Cái cười của thánh nhân - Chương 11 - 12 - 13 - 14

Phần Mười Một: Bị Cọp Rượt

Một
người đi đường bị cọp rượt chạy gần trối chết.

Chạy cùng đường, anh
ta bèn nhảy đại xuống một cái hố sâu... may sao lại với được một sợi
dây leo, và đeo lủng lẳng giữa không trung.

Nhìn lên miệng hố lại
thấy một con hổ đói khác đang há miệng chờ mồi. Dòm ở đầu sợi
dây: Hai con chuột, mộtđen một trắng đang gậm mòn đầu dây... Nhìn
trước mặt: Một trái dâu rừng chín mọng...

Anh ta bèn một tay nắm
sợi dây, một tay vớ hái trái dâu... ăn ngon lành. Dâu ngọt lịm làm sao!

Lời bàn:

Cái đang tức cười trong chuyện trên đây,
là đang bị nguy hiểm bao vây, vậy mà chỉ vì một trái dâu chín mộng làm cho
anh chàng quên tất cả mọi khốn khổ bao quanh. Còn có gì ngu bằng!

Nhưng xét kĩ, trước những tai họa đang bao quanhđe dọa mạng sống anh ta
nào có tai họa nào do mình tạo ra đâu? Cọp đang đứng mé hố chực
vồ, làm sao ngăn chặn được! Hai con chuột một đen, một trắng, tượng
trưng cho thời gian âm dương nhật nguyệt gặm lần chuỗi ngày còn sống xót của
chúng ta, cũng không sao ngăn chặn được!

Như vậy chỉ chăm chăm lo nghĩ nơm nớp, sợ sệt... những
gì ngoài ý muốn và quyền hạn của ta, thì quả đáng thương hại không biết
chừng nào! Sao không thụ hưởng cái phần hạnh phúc nho nhỏ mà
cuộc đời đưa đến cho ta, vì chính những cái hạnh phúc nho nhỏ và
không đâu ấy giúp ta yêu đời ngay trong nhưng phút tuyệt vọng nhấtđời
người. Oscar Wilde có viết: "Đời chỉ là một khoảnh khắc đầy gian nguy
gồm những phút giây khoái trá" (La vie est tout simplement un mauvais
quart d'heure composé d'instants exquys). Có nhà văn khuyên ta: Nếu có cơ
hội để cười, thì cười lên, để khỏi phải khóc. Ta cũng có thể nói như
La Rochefoucauld rằng: "Cũng là hạnh phúc, khi ta biết rõ đến
mức độ nào ta phải khốn khổ" (C'est une espèce de bonheur, de
connaitre jusqu'à quel point on doit être malheureux). Có cái hạnh phúc nào mà
không nằm trên đau khổ, hay một viễn tưởng củađau khổ? Chết, đâu
có đáng sợ. Sợ chết mới đáng sợ.

Phần Mười Hai: Thổi Sáo

Tuyên Vương nước Tề thích
nghe thổi sáo, và lúc nào muốn nghe, bắt ba trăm người cùng thổi một loạt.
Trong ba trăm người ấy có Đông Quách tiên sinh không biết thổi, nhưng cũng tạm
dự để kiếm cơm.

Đến khi Tuyên Vương mất,
Mẫn Vương nối ngôi, cũng thích nghe thổi sáo, nhưng chỉ muốn nghe riêng từng
người, Đông Quách thấy thế, tìm đường trốn trước.

Lời bàn:

Thời nào, và ở đâu chẳng có hạng người như tiên
sinh Đông Quách này.
Có điều Đông Quách tiên sinh của Hàn Phi Tử có ít nhiều liêm sỉ: Biết thân
mà chuồn trước. Nhưng đó cũng là nhờ có người như Mẫn Vương biết nghe nhạc.

Phần Mười Ba: Sướng...

