Bí mật của Nicholas Flamel bất tử (Phần 3) - Chương 28 - 29

Chương hai mươi tám

Bất chợt Josh nhận
ra mình đang cầm thanh Clarent trong hai tay, mặc dầu cậu không nhớ mình đã rút
thanh kiếm ra khỏi cái ống đựng bản đồ hồi nào. Phần chuôi kiếm bọc da ấm và
khô trong lòng bàn tay mướt mồ hôi của cậu, và cậu có cảm giác nhột nhột như một
con côn trùng nào đó đang bò lít nhít trên da. Món vũ khí cổ xưa kêu lên răng rắc,
những lọn khói màu trắng xám cuộn khỏi thanh kiếm trong khi những tinh thể nhỏ
li ti ă vào mặt đá chợt lấp lánh ánh sáng đỏ và đen.

Một luồng cảm
xúc và ý tưởng hầu như muốn nhấn chìm, áp đảo cậu. Tất cả đều không phải là ý
tưởng của cậu, và bởi vì cậu từng xử ly thanh kiếm này trước đây, và đã từng trải
nghiệm các cảm xúc của thanh kiếm, nên cậu nghĩ chúng không thuộc về thanh kiếm.
Những cảm giác này mới mẻ và lạ lẫm lắm. Cậu cảm thấy... khác lạ: tự tin, sung
sức và mạnh mẽ. Và cả giận dữ nữa. Trên hết thảy mọi cảm giác khác, cậu cảm nhận
một cơn giận kinh khủng. Cơn giận nung đốt trong vùng lõm thượng vị, khiến cậu
đau đớn gấp đôi. Cậu thật sự có thể cảm thấy một sức nóng chảy tràn lên từ dạ
dày cậu đi vào ngực và lan xuống hai cánh tay. Bàn tay cậu nóng ran đến mức gần
như khó chịu, và rồi làn khói rỉ ra khỏi thanh Clarent bỗng đổi màu, hóa thành
một màu đen ánh đỏ đáng sợ. Thanh kiếm giật giật trong bàn tay cậu.

Cơn đau biến mất,
và khi vươn thẳng người lên, Josh thấy mình không chút sợ hãi. Tất cả những nỗi
kinh sợ của năm ngày qua giờ biến mất sạch.

Cậu nhìn quanh,
đánh giá hàng rào phòng thủ và quân số của nhóm bảo vệ. Cậu không biết gì về
quy mô của đạo quân họ đối đầu, và màu dầu pháo đài kim loại này được xây dựng
rất tốt, nhưng theo bản năng, cậu biết không thể nào giữ vững đến rạng đông được.
Nó được thiết kế để chống lại với kẻ tấn công là những con người bình thường. Cậu
bất giác ngước nhìn lên, cố gắng phán đoán thời gian bằng vào vị trí của các
ngôi sao, nhưng chúng bị khuất dưới những tầng mây nhuộm màu hổ phách... và rồi
cậu chợt nhớ rằng mình đang đeo đồng hồ kia mà. Tám giờ hai mươi lăm. Ít ra còn
chín tiếng nữa mới đến rạng đông, khi đó bọn Wild Hunt mới rút quân về Vương quốc
Bóng tối mông muội của chúng.

Gõ nhè nhẹ thanh
kiếm đá vào lòng bàn tay trái, cậu nhìn khắp lượt, mắt nheo lại. Cậu sẽ làm thế
nào để tấn công vào một nơi thế này? Có lẽ Scathach biết; có thể Nữ Chiến binh
sẽ bảo cho cậu biết chúng tân công dựa vào cái gì và thoạt tiên xuất phát ở
đâu. Cậu dự đoán rằng các kẻ tấn công sẽ không sử dụng các công cụ bao vây, như
vậy việc đột chiếm các bức tường sẽ mất nhiều thời gian và hao phí công sức. Có
thể Thần Sừng cần phải tạo ra một kẽ hở...

Và rồi đột nhiên
Josh nhận thấy rằng cậu không cần Nữ Chiến binh chỉ dẫn cho cậu nữa. Cậu đã biết,
Sophie nói đúng: khi Mars đánh thức cậu, ông ta đã chuyển kiến thức quan sự của
ông ta qua cho cậu.

