Công tước của riêng em - Chương 30 + 31

Chương 30

Dinh thự Knole, điền trang của công tước
Gilner.

Ngày 23 tháng 06 năm 1784.

“Tôi không thể đánh nhau với anh,” Leopold
nói thẳng thừng. Mặt trời mới ló dạng trên đường chân trời và không khí vẫn còn
lạnh giá.

“Tôi đâu có cho anh lựa chọn,” Astley nói.
Anh ta đang đi tới đi lui trên bãi cỏ ướt, kiếm đã sẵn sàng ngoài bao.

“Tôi là một người cha.”

“Đáng nhẽ anh phải nghĩ tới điều đó trước
khi cám dỗ Eleanor. Trước khi làm cô ấy yêu anh rồi lại chọn một người điên
loạn trí chứ không phải cô ấy.”

“Tôi có thể giết anh đấy. Tôi hiếm khi
thua.”

Astley bắt đầu đi về hướng ngược lai, ước
lượng khoảnh đất. “Ada đã chết. Cái chết không làm tôi sợ hãi đâu.”

“Tôi tưởng anh yêu Eleanor.”

Mặt Astley rúm ró lại một lúc. “Đúng vậy.
Nhưng tôi cũng yêu Ada. Eleanor đã đúng về điều đó. Nó quá phức tạp…” anh ta
lắc người và liên tục đi đi lại lại.

“Nếu giết anh thì tôi sẽ phải rời đất nước.
Nhưng bọn trẻ…”

“Hãy mang chúng theo cùng anh. Anh không
thể bảo tôi là sẽ có người quan tâm đến việc anh rời đi chứ chưa nói đến là
chúng. Anh ư? Công tước Villiers? Anh không có người thân nào ngoài đám con
hoang đó. Mọi người sẽ vui mừng khi thấy anh mang chúng rời đi và khỏi xã hội
đứng đắn này.”

“Anh sẵn sàng đánh nhau chưa?” Villiers
nói, một con sóng băng giá tràn vào khắp huyết quản của anh. Astley nói đúng. À
cũng gần đúng. Elijah và Jemma sẽ quan tâm nếu anh phải rời khỏi Anh quốc vĩnh
viễn. Nhưng không còn ai khác nữa.

Thật ra thì có khi thế sẽ tốt hơn cho
Eleanor. Cô thậm chí còn không phải gặp anh. Anh đã không thể ngủ nổi, dần dần
lĩnh hội được sự ngu ngốc thê thảm của mình. Anh đã hắt hủi Eleanor vì nghĩ
rằng Lisette sẽ trở thành một người mẹ tốt hơn cho bọn trẻ. Nhưng Lisette, giờ
anh đã hiểu, xem trẻ con như thể chúng là bạn chơi – hoặc tệ hơn là đồ chơi.

Suốt thời gian đó, Eleanor chính là người
mẹ chúng cần. Một người phụ nữ nhìn thẳng vào rắc rối, thậm chí là không nói
dối hay giả vờ. Tobias cũng biết điều đó. Khỉ thật, thậm chí đến Hàu cũng biết
cô hoàn hảo đến mức nào.

Vậy vì sao anh lại ngu ngốc đến thế? Vì sao
anh lại là người duy nhất không biết một người mẹ là như thế nào?

Nhưng đó cũng chỉ là một câu hỏi lạc đề,
câu hỏi thật sự là vì sao anh lại là người duy nhất không biết tình yêu
là như thế nào. Người không nhận ra rằng trái tim này, cái bộ phận bướng bỉnh
mà anh luôn lời đi, sẽ khô héo vì đau đớn trước ý nghĩ không bao giờ gặp lại
Eleanor nữa?

Vì sao anh không thể biết từ trước rằng đó
là tình yêu thật sự. Tình yêu thật sự. Thứ tình yêu sẽ không bao giờ biến mất.

“Bắt đầu đi!” Astley kêu lên.