Mùa hè qua tháng bảy, mặt
trời đỏ ngang trời. Gió cũng không. Mây cũng không. Sân trước, sân sau,
nắng chói như lò lửa. Không một con chim nào dám bay. Mồ hôi ra khắp mình, ngang
dọc thành rãnh nước. Cơm để trước mặt, không sao nuốt được. Gọi chiếu
muốn nằm xuống đất trời đã tướt như mỡ. Ruồi xanh lại bu đến,
leo lên cổ, đậu lên mũi, đuổi chẳng buồn đi. Đương lúc không
biết làm thế nào được, bỗng dưng mây đen kéo kín, tiếng rầm rầm nghe
như có trăm vạn trống chiêng... Mái tranh chảy như thác. Mồ hôi trên mình biến
mất! Đất ráo như lau... Ruồi bay mất hết. Cơm ăn thấy ngon. Chẳng cũng sướng
sao!

... Người bạn xa mười
năm, thình lình đến vào chiều hôm. Mở cửa chào xong, chẳng kịp hỏi đi
thuyền hay đi bộ, cũng chẳng kịp mời ngồi ghế hay ngồi giường... Hàn huyên
qua loa, liền chạy mau vào nhà trong, sẽ hỏi vợ: "Mình có được như bà vợ
Tô Đông Pha, sẵn có rượu để dành không?" Vợ cười, rút cành trâm
vàng đưa cho. Tính ra có thể đãi khách được ba ngày... Chẳng
cũng sướng sao!

... Ngồi một mình trong
căn phòng không, đang nghĩ đêm qua có tiếng chuột nghe bực quá. Không
biết nó sồn sột gặm nát cái gì của mình? Trong lòng bồi hồi, chưa nghĩ ra
sao...

Bỗng thấy con
mèo đẹp, chú mắt, vẫy đuôi, như đã trông thấy vật gì. Nín tiếng,
nín hơi, đợi chờ chốc lát, thì thấy nó chồm lên, lẹ như gió... nghe một
tiếng "chít". Con vật đó đã chết rồi!

Chẳng cũng sướng sao!

... Đêm Xuân cùng các tay
hào uống đã nửa say, thôi đã khó thôi, thêm cũng khó thêm...

Bên cạnh bỗng có
một đứa trẻ hiểu ý, đưa vào hơn chục phong pháo. Liền đứng dậy
ra ngoài tiệc, lấy lửa đốt chơi! Mùi lưu hoàng xông từ mũi vào tận óc,
khắp người khoan khoái.

Chẳng cũng sướng sao!

... Qua phố thấy có hai
bác đồ gàn, cãi nhau về một chuyện... Cả hai đều đỏ mặt, tía
tai, tưởng chừng không đội trời chung. Vậy mà còn chắp tay lên, khom lưng
xuống, đầy mồm "chi, hổ, giả, dã"!

Câu chuyện còn kéo dài,
có thể mấy năm không xong.

Bỗng có tay tráng sĩ vung
tay đi lại, ra oai quát to một tiếng. Thế là nín thin thít.

Chẳng cũng sướng sao!

... Ngủ sớm vừa dậy, hình
như nghe tiếng người nhà than thở, nói chàng nọ chết đêm qua! Vội xem, té
ra một tay khôn vặt nhất trong cả một thành.

Chẳng cũng sướng sao!

... Lâu vẫn muốn đi
tu, khốn nỗi không được công khai ăn thịt. Ví cho được làm sư mà
vẫn được công khai ăn thịt, thì ngày hè ấy nước nóng, dao bén cạo sạch
tóc đầu...

Chẳng cũng sướng sao!

... Đi vắng lâu ngày mới
về... Xa trông thấy cửa thành,đàn bà, con trẻ hai bên đường, đều nói
tiếng quê nhà...

Chẳng cũng sướng sao!

... Mình không phải là
thánh, sao cho khỏi có lỗi.

Đêm qua làm lén một việc.
Sớm dậy ái náy trong lòng không yên. Chợt nhớ nhà Phật có phép sám hối: Không
hề giấu giếm điều gì cả là "sám hối".

Nhân tự đem lỗi mình
mà nói phăng ra cho tất cả khách quen, khách lạ đều biết.

Chẳng cũng sướng sao!

... Xem người
viết đại tự...

Chẳng cũng sướng sao!

... Mở cửa song giấy, thả
cho con ong ra...

Chẳng cũng sướng sao!

... Món đồ
sứ đẹp đã sứt mẻ, chả còn có cách gì hàn gắn... Xem đi xem lại
chỉ càng thêm rối ruột.

Chẳng cũng sướng sao!