Josh quay sang
quan sát Palamedes và Shakespeare. Nhóm Gabriel Hounds đã trèo dọc lên các bức
tường kim loại và kết hợp với những người đã ở sẵn trên những bờ công sự trước
đó rồi. Tổng cộng có lẽ có chừng một trăm chiến binh, và Josh biết rằng bấy
nhiêu không thể đủ được. Tất cả họ đều được trang bị cung và tên, nỏ và giáo
mác. Tại sao không có vũ khí hiện đại nhỉ? Cậu băn khoăn tự hỏi. Những người bắn
cung đều có một nắm tên trong ống đựng tên của mình, những binh sĩ dùng giáo mỗi
người có hai hoặc ba ngọn giáo. Mỗi khi họ bắn hết những mũi tên đi hoặc phóng
hết mấy ngọn giáo ra, thì họ trở thành người vô dụng. Họ buộc phải đứng đó và
chờ kẻ tấn công ra tay thôi.

Josh phát hiện
mình đang quay người ra phía cổng, và tự dưng cậu giơ bàn tay lên, chỉ đầu mũi
kiếm vào lối ra vào. Cậu biết rằng phần yếu nhất của bất cứ pháo đài nào đều là
cánh cổng của nó. Đôi ôi Josh vặn vẹo lại thành một nụ cười đáng sợ. “Hắn ta sẽ
tập trung công kích vào đây,” cậu vừa nói trống không, không nhắm vào ai, vừa
nhìn chết trân vào cánh cổng, và một lọn khói màu đen xám cuộn khỏi thanh kiếm,
như muốn bày tỏ sự đồng ý với cậu. Đây chính là nơi Thần Sừng cố mở lối.

Vào đúng lúc đó
một cú đấm giộng vào những cánh cổng mạnh đến nỗi làm những bức tường rung lên.
Những chiếc xe hơi bung ra khỏi chỗ và xê dịch trong cái đống cao nghều ấy. Lại
một cú đánh nữa, như thể có một cái búa đóng cọc nên liên tục, làm rúng động cả
màn đêm. Đâu đó bên phía tay phải, một chiếc xe hơi ngã lăn kềnh và đổ sầm xuống
đất. Kính vỡ loảng xoảng.

Con hươu đực lại
gào thét lên lần nữa, một thứ âm thanh ngập đầy năng lượng còn thô nguyên.

Thanh Clarent có
vẻ như phản ứng với âm thanh này. Nó giật giật và thậm chí còn lật giở trong
lòng bàn tay Josh. Hơi nóng cuộn quanh cổ tay cậu và đột nhiên luồng điện cậu nổ
lốp bốp một màu da cam.

“Josh...” Sophie
thì thầm.

Josh quay lại
nhìn cô chị sinh đôi và thấy cô bé đang nhìn chằm chằm vào hai tay cậu. Cậu
nhìn xuống. Một đôi găng sắt đã hiện lên trên bàn tay ngay nơi chỗ cậu giữ chặt
thanh kiếm đá. Đôi găng trông như một cặp găng bằng da mềm, chúng ta bị đổi màu
và mòn vẹt, lớp da bị cào xước, lốm đốm như dính bùn đất.

Một cú giộng dữ
dội đánh vào cánh cổng.

“Chúng ta không
đủ quân để giữ vững những bức tường này,” Josh thốt ra những suy nghĩ của mình.
Cậu lấy thanh Clarent mà chỉ. “Palamedes và Shakespeare nên mở các cổng ra.
Nhóm Gabriel Hounds có thể lần lượt bắn gục từng tên tấn công khi chúng túm tụm
đi vào lối hẹp.”

Flamel bước tới
và giơ tay kéo Josh. “Chúng ta cần phải ra khỏi đây.”

Ngay lúc các
ngón tay ông chạm ào vai cậu con trai, luồng điện của Josh vụt mạnh lên cao bao
quanh lấy cậu, những sợi năng lượng màu vàng bò khắp ngực và cánh tay cậu. Nhà
Giả kim rút mạnh tay về và mấy ngón tay ông chừng như muốn phỏng. Thanh kiếm đá
chớp nhoáng lóe lên màu vàng kim, rồi nhạt dần đi thành một màu đen lốm đốm đỏ
đầy đe dọa khi một luồng cảm xúc ập đến khi Josh phải sửng sốt.

Sợ hãi. Một nỗi sợ hãi kinh khủng ám ảnh
toàn thân về những sinh vật hình dáng như quái thú và những con người mờ ảo.

Mất mát. Vô số những khuôn mặt, đàn ông, đàn
bà và trẻ con, gia đình, bạn bè và xóm giềng. Tất cả đều chết hết.

Giận dữ. Cảm xúc phủ lấp trên hết thảy chính
là cơn giận - một cơn thịnh nộ sục sôi, làm tan nát tâm can.