Leopold nâng kiếm, vẫn trầm tư.

“Tôi hoàn toàn có ý định giết anh đấy,”
Astley nói một cách phấn khởi. “Có lẽ anh nên tập trung vào.”

Leopold nhìn vào mắt Astley và thấy quyết
tâm của anh ta. “Nếu sự kiện đó xảy ra thì anh sẽ là người rời khỏi đất nước.”

“Không ai quan tâm tôi làm gì đâu,” Astley
nói. “Mẹ tôi đã mất. Cha tôi đã mất. Eleanor không còn yêu tôi nữa. Tôi không
muốn tỏ ra giống một thằng bé hay rên rỉ nhưng tôi không còn chút hứng thú nào
với việc nhìn thấy ngày mai nữa rồi. Và nếu tình cờ mà tôi còn sống để nhìn
thấy nó thì việc tôi ở Anh hay ở Ấn Độ đều không quan trọng.”

“Khỉ thật,” Leopold lầm bầm. Người đàn ông
này đang phát điên vì đau khổ. Anh đã từng nhìn thấy vẻ mặt đó trước đây, trên
mặt cô anh – trong đám tang đứa cháu trai năm tuổi của anh.

Anh vào thế.

Rõ ràng là Astley chẳng mấy khi luyện tập.
Và anh ta đánh cũng không giỏi lắm. Trong những tình huống khác, Leopold có thể
chọn một điểm để đâm kiếm vào và làm vị công tước này bị thương trong chưa đầy
một phút. Nhưng sự đam mê, có vẻ như thế, đã thay đổi mọi thứ.

Anh thấy mình phòng thủ là chính, tránh
những cú đâm non nớt của Astley. Nó khó khăn một cách đáng ngạc nhiên, có lẽ là
vì Astley không phải một kiếm thủ giàu kinh nghiệm. Anh ta chỉ gạt kiếm đi như
thể Leopold là một hàng giậu mà mình đã quyết định tỉa bớt.

Trong vòng mười phút cả hai đều đổ mồ hôi
trong luồng không khí vẫn còn lạnh lẽo. Nhưng Leopold không thể để tâm vào cuộc
đấu bất kể anh có cố gắng thể nào. Anh liên tục nghĩ ngợi về sự ngu ngốc của
bản thân. Dường như anh không có khả năng tin tưởng vào bản năng của mình.

Trái tim của anh.

Anh lùi lại một bước. Astley lao bổ vào
anh, kiếm nâng lên như một thiên thần báo thù.

Leopold ném kiếm của mình xuống.

Astley cố dừng lại nhưng bị trượt đi trên
nền cỏ ướt rồi ngã vật xuống, kiếm chĩa lên trời. Leopold chìa tay ra cho anh
ta. Astley lờ nó đi và nhỏm dậy, thở hổn hển.

“Anh đang làm cái quái gì đấy?” anh ta hỏi.

“Tôi từ chối đánh nhau,” Leopold nói, chắc
chắn về sự đúng đắn tuyệt đối của quyết định đó.

“Tôi có phải tát anh thêm một lần nữa
không?”

“Anh có thể thử. Nhưng tôi sẽ không đánh
nhau với anh. Thách đấu là để bảo vệ danh dự của bản thân,” anh nói một cách
khó nhọc.

“Anh không nghĩ là mình cần bảo vệ danh dự
của bản thân sau việc đã làm ư?”

“Tôi không nghĩ là mình có danh dự.”

Anh nhấc kiếm lên và kéo áo ra khỏi quần để
lau sương trên lưỡi kiếm.

Một khoảng im lặng kỳ cục ngắn ngủi xuất
hiện trong bãi cỏ, chỉ chấm dứt bởi tiếng ca của một con chim chiền chiện từ bờ
sông.

“Anh có thể giết tôi nếu muốn,” Leopold nói
thêm.

“Ôi, vì Chúa,” Astley ngồi xuống một tảng
đá bên bờ sông, rồi nói, “cánh tay tôi nhức quá.”