Nhân giao cho nhà bếp
dùng làm đồ đựng vặt, không bao giờ lại qua mắt nữa...

Chẳng cũng sướng sao!

Lời bàn:

Phần đông chúng ta thường quan niệm hạnh phúc là
một cái gì khó tìm thấy, khó
đạt được và phải mua bằng một giá rất đắt, nhất là phải có
nhiều tiền và thế lực. Có kẻ lại cho hạnh phúc không có trên cõi đời này.

Kim Thánh Thán, trái lại, chứng minh cho ta thấy rằng
không cần tìm đâu xa cả, nó quanh quẩn bên ta hằng phút hằng giờ. Có cái
sướng nào mà không nằm trên cái khổ. Sướng và khổ không bao giờ rời nhau.
Muốn được sướng mà lánh khổ là việc làm vô lý. Vật chất là điều kiện
của tinh thần, cho nên có cái sướng tinh thần nào mà không lệ thuộc vào vật
chất? Có đói, ăn mới ngon! Ai mà không biết.

Đọc bài văn trên đây ta tưởng Thánh Thán là người
ngông, mà kì thực là
người khôn, thấy là đùa bỡn tầm thường mà rất nghiêm trang thâm thúy. Thật
vậy, từ bấy lâu nay, phải chăng phần đông chúng ta đã vô tình bỏ qua
biết bao cơ hội để hưởng hạnh phúc trong không biết bao nhiêu câu chuyện
rất tầm thường. Cái gọi là hạnh phúc, vào đâu phải ở những việc to tát
vĩ đại, mà chính ở trong những cái sung sướng nho nhỏ không đâu ấy!

Kẻ nào có những thành kiến khinh thường vật chất, muốn
có được hạnh phúc thuần túy tinh thần, khi đọc xong bài văn
trên đây ắt không thể không bật cười vì xưa nay đã quá ngây thơ,
tưởng tìm hạnh phúc trên tận cung trăng, trong khi nó đang nằm trong lòng
bàn tay của mình.

Phần Mười Bốn: Suối Trường Sinh

Miya Jima nước Nhật Bản
xưa kia là một hòn đảo nổi tiếng linh thiêng. Dân ở đảo này hầu như
không ai có quyền chết.

Đảo này là một trong ba
thắng cảnh đẹp nhất xứ Phù Tang. Toàn đảo có một ngôi đền danh tiếng ở ngay trên
bờ biển. Cửa chính của đền hướng ra biển. Những lối đi trong đền dựng
không biết bao nhiêu những cây đèn bằng đá, liên tiếp từ cửa này đến cửa khác. Nơi đây
có những con nai đi lại nhởn nhơ không chút sợ sệt sự qua lại của những
người mộ đạo. Không khí rất trong lành, biện một màu xanh biếc. Bên kia eo
biển, xa xa hiện lên những dãy núi tim tím, những cánh buồm rơm vuông vắng của
những chiếc thuyền đánh cá phản chiếu ánh sáng mặt trời, trông như
những đám lửa nhỏ nổi lên mặt nước.

Trong số dân cư ngụ
tại đảo nầy có hai vợ chồng người tiều phu già, hết sức già. Chồng là
Yoshida, vợ là Fumi. Họ được cả làng yêu mến vị nể. Ai nấy đều khen
sự kiên nhẫn chịu đựng mọi sự mà họ đã trải qua, và ca tụng sự trung
thành của hai người đối với nhau trên sáu mươi năm chung sống.

Họ không quen nhau mấy,
hồi mà cha mẹ họ quyết định sự hôn nhân. Yoshida chưa bao giờ dám nói
chuyện với Fumi, nhưng khi gặp nhau trên bãi biển thì chàng cứ nhìn nàng bằng
cặp mắt trìu mến và cứ nhìn theo nàng mãi. Nàng đi thong thả, hơi cúi về phía
trước (đó là lối đi của những thiếu nữ có giáo dục). Những ngày hội, chàng
thích tìm nàng trong đám đông để thấy khuôn mặt trái xoan của nàng, có cặp
má đào đỏ hây, cái áo dài màu ngọc trai xám có thắt ngang một cái
thắt lưng lớn, gấu áo viền bằng lụa nâu có thêu những bông cúc trắng.