Cậu con trai chầm
chậm quay sang nhìn người bất tử. Mắt họ dán vào nhau. Ngay lập tức Josh biết đến
những cảm xúc mới mẻ này không có gì liên quan đến thanh kiếm. Cậu đã cầm giữ
thanh Clarent trước đây rồi và dần nhận ra bản chất kỳ quặc và kinh tởm trong
ký ức và cảm giác của nó. Cậu biết rằng những gì cậu vừa trải nghiệm là những ý
nghĩ của Nhà Giả kim. Khi người đàn ông này chạm đến cậu, cậu đã cảm nhận được
nỗi sợ hãi, sự mất mát và cơn giận dữ của Flamel, và cũng còn có cái gì khác nữa:
chỉ trong một giây thôi, cậu có một cảm giác mơ hồ như những bóng ma về bọn trẻ
con... rất nhiều trẻ con, ăn vận quần áo, trang phục của cả chục quốc gia xuyên
khắp mấy thế kỷ. Và khi người bất tử rụt tay về, vẫn còn đọng lại trong Josh một
ấn tượng rằng tất cả bọn trẻ đều là những cặp song sinh.

Josh bước một bước về phía Nhà Giả kim và vươn
bàn tay ra, các ngón tay căng xòe. Có lẽ nếu cậu chỉ việc chạm vào ông và giữ
thật chặt, thì cuối cùng cậu sẽ có được vài câu trả lời. Cậu sẽ biết được sự thật
về người bất tử Nicholas Flamel.

Nhà Giả kim bước
lùi lại cách Josh một bước. Dù môi ông vẫn cong lên thành một nụ cười, nhưng
Josh lại trông thấy bàn tay của người đàn ông lớn tuổi nắm chặt thành hai nắm đấm
và cậu bắt được một thoáng ánh sáng lóa lên khi các móng tay ông hóa thành màu
xanh lá. Hương bạc hà gợn vương trong không khí, nhưng nghe chua chua và đăng đắng.

Một tiếng đổ vỡ
loảng xoảng nữa làm rung chuyển bãi để xe và cánh cổng rung lên bần bật trong
dàn khung cửa. Kim loại phá ra tiếng rin rít chói tai và kêu rổn rảng khi đạo
quân Wild Hunt lao đến ào ào, nạo kèn kẹt và quào cấu vào các bức tường. Josh
ngần ngừ do dự, giằng co không biết nên thúc đẩy một cuộc đối đầu với Nhà Giả
kim hay là dồn sức xử lý cuộc tấn công này. Chợt nảy ra trong đầu một điều đã
có lần ba cậu nói với cậu. Hồi ấy hai cha con đi trên bờ sông Tennesse và đang
bàn về Trận đánh Shiloh thời Nội chiến. “Lúc nào cũng vậy, tốt nhất là mỗi lần
chỉ đánh một trận thôi, con trai ạ,” ba nói. “Mình sẽ thắng nhiều hơn nhờ vào
cách đó.”

Josh quay người
đi chỗ khác. Cậu cần phải nói chuyện với Sophie, kể cho cô bé nghe những gì cậu
vừa nếm trải, và rồi hai đứa sẽ cùng nhau đương đầu với Flamel. Cậu lao người tới
Palamedes. “Chờ đã,” cậu kêu lên, “đừng bắn!”

Nhưng chưa kịp
ngăn Palamedes, thì Josh đã nghe giọng trầm trầm của Hiệp sĩ Saracen cất lên,
to và rõ vang qua tận bên kia bãi phế liệu.

“Bắn!”

Quân lính bắn
cung trên bờ công sự nhất tề bung thả các mũi tên, những mũi tên rú nhè nhẹ và
kêu lên vun vút khi chúng xé gió lao mất hút vào màn đêm.

Josh cắn môi. Họ
nên tiết kiệm đạn dược, nhưng cậu phải công nhận Hiệp sĩ Saracen đã biết được
chiến thuật của cậu. Thoạt tiên là tên, rồi đến giáo, trong khi những cây nỏ cực
mạnh nhưng có tầm ngắn luôn được để dành trong mô hình trận có hàng ngũ siết chặt.

“Giáo,” Hiệp sĩ
Saracen hô lên. “Phóng!”

Nhóm Gabriel
Hounds từ trên những bờ tường liền phóng xuống những ngọn giáo rất dài có hình
phiến lá.