“Anh nên tìm thầy dạy đấu kiếm,” Leopold
nói. “Anh không kém đâu.”

“Để làm gì? Phòng trường hợp tôi tìm được
danh dự của bản thân ở chỗ khác ư?”

Mắt họ cùng chứa một cảm nhận – hối tiếc.
Cả hai đều là những người đàn ông may mắn nhất, ngu ngốc nhất vương quốc.

“Cô ấy yêu anh. Anh có thể giành lại cô
ấy,” Astley khuyên Villiers.

Leopold lắc đầu. “Giờ Eleanor sẽ không bao
giờ tin rằng tôi yêu cô ấy. Cô ấy nghĩ rằng mình chẳng hơn gì một bà mẹ về nhì,
rằng tôi sẽ không bao giờ muốn cưới cô ấy cho tới khi nhìn thấy Tobias quý cô
ấy đến thế nào.”

“Còn tệ hơn, nhiều khả năng là Eleanor nghĩ
giờ anh chỉ muốn cô ấy vì Lisette đã chứng minh rằng cô ta điên rồ thế nào.”

“Tôi không biết phải làm gì nữa.”

Astley đứng dậy với một tiếng rên nhỏ.
“Lưng tôi!”

“Tìm thầy đi,” Leopold nói, ngẩng lên.
“Không phải để bảo vệ danh dự của anh mà vì đó là một môn thể thao tốt.”

“Tôi biết rồi,” Astley nói, chậm chạp đi về
phía ngôi nhà.

Anh ta dừng bước rồi ngoái lại nhìn. “Nếu
tôi là ngài, công tước, tôi sẽ đấu tranh vì cô ấy.”

Mắt Leopold nhìn xuống lưỡi kiếm của mình.

“Không phải bằng cách đó,” Astley nói với
vẻ chán ghét.

Và rồi anh ta bỏ đi.

Chương 31

Dinh thự ở Luân Đôn của công tước Montague.

Ngày 6 tháng 08 năm 1784.

Nữ công tước Montague mất gần sáu tuần để
rơi từ trạng thái sung sướng vô ngần xuống đau khổ tột bậc. Ban đầu bà không
tin vào tuyên bố từ chối lời cầu hôn đến từ Gideon của Eleanor, dù cho anh có
tuân thủ nghiệm ngặt nghi thức một năm để tang. Sau khi hiểu và chấp nhận điều
đó, bà nhảy sang ý tưởng con gái mình cưới Villiers, dù có phải nuôi con hoang
hay không. Cam chịu sắc lệnh cuối cùng của Eleanor liên quan đến vị công tước
thứ hai dẫn tới việc rền rĩ và nghiến răng kèn kẹt của bà. Theo đúng nghĩa đen.

Sự đau buồn phủ khắp ngôi nhà như một tấm
vải liệm. Nữ công tước vật vờ đi từ phòng này sang phòng khác, mặt bà pha trộn
giữa vẻ buồn nản và phẫn nộ.

“Đừng tưởng con có thể sống với anh trai cả
đời!” bà nói đinh tai nhức óc trong một bữa sáng. “Mẹ sẽ không để cuộc sống của
anh con bị phá hoại vì phải cùng sống với một cô em ế chồng đâu. Cuộc hôn nhân
của mẹ hẳn đã bị hủy hoại nếu cô con sống cùng chúng ta.”

“Con định cưới mà,” Eleanor nói một cách
điềm tĩnh, nhắc lại điều cô đã nói đến vài trăm lần trong những tuần qua. “Chỉ
không cưới một công tước thôi.”

“Hai vị công tước! Hai vị công tước đã hỏi
cưới con vậy mà con từ chối cả hai!”

Câu ca thán đó giờ nghe cứ như bài hát ru
đối với Eleanor, quen thuộc đến mức cô thậm chí còn chẳng thèm nghe nữa. “Điều
tốt đẹp duy nhất xuất hiện trong thảm họa này là con đã thoát khỏi con chó kinh
khủng đó, dù cho mẹ thề là cái thảm Aubusson trong phòng khách vẫn còn mùi.”