Fumi cũng không khao khát
ngày cưới lắm, vì nàng biết đời nàng đã được định đoạt rồi, và mấy tháng
trước ngày cử hành hôn lễ, nàng đội cái mũ "mũ cưới" tượng trưng
cho người con gái sắp thành hôn. Bản tính Fumi dịu dàng, mà nàng vẫn sợ trước
những sự nghiêm khắc, những sự bất hòa có thể xảy ra giữa vợ chồng. Nàng nghĩ đến
câu phương ngôn: "Lòng người đàn ông dễ thay đổi như trời
thu". Nhưng nàng sẽ nhất định giữ được tình yêu của chồng bằng
sự kiên nhẫn, dịu dàng và sự âu yếm kín đáo của nàng. Nàng có biết câu
phương ngôn: "Nếu người ta ngồi ba năm trên một tản đá đó cũng
sẽ nóng..."

Cuộc hôn nhân của Yoshida
và Fumi đã được cha mẹđịnh đoạt đúng luật lệ cổ truyền,
nên được vui vẻ và tồn tại giữa hai vợ chồng. Ngay từ buổi đầu,
Yoshida yêu Fumi với tất cả mối tình nồng thắm của tuổi trẻ và Fumi đền đáp
lại bằng sự yêu kính chồng rất mực.

Họ được hưởng những
lúc vui sướng cũng như những hồi buồn bã. Vui, là họ sinh liên tiếp ba trai.
Rất buồn là ba con lúc đã trưởng thành lại bị chết một ngày vì
nghề đánh cá. Một hôm ra khơi, biển đã cướp mất cả ba người con.
Yoshida và Fumi trong lòng tan nát, cố chịu đựng trước bạn bè, gượng cười
ra vẻ thản nhiên. Nhưng khi chỉ có riêng họ, họ khóc sướt mướt. Tay áo họ luôn
luôn đẫm lệđau thương. Họ đặt bài vị ba con trên một cái bàn nhỏ bằng
gỗ quý, tại một căn phòng đẹp nhất để ngày đêm tưởng niệm. Mỗi
ngày trước bữa ăn, họ đặt thức ăn lên một cái bàn bằng gỗ sơn, đốt
hương để khấn các con về thụ hưởng. Những lúc đó họ ngồi hàng
giờ để nghĩ tới những người con đã mất.

Bây giờ chỉ còn có hai vợ
chồng, họ lấy sự kính yêu nhau làm nguồn an ủi duy nhất. Mỗi người đều
muốn làm cho người kia bớt đau khổ, họ tìm đến cách âu yếm lẫn nhau.
Dần dần tâm hồn họ bình thản trở lại, và họ trở nên kiên nhẫn. Họ lấy câu tục
ngữ sau đây để tự an ủi: "Khi hoa anh đào đã tàn,
không phải lấy sự tiếc thương mà làm cho hoa anh đào nở được".

Giờ đây họ đã
già lắm, già như những con đồi mồi cổ kính. Yoshida thì nhăn nheo, khô
héo, chân tay run rẩy, Fumi thì tóc và lông mày đã rụng nhẵn.

Người ta gặp họ đi
chơi với nhau, bước chân chập chạp, vợ đi sau chồng một chút (vì tập tục
như vậy). Thỉnh thoảng đôi cvợ chồng già này đi đến tận
ngôi đền nguy nga làm cho hòn đảo nổi tiếng khắp nước.

Ở nhà, dù Fumi đã
nhiều tuổi, vẫn cố gắng giữ gìn nhà cửa được sạch sẽ, xinh xắn. Bà ưa màu
trắng của bức tường bằng giấy và ánh sáng của chiếc chiếu mới với một ý nghĩ
rất tế nhị hòa hợp tình cảm, bà thường thay đổi sự trang trí tùy theo thời
tiết, tùy theo từng mùa hoặc tùy theo màu sắc của từng ngày, tùy theo nỗi buồn
trong tâm tưởng khi treo những bức tranh lụa trên tường, một trong cái bình
bằng đồng bà cắm ba cành hoa rất khéo léo mỹ thuật.

