiều hơn cảnh tượng mẹ về và
không nhắc tới cảnh mẹ về.

Phân tích một trường hợp như thế không đủ yếu tố để kết luận
dứt khoát. Một sự quan sát vô tư sẽ cho cảm tưởng rằng nếu đứa trẻ đã lấy những
sự tình ấy là chủ đích cho trò chơi, thì đó là bởi những lý do khác. Trước biến
cố mẹ đi khỏi, nó phải chịu đựng biến cố một cách thụ động; thế mà bây giờ nó
đóng một vai trò chủ động, nó tái tạo hoàn cảnh dưới hình thức trò chơi, tuy
rằng hoàn cảnh ấy làm nó khó chịu. Người ta có thể nói rằng nó tìm cách thỏa
mãn một xu hướng thống trị (đây là làm chủ tình thế); khuynh hướng ấy muốn được
củng cố, không đếm xỉa đến chuyện nhớ lại vui hay buồn. Nhưng người ta cũng có
cách giải thích khác. Ném một đồ vật đi cho khuất mắt có thể để thỏa mãn khuynh
hướng báo thù trước mắt mẹ và tỏ cho mẹ biết rằng: “Thôi mẹ đi đi, con không
cần mẹ nữa, con cũng xua mẹ đi đó.” Vẫn đứa trẻ mười tám tháng mà tôi nói đến
trên kia, đến năm nó được hai tuổi rưỡi lại có thói ném đồ chơi xuống đất nếu
đồ chơi không vừa ý nó, vừa ném vừa nói: “Đi làm đánh trận!” Cha nó không có
nhà, người ta bảo nó rằng cha nó đi đánh trận; nó không hề tỏ ý muốn gặp cha,
nhưng tỏ những dấu hiệu có ý nghĩa chắc chắn rằng nó không muốn ai phá rối sự
độc quyền sở hữu mẹ của nó[2]. Ngoài ra chúng ta còn biết
rằng trẻ con thường có những xung động thù nghịch với người khác, nó liệng
những đồ vật đối với nó tượng trưng cho một vài người nào đó. Như vậy, chúng ta
có thể tự hỏi rằng về phương diện tâm thần, khuynh hướng đồng hóa mình với một
biến cố làm mình cảm xúc và khuynh hướng làm chủ được tình thế, có thể bộc lộ,
không đếm xỉa gì đến nguyên tắc khoan khoái chăng? Trong trường hợp chúng ta nói
đây, đứa trẻ tái tạo một ấn tượng khó chịu, có lẽ tại nó cho rằng tái tạo tình
trạng ấy là phương tiện để đạt tới sự khoan khoái nhưng trực tiếp.

[2] Đứa trẻ này mồ côi mẹ năm được năm tuổi chín tháng. Lần này
thì mẹ đi xa thật sự (o-o-o), đứa trẻ không bộc lộ chút buồn rầu nào. Vả chăng
nó đã có em và nó ghen với em đến cùng cực.

Nghiên cứu trò chơi con nít cách nào chúng ta cũng không có dữ kiện nào
chắc chắn để quyết định lấy một trong hai cách nhìn ấy. Chúng ta nhận thấy
trong lúc chơi đứa trẻ tái tạo tất cả cái gì ở ngoài đời đã xúc động nó, nó
dùng một cách tránh-phản-ứng để kháng cự cảm tưởng mạnh, nó tìm cách làm chủ cảm
tưởng mạnh đó. Nhưng mặt khác, chúng ta cũng nhận thấy một cách hiển nhiên rằng
khi lựa trò chơi, trẻ con cũng còn có một ý muốn rất mạnh mẽ đối với tuổi của
nó: ý muốn là người lớn và xử sự như người lớn. Người ta cũng nhận thấy rằng
cái gì khó chịu vẫn có thể đem biến đổi đi và diễn lại thành trò chơi. Một đứa
trẻ đau cổ họng phải đến nhờ ông thầy giải phẫu: đó là một kỷ niệm đau đớn cho
nó, nhưng nó vẫn nhớ lại và diễn lại trong lúc chơi; người ta có thể nhận thấy
trong việc diễn lại cuộc giải phẫu đứa trẻ đã tìm được sự khoan khoái gì và nguồn
gốc của sự khoan khoái ấy: trong lúc chơi, nó biến đổi sự thụ động của nó khi
chịu giải phẫu ra hành vi chủ động, nó đóng vai ông thầy để
làm cho bạn nó phải đau đớn như nó đã phải chịu, và như thế nó làm đau bạn nó
để trả thù thầy thuốc, bạn chịu tội thay thầy thuốc vì nó không làm gì được
thầy thuốc.

Dù sao thì những quan điểm trên đây cũng cho ta thấy rằng cắt
nghĩa trò chơi bằng bản năng bắt chước là đưa ra một giả thiết vô bổ. Cũng nên
nói thêm rằng khác với những gì đã xảy ra trong trò chơi của trẻ em, trò chơi
và sự bắt chước của giới nghệ sĩ trực tiếp nhắm vào cá nhân khán giả, thí dụ
trong một tấn bi kịch, người ta tìm cách truyền cho khán giả những cảm tưởng
đau đớn của mình, tuy rằng những cảm tưởng ấy là nguồn gốc những thú vui cao
cả. Như vậy, chúng ta nhận thấy, tuy rằng có nguyên tắc khoan khoái ngự ở trên,
những khía cạnh cực nhọc và khó chịu của việc đời vẫn tìm được đường lối và
phương tiện để đè nặng lên hồi tưởng của chúng ta và trở thành những đối tượng
của sinh hoạt tâm thần. Những trường hợp và tình trạng ấy có thể có kết quả
cuối cùng là tăng thêm sự khoan khoái, chúng có thể là đối tượng để nghiên cứu
quan niệm thiện mỹ của con người, đứng về phương diện điều động và tổ chức;
nhưng vì mục đích của chúng tôi, những trường hợp và tình trạng ấy không có ích
lợi gì, những trường hợp và tình trạng ấy tựu trung đã hàm ý chấp nhận rằng có
nguyên tắc khoan khoái và ưu thế của nguyên tắc khoan khoái, chúng tôi không
biết gì thêm về những khuynh hướng ở ngoài nguyên tắc đó, nghĩa là đứng độc lập
đối với nguyên tắc đó và có lẽ có tính cách nguyên sơ hơn nó nữa.

Báo cáo nội dung xấu