Rồi bức thư đó đến.

Thân gửi tiểu thư Eleanor Lindel,

Tôi hy vọng em sẽ lượng thứ cho sự cả gan
của bức thư này. Chúng ta đã khiêu vũ với nhau một lần trong quá khứ, dù tôi
khá chắc chắn rằng em hầu như không chú ý đến sự hiện diện của tôi. Về phần
mình, khi đó tôi không thể bộc bạch sự ngưỡng mộ của mình bởi tôi phải thay mặt
Đức Vua công tác ở nước ngoài. Giờ tôi đã quay lại Anh quốc và do đó tôi táo
bạo muốn hỏi, như tôi đáng ra đã làm ba năm trước, liệu em có thể tốt bụng cùng
tôi đi dạo tới vườn Kensington hay không?

Thân mến. Josiah Ormston

“Chị nên đi,” Anne nói, đọc qua vai cô. “Rõ
ràng là anh ta đã nuôi dưỡng tình cảm cho chị suốt từng ấy thời gian. Nó sẽ làm
chị vui lên. Chị có biết anh ta là ai không?”

“Không, chị không biết. Và nó sẽ không làm
chị vui lên đâu,” Eleanor nói đều đều.

Thân gửi anh Ormston,

Không một tiểu thư nào lại thấy sỉ nhục khi
biết rằng một quý ông vẫn còn nhớ tên cô ấy qua ba năm trời. Dẫu vậy, tôi vẫn
xin anh lượng thứ. Vì tôi không mang ký ức giống như anh, tôi sẽ cảm thấy thật
sự kỳ cục khi cùng anh đi dạo. Có lẽ chúng ta sẽ thiết lập lại sự quen biết khi
mùa vũ hội bắt đầu.

Tiểu thư Eleanor

“Không thèm bận tâm đến sự thật là con sẽ
là gánh nặng cho cả gia đình suốt đời!” nữ công tước rên rỉ khi biết về bức
thư. “Điều tối thiểu con có thể làm là cưới một người trên tầng lớp thương
nhân. Dù nếu có ngày cha con trở về từ nước Nga, mẹ sẽ bảo ông ấy đề nghị với
người trong tầng lớp đó. Ăn mày làm gì có quyền lựa chọn.”

Anne, người đã tử tế ăn cùng họ phần lớn
các bữa, cố hết sức để xoa dịu tràng chỉ trích, nói: “Mẹ à, mẹ không định nói
rằng mẹ muốn bán chị Eleanor cho người trả giá cao nhất đấy chứ.”

“Sao lại không?” nữ công tước hỏi. “Ai cũng
có thể bảo rằng chị con giống như một cái răng rắn đang cắm vào mông mẹ! Khoản
hồi môn của nó dư sức để mua cho chúng ta một thương nhân. Có lẽ là một người
trong dòng họ Wedgewood. Mẹ thề là mấy món đồ sứ của họ đã trở nên đắt đỏ đến mức
giờ phải đáng giá cả một gia tài đấy.”

“Mẹ…” Anne nói, cười toe toét.

Eleanor không nói gì. Cha cô sẽ không bao
giờ đồng ý với viễn cảnh đó. Và mẹ cô thật sự cũng không có ý định ấy. Bằng
việc từ chối hai vị công tước, cô đã đánh thẳng vào gốc rễ niềm tin mạnh mẽ
nhất của mẹ mình: tước hiệu là cách Chúa đánh dấu những đứa con ít ỏi được ngài
chúc phúc. Gả con gái cho một người không tước hiệu hẳn sẽ giết chết bà.

“Việc tối thiểu con có thể làm là dành một
buổi chiều với… cái anh chàng Ermster này,” nữ công tước nói tiếp. “Anh ta là
một quý ông. Anh ta có thể cưới con.”