Đôi khi cạnh lọ hoa,
bà đặt hai pho tượng nhỏ, tượng trưng cho hai ông bà già đang quét là
thông. Đó là tiêu biểu tình nghĩa vợ chồng những cặp vợ chồng già được ví
như hai cây thông đã mật thiếc mọc liền thân với nhau đến nỗi trông
như một và cùng già bên nhau.

Cũng có khi Fumi đặt
trên bàn một pho tượng sơn, tượng một vị thần mà bà thích nhất, một vị thần rất
ngộ nghĩnh, có bộ râu dài, đội một cái mũ kì lạ, tay cầm một cái gậy, còn
tay kia cầm một quyển kinh, đó là một trong bảy vị linh thần, mà là vị
thần tượng trưng cho hạnh phúc của tuổi già.

Yoshida và Fumi kể
là đôi vợ chồng già sung sướng, biết gác ra ngoài những nỗi khổ cực của
loài người để hưởng sự yên tĩnh và thương yêu lẫn nhau.

Nhưng dù sao họ vẫn có
một mối sầu vương vấn. Bây giờ họ đã quá già, lòng luyến tiếc thời trẻ
trung xưa kia đã quá xa. Người nào cũng nghĩ rằng: Khi mà một trong hai
người chết đi, người còn sống sẽ đau khổ biết chừng nào, cô đơn
biết chừng nào! Giá bây giờ họ còn trẻ cả hai, họ sẽ hưởng được một cuộc
sống lâu dài bên nhau. Đời sống họ sẽ trở nên thơ mộng biết bao, êm đềm
biết bao!...

Một buổi thu, trời trong
sáng, Yoshida như có
một cảm hứng huyền bí gì, đi về phía rừng một mình. Nơi đây, trước
kia ông đã làm nghề đốn củi rất cần cù, bây giờ trước khi chết muốn
nhìn lại cây cối mà ông đã sống gần suốt đời.

Nhưng khi đến nơi,
ông không còn nhận ra phong cảnh xa xưa kia nữa. Ngay cửa rừng ông không còn
thấy cây Phong to lớn lá đỏ của mùa thu, nổi bật giữa đám lá thông
xanh thẫm. Ông không nhận thấy cả cái suối nước trong, trong một cách lạ lùng,
màu xanh lơ...

Sau khi đã ngồi, ông
thấy khát nước, thấy có một núi trong xanh ngay cạnh lối đi. Với hai lòng
bàn tay, ông bốc nước lên, uống thông thả...

Nào ngờ? Khi nhìn bóng
mình trong suối nước, ông thấy thay đổi hết: Tóc đã trở nên đen
nhánh, mặt hết nhăn nheo, trong người các bắp thịt có một sức mạnh đang
vươn lên. Yoshida đã trẻ lại như người mới hai mươi tuổi, ôngđã vô
tình được nước suối "trường sinh".

Khỏe mạnh, tươi
vui, đầy nhựa sống, ông già Yoshida bây giờ là một chàng thanh niên trẻ
trung yêu đời. Anh ta sung sướng chạy về nhà.

Bà già Fumi trông thấy
một thanh niên đẹp trai đi vào nhà. Bà thốt lên một tiếng:
"Ồ" rồi từ ngạc nhiên đến sợ hãi, làm bà chết đứng như
người mất trí.

Yoshida vội an ủi vợ và
giải thích rõ ràng sự may mắn vừa đến với anh.

Bây giờ đến lượt bà
lão đáng thương vừa cười vừa khóc vì sung sướng. Sáng mai bà cũng sẽ ra
cái "suối tiên" đó. Uống nước rồi, khi về, bà cũng sẽ trẻ lại như một
thiếu nữ hai mươi.

Hai vợ chồng sẽ lại sống
cuộc đời tươi đẹp, với bao sự vui thú của tuổi trẻ và sẽ hài lòng khi
nghĩ đến những kỷ niệm đã qua.

Sáng hôm sau khi nắng
hồng mới hé, sau làn không khí trong trẻo. Fumi vội vàng đi ra cái suối nước trong... Yoshida ở nhà,
anh ta đợi, không có gì sốt ruột. Anh biết rằng phải mất độ hai giờ
cho một người già để đi đến suối, và lúc về sẽ mau hơn.