Josh nghiêng
nghiêng đầu, lắng nghe, tập trung hết các giác quan đã được nâng cao của mình,
nhưng cậu không nghe được âm thanh gì từ bên lực lượng tấn công cả. Có vẻ như
không thể tin được, nhưng thật tình, quân Wild Hunt đang di chuyển và chiến đấu
trong sự im lặng tuyệt đối.

“Chúng ta phải
đi thôi,” Nicholas hối thúc.

Josh phớt lờ. Rồi
cậu nghe tiếng những cái móng lởm chởm và những hàm răng cắn xé vào lớp kim loại,
bóc toạc ra một khoảng hàng rào, quật tơi bơi vào những chiếc xe hơi đang chất
đống.

“Tên,”
Shakespeare hô lên từ một phía khác của bức tường. “Bắn!”

Một cú đập như
trời giáng làm rung chuyển cánh cổng.

“Cánh cổng,”
Josh hét to, tiếng cậu mạnh mẽ và oai vệ làm sao. “Bọn chúng đang xông qua đường
cổng!”

Cả Palamedes và
William Shakespeare đều quay người nhìn vào cậu bé con.

Thanh Clarent
chiếu sáng rực một màu đen ánh đỏ trong tay cậu khi cậu bé đưa tay chỉ. “Tập
trung vào cổng. Đó là nơi bọn chúng sẽ cố sức phá tung.”

Palamedes lắc đầu,
nhưng ngay lập tức Đại thi hào bắt đầu di chuyển nhóm Gabriel Hounds theo lệnh
cậu tiến về phía cánh cổng.

Thanh Clarent
lóe lên mau đỏ tươi, đang giật giật trong tay cậu, và Josh bất giác tiến một bước,
hầu như thể chính thanh kiếm lôi kéo cậu tiến đến gần quân thù hơn.

“Thêm một cú nữa,”
cậu lẩm bẩm.

Chương hai mươi chín

“Thêm một cú nữa,”
Dee làu bàu.

Dee và Bastet đứng
lên yên lặng quan sát đạo quân Wild Hunt lao mình vào mấy bức tường kim loại.
Không như những con sói bình thường, các sinh vật này chuyển động mà không hề sủa
hoặc thậm chí một tiếng gầm gừ cũng không; chỉ có âm thanh duy nhất là tiếng
móng vuốt của chúng gõ lách cách trên vỉa hè. Hầu hết đều nhảy cẫng lên bằng cả
bốn chân, nhưng một số lại chạy trên hai chân, gập người lại rồi lao tới, và
Dee tự hỏi không biết đây có phải là nguồn gốc của truyện thần thoại kể về ma
sói không nữa. Những con chó, bọn Gabriel Hounds, luôn luôn bảo vệ loài người;
trong khi những con sói của đạo quân Wild Hunt thì lúc nào cũng săn đuổi họ.

Khoảng chừng một
trăm con sói nhanh nhẹn hơn đã cào được lối qua hàng rào và leo dọc theo những
chiếc xe hơi đang chất thành đống. Và rồi quân bảo vệ đã xuất hiện ngay nơi bờ
công sự. Những mũi tên bay vèo vèo cắm vào hàng thư nhất của quân Wild Hunt, và
ngay khi những mũi tên chạm vào những con sói mặt người, các sinh vật này liền biến đổi. Dee thoáng thấy hình ảnh những
con vượn người, những sĩ quan chỉ huy người La Mã, những chiến binh Mông Cổ,
người hang động Neanderthal, các sĩ quan Phổ, và những Người Tóc ngắn* ở Anh...
và rồi tất cả đều tan thành bụi bay biến vào không trung.

* Chỉ những người ủng hộ Nghị viện và chống
lại Charles I trong cuộc nội chiến năm 1682 ở Anh.

“Cernunnos chỉ
lãng phí quân đội của mình thôi,” Bastet nói gọn lỏn. Mụ ta bước lùi vào bóng tối
và hầu như hoàn toàn mất dạng, bó mình trong chiếc áo choàng dài thượt bằng
lông vũ đen nhánh.

“Đó là một sự
điên cuồng quẫn trí,” tay Pháp sư buột miệng nói trỏng, không nhìn bà Elder.
Đây là lần đầu tiên bà ta mở miệng kể từ lúc bị Quan chấp chính làm cho xấu hổ,
và Dee gần như có thể cảm thấy được cơn thịnh nộ bùng lên trong lòng bà thành
những ngọn sóng ngầm. Tay Pháp sư e rằng không có ai - hay cái gì - từng nói với
bà Elder này như vậy mà vẫn còn có thể còn sống sót được. Hắn cũng ý thức được
rằng hắn đã chứng kiến phải nỗi bẽ mặt của ba ta; Bastet sẽ không bao giờ quên
chuyện đó đâu. Từ nơi khóe mắt, hắn có thể nhìn thấy một cái đầu mèo thật lớn
đang quay xuống nhìn hắn.