“Con không biết anh ta là ai,” Eleanor phản
đối.

“Anh ta không có trong quyển Debrett,”
Anne nói thêm.

Debrett, Debrett,” nữ công tước nói
một cách cáu kỉnh. “Nó có thể cực kỳ thiếu chính xác, các con biết đấy. Họ hoàn
toàn sơ suất không ghi chú rằng bà cô của các con có quan hệ, ở họ ngoại, với
một hoàng tử Nga.”

Eleanor thở dài. “Nếu mẹ muốn con đi cùng
anh Ormston tới công viên thì con sẽ làm, nếu anh ấy hỏi con một lần nữa.”

“Đó là việc tối thiểu con có thể làm,” mẹ
cô nói. “Tối thiểu. Giờ con sẽ phải thật sự cố gắng đấy, Eleanor. Mọi người sẽ
nghĩ rằng Villiers đã từ chối con. Họ sẽ soi xét xem con bị anh ta chê bai ở
điểm gì.”

Cổ họng Eleanor không tự chủ mà thít lại.

“Mẹ,” Anne hòa giải, rướm người tới trước
và vẫy một tờ Morning Post, “mẹ đã đọc về vụ cướp bất thường này chưa?”

“Có quá nhiều,” nữ công tước nói. “Ai mà
nhớ được chứ?”

“Phải, nhưng cái này diễn ra trên đường nhà
chúng ta!”

“Ở đây sao?”

“Nó nói rằng một quý ông già, cư ngụ ở
đường Arlington, đang ngồi ở phòng khách thì phát hoảng trước sự xuất hiện đột
ngột của một người đàn ông với một miếng vải đen trên mặt.”

“Một cái áo choàng trên mặt ư? Bất thường
thật.”

“Không, miếng vải đen. Gã ta hẳn đã
trùm nó…”

Eleanor không nghe nữa. Cô đã kìm nén được
nước mắt, một lần nữa. Có lẽ cô nên đi dạo cùng anh Ormston. Cô đã quyết định
chỉ cưới một quý ông bình thường và bất kỳ người đàn ông nào không xuất hiện
trong quyển Danh sách quý tộc của Debrett chắc chắn là hợp lệ.

Đợi đến mùa lễ hội mới cũng chẳng được gì.
Cô nghi ngờ - không, cô biết rõ - là trái tim cô sẽ không bao giờ nguyên vẹn
nữa. Vậy nhưng cô sẽ kết hôn, cô sẽ có con và sẽ lại cảm thấy vui vẻ.

Nhưng cô sẽ không bao giờ yêu với sự đói
khát cồn cào, sưng sướng vô ngần mà cô dành cho Leopold nữa – sự đói khát khiến
cô muốn chạm vào cánh tay anh khi họ ăn, nhìn vào mắt anh ở bữa sáng, ngủ cạnh
anh mỗi đêm.

Bức thư kế tiếp của anh Ormston mang đến
chút nhẹ nhõm giữa dòng suy nghĩ u ám đó.

Thân gửi tiểu thư Eleanor Lindel,

Tôi hoàn toàn đồng tình với sự bất an của
em trước ý tưởng trò chuyện riêng tư với một người đàn ông không quen biết, dù
tôi phải trấn an em rằng tôi thật sự là một quý ông. Là con thứ của nam tước
Plumptre, tôi lấy họ của chú tôi để bày tỏ tấm lòng trước việc ông để lại cho
tôi một gia sản đủ sống. Tôi hy vọng rằng mình không xúc phạm em khi nói chuyện
thẳng thắn về những vẫn đề đó. Dù tôi chẳng mấy hy vọng vào việc gợi lại ký ức
của em, như tôi nhớ, em đã mặc một cái váy gì đó màu xanh dương, và chúng ta đã
nói chuyện về vở kịch của cô Burney, vở The Witlings. Em không thích nữ diễn
viên đóng vai bà Voluble.