Vậy mà đã hơn hai
giờ, Fumi vẫn chưa về. Yoshida ngạc nhiên: Từ suối về có bao xa, mà sao
lâu đến thế? Rồi những giờ phút trôi qua, sự sốt ruột của anh càng lúc lại
càng tăng.

Thời giờ cứ tiếp tục
trôi đi một cách tàn nhẫn, chậm chạp. Đã ba giờ qua, bốn giờ qua, năm giờ
qua... Sự gì đã xảy ra?

Yoshida không còn kiên
nhẫn hơn được nữa, vì sự sợ hãi cứ tăng dần lên. Anh đóng cửa lại rồi chạy ra
rừng.

Anh chạy vội đến chỗ
"suối tiên". Anh nghe thấy nước chảy hòa lẫn tiếng lá reo trên cành.
Chú ý im lặng tìm kiếm một vùng rộng, mà vẫn không thấy vợ đâu, anh
bắt đầu thất vọng.

Bỗng một tiếng kêu, một
tiếng rên, có lẽ một con vật bị thương... làm cho anh chú y.

Yodhida đã đến
gần bờ suối... Khi đến tận bờ, anh đứng lại, ngạc nhiên trông thấy
giữa đám cỏ cao, có một bé con... một đứa bé gái độ chừng vài
tháng, chưa biết nói, chỉ giơ tay về phía anh với vẻ thất vọng...

Yoshida bế đứa bé lên.
Nhìn vào mắt đứa bé, cặp mắt lạ lùng! Cặp mắt đó làm cho anh
nghĩ đến những kỷ niệm xa xôi của đời anh. Sao lại có cặp mắt giống
hệt cặp mắt vợ anh một cách lạ lùng đến thế? Anh đã nhận được
cặp mắt của người vợ anh: Khóc khi anh buồn, cười khi anh vui. Lòng anh xúc cảm
mạnh.

Rồi đột nhiên anh
hiểu được tất: À, ra chính đứa bé này là vợ anh, là bà vợ già của
anh, là Fumi đáng thương đã trẻ lại. Và đã trẻ quá, vì nó muốn
trẻ lại hơn chồng, nên đã uống quá độ, nên đã biến thành một đứa
hài nhi...

Yoshida thở dài,
bồng đứa nhỏ lên và mang nó sau lưng, như bà mẹ thường địu con... Anh
buồn bã trở về, nghĩ rằng, từ đây anh sẽ phải như một người cha săn sóc và
nuôi dưỡng dạy bảo đứa bé mà trước đây là vợ mình: Người bạn trung
thành của anh trên đường đời.

Lời bàn:

Văn u mặc bao giờ cũng trang nghiêm nhẹ nhàng... tuyệt
nhiên không có giọng hề chọc cười thiên hạ một cách rẻ tiền. Bài văn
trên đây là một ví dụ điển hình.

Yoshida là một tượng trưng của một hiền giả Đông
phương, biết "tri túc, tri chỉ" (biết đủ,biết dừng lại), mặc dù
cái mộng của con người, ai cũng muốn sống lâu mà không chịu già.

Nàng Fumi là đại diện tâm hồn thiết thực của loài
người nói chung, nhất là người đàn bà muôn thuở nói riêng. Có
người đàn bà con gái nào mà không sợ cảnh già, mặc dù đã da mồi tóc
bạc. Trẻ mãi là cái mộng duy nhất của người đàn bà để được yêu
thương. Sự quá đà của nàng Fumi trong vấn đề "phản lão hoàn đồng" là cái bệnh
chung của loài người. Bởi vậy, câu chuyện u mặc trên đây làm cho người ta
lỡ cười lỡ khóc

Đáng thương hại là "anh chồng" lại trở thành
"ông cha", "chị vợ" lại biến thành "đứa
con" để cho ngườiđàn ông đến bao giờ phải đóng vai của một
người bảo hộ mà tạo hóa dường như đã an bài? Đây là cái hài kịch của thiên
thu: Người chồng nào cũng phải là cha nuôi dưỡng và che chở cho người đàn
bà đã trao thân gởi phận cho mình. Và chính thế mà người đàn bà và
con gái nào cũng yên chí thiết một "ông" chồng có đủ điều
kiện để vừa làm một người chồng và một người cha với nghĩa thiêng liêng của nó.

Báo cáo nội dung xấu