“Những tên lính
tấn công vào mấy bức tường chỉ là quẫn trí thôi,” hắn nhanh nhảu nói thêm, như
tự giải thích với chính mình. “Cuộc công kích chủ yếu sẽ xảy ra ở cánh cổng kia
kìa.” Hắn dừng một chút, rồi nói tiếp. “Tôi cho là không gì có thể làm hại nổi
Quan nhiếp chính đâu nhỉ?”

Đôi mắt Bastet
nheo lại chi còn hẹp như những lằn rạch. “Lão đang sống,” mụ ta rít lên. “Và vì
thế không thể chết được.”

“Tôi nghĩ các Quan
chấp chính chỉ có trong truyện kể thôi chứ,” hắn nói nhanh. Dee băn khoăn không
biết nữ thần đầu mèo này biết được bao nhiêu về sinh vật kia.

Bà Elder lặng
yên một chút rồi mới trả lời. “Từ hồi còn trẻ, tôi đã được dạy rằng ở giữa lòng
mọi câu chuyện kể đều có hạt giống của sự thật,” bà ta nói.

Dee thấy thật khó hình dung được nữ thần đầu
mèo trông ra sao khi còn trẻ; trong đầu hắn hiện ra một hình ảnh bất ngờ thật
ngớ ngẩn của một cô mèo con lông trắng tinh mềm mịn. Có phải đó là Bastet khi
còn trẻ - hoặc là khi bà mới sinh, hoặc mởi nở, hoặc đã trưởng thành? Có quá
nhiều thứ hắn muốn biết. Đôi mắt hắn nheo lại khi hướng qua bên kia con phố
nhìn về phía Cernunnos. Và bây giờ ở đây lại có một điều thần bí mới nữa: Quan
chấp chính. Dee đã trải qua mấy quãng đời chuyên nghiên cứu truyện thần thoại kể
về các Elder. Thi thoảng, hắn tình cờ bắt gặp những mẩu chuyện kể về giống loài
huyền bí từng cai trị trái đất này trong quá khứ xa xôi, lâu lắm trước cả khi
các Elder Vĩ đại nâng Danu Talis lên khỏi đáy biển. Người ta cho rằng các Elder
đã xây dựng đế chế của họ trên những mảng công nghệ rời rạc của Quan chấp chính
và thậm chí còn chiếm lấy và định cư ở một số thành phố đã bị nòi giống cổ xưa
vứt bỏ. Nhưng làm thế nào một người như thế lại mắc nợ một Elder? Chắc chắn các
Quan chấp chính phải có nhiều quyền lực hơn những người dưới quyền họ chứ? Các
Elder, ngay cả Thế hệ Kế tiếp, vẫn hoàn toàn có nhiều quyền lực hơn giống người
đã từng theo chân họ bước vào thế giới này.

Tay Pháp sư quan
sát Quan chấp chính nhấc cây gậy khổng lồ lên và khiến nó như bừng sống dậy bằng
một cú dập khủng khiếp vào cánh cửa kim loại trông rất rắn chắc. Âm thanh như
tiếng nổ vang lên trong đêm tối và một tiếng rít của những tia lửa nóng sáng phụt
vào không trung. Cánh cửa lắc mạnh và kêu kẽo kẹt, khi Cernunnos giật mạnh cây
gậy về, đầu gậy đã bóc toạc đi những dải kim loại dài, và để chúng lủng la lủng
lẳng ở đó. Sinh vật mang sừng khổng lồ này thả cây gậy xuống, chụp ngay lấy hai
bên cánh cửa bị rách bươm rồi vừa xoắn vặn ra thành từng mảnh, vừa lột ngược lớp
kim loại ra từng miếng mỏng như giấy.

Đứng lùi lại,
Cernunnos để cho đạo quân Wild Hunt phóng ào qua lỗ hở lởm chởm nham nhở kia.
Sinh vật ấy quay người nhìn Dee và Bastet, khuôn mặt xinh đẹp của lão sáng bừng
một nụ cười rạng rỡ. “Đã đến giờ ăn tối,” lão nói.

Báo cáo nội dung xấu