Với sự kính trọng sâu sắc,

Thân mến. Josiah Ormston

“Chà, bây giờ thì chị nhất định phải nhớ ra
anh ta rồi chứ,” Anne nói hân hoan, vẫy vẫy bức thư. “Chị không hề thích bà
Voluble.”

“Chẳng ai thích hết,” Eleanor nói. “Chị
không nhớ vở kịch đó mấy nhưng tất cả các bài bình luận đều nói bà Voluble hát
thật chói tai và khó nghe.”

“Điều em thích ở người đàn ông này là anh
ta nhớ tất cả mọi thứ về việc khiêu vũ cùng chị,” Anne nói, thả bức thư xuống
và quay sang xem quyển Debrett của mẹ họ, luôn có sẵn trên bàn phòng
khách. “Thật tuyệt nếu chị được trải nghiệm một chút sự ngưỡng mộ. Phải, anh ta
ở đây, không phải dưới tên Ormston mà là con trai thứ của Plumptre. Josiah
không phải là một cái tên tuyệt vời nhưng vững chãi, chị không nghĩ thế sao?”

“Chắc thế.”

“Chị phải đi đi,” Anne nói. “Nếu không mẹ
sẽ không bao giờ ngừng ca cẩm đâu.”

Thân gửi anh Ormston,

Tôi vinh dự được đi cùng anh tới công viên
ngày mai.

Tiểu thư Eleanor

“Chị nên mặc bộ váy xanh mà chị đã mang tới
Kent,” Anne nói. “Nó có thể gợi nhớ cho anh ta về cái bộ váy nào đó mà chị đã
mặc ba năm trước.”

“Chị sẽ mặc một trong những bộ váy cũ của
mình,” Eleanor nói. “Bày ra vẻ phóng đãng chả có ích gì với chị hết, Anne. Em
phải thừa nhận điều đó.”

“Không son môi à?” Anne hỏi, kinh hãi.

“Không. Và một cái váy kín đáo.”

“Có lẽ chị không nhận thức được điều này
nhưng em đã bảo Willa cho đi phần lớn những bộ váy chị từng sở hữu,” em gái cô
chỉ ra.

“Không phải chứ!”

“Chắc chắn là em đã làm thế,” em gái cô trả
miếng. “Chỉ vì chị đã bị cản trở trong tình yêu…” cô dừng lại, và nói thêm, “một
lần nữa
, không có nghĩa là chị nên đưa mình về lại phong cách ảm đạm lỗi
mốt. Chị đã rất xui xẻo, Eleanor. Giờ thì chị cần thận trọng.”

“Chị đang thận trọng còn gì.”

“Không. Chị sẽ ăn mặc như một quý cô trẻ
đáng khao khát. Chị sẽ hành xử một cách đứng đắn. Đừng bảo em là Villiers chưa
được nhìn kỹ cái lược bạc của chị nhé, Eleanor, bởi vì em biết rõ là anh ta đã
nhìn rồi.”

“Em đang nói chị là đồ ngốc.”

“Em đang nói rằng có lẽ chị nên đi theo con
đường mà tất cả phụ nữa đã đi một cách thành công,” em gái cô nói một cách dịu
dàng. “Tán tỉnh với đàn ông, tỏ ra lôi cuốn vậy nhưng vẫn e lệ. Nó là một trò
chơi, Eleanor, nhưng là một trò chơi có phần thưởng cao giá nhất.”

“Tốt thôi,” Eleanor nói, sầu não không sao
tả xiết.

“Hãy nhớ, đó là mùa vũ hội đầu tiên của chị
mà đầu chị khi ấy tràn ngập hình ảnh Gideon. Có nhiều quý ông đáng kính có thể
đã yêu chị, chỉ là chị chẳng thèm để ý thôi. Em gợi ý cái váy muslin thêu hoa
ấy, bởi vì vải sa quanh thân làm nó trông khá đoan trang.”

Eleanor gật đầu, ưng thuận.

“Và em cho là chị nên tránh tô phấn đen
quanh mắt,” Anne nói. “Nhưng chị đơn giản phải đánh một ít phấn má. Trông chị
nhợt nhạt như ma ý. Anh Ormston tội nghiệp sẽ nghĩ chị bị một cơn bạo bệnh
trong lúc anh ta ở nước ngoài mất.”

Vào hai giờ đúng, Eleanor đã sẵn sàng. Nói
thật, cái váy muslin đẹp đến mức khó mà cảm thấy khốn khổ khi đang mặc nó được.
Nó có lớp trong màu kem thêu hoa anh đào bé xíu. Thân váy vò nhàu ở dưới gấu
với vải sa màu anh đào, cũng thứ vải sa đó được nhét vào ngực cô, nếu không thì
thân váy sẽ trễ một cách đầy khiếm nhã. Bộ đồ được hoàn thiện bởi một cái mũ hở
cực kỳ thời trang với ruy-băng bằng vải sa bay phất phới phía sau.

“Trông con khá ổn,” mẹ cô nói một cách miễn
cưỡng. Và rồi, một cách đáng ngạc nhiên, “Con không cần cảm thấy anh Ormston là
phương kế cuối cùng của mình đâu, Eleanor. Với sắc đẹp của mình, con chắc chắn
có thể cưới người mình muốn. Chứng kiến cảnh hai vị công tước xin được cưới con
thì biết. Mẹ biết mình đã rất cáu gắt về chủ đề này nhưng mẹ chưa bao giờ nghi
ngờ rằng đến một thời điểm nào đó con sẽ kết hôn.”

Eleanor hôn phớt lên má mẹ cô. “Cám ơn mẹ.”

Anne đang đứng ở cửa sổ, nhìn qua rèm cửa
một cách cực kỳ không đứng đắn. “Anh ta có một cái xe ngựa mui trần cực kỳ đáng
yêu,” cô báo cáo lại. “Hình như nó được sơn thần tình yêu ở hai thân, hoặc hình
gì đó tương tự. Em không nhìn rõ. Và anh ta có một người hầu. Thật sự, anh
Ormston không đùa khi nói chú anh ta để lại tiền cơm áo cho mình đâu.”

“Hành động đó của con thật sự khó coi quá,”
nữ công tước phê bình. “Trông con giống một cô hầu đứng bên cửa sổ vậy. Con
thấy anh ta thế nào?”

“Người hầu đang đi tới cửa nhà chúng ta và
chắn mất tầm nhìn của con. Ô! Anh Ormston đang đội một bộ tóc giả kiểu Hy Lạp.
Thật thời trang! Áo anh ta màu đen. Khá trơn. Con không thấy có cái khuy lớn
nào.”

Kiểu Hy Lạp ư?” Eleanor nói, đeo
găng tay vào.

“Chị biết đấy… quăn lên hai bên và đuôi dài
phía sau. Khá thông minh.”

Cô quay lại, mỉm cười. “Anh ta trông có vẻ
cũng có đôi vai rộng đấy. Em nghĩ chị sẽ nhớ ra anh ta ngay khi bước chân vào
xe thôi.”

Cô nhảy nhót đi tới và trao cho Eleanor một
nụ hôn.

Eleanor đi theo người hầu của anh Ormston
ra xe, suốt quãng đường tự nhắc nhở mình về cơ hội thứ hai, không, thứ ba này.

Anh Ormston đã xuống xe để đón cô, tất
nhiên. Cô nâng mắt lên vừa đủ để thấy rằng anh ta đang mặc một cái áo bằng vải
đen trơn. Cực kỳ đáng kính và chín chắn. Anh ta cúi chào, cầm lấy bàn tay đeo
găng của Eleanor và hôn nó trước khi đưa cô vào trong xe.

Eleanor ngồi xuống và ngẩng lên, chuẩn bị
nở một nụ cười.

Báo cáo nội dung xấu