Thanh gươm huyền bí (Quyển 1) - Chương 6 phần 3

Người phụ nữ mặc một chiếc quần túm bằng vải bạt và cưỡi ngựa giống như
đàn ông, cô ta không nói gì với những phù thủy cả. Khuông mặt cô ta thật lạnh
lùng. Cô tiến đến phía bọn trẻ, nói với chúng bằng một giọng nghiêm túc sâu
lắng, cố lờ đi nước mắt của bọn trẻ. Ánh chiều tràn ngập sắc vàng làm cho từng
thứ trở lên rõ ràng hơn nhưng chẳng có gì rực sáng cả, và khuôn mặt của đàn
ông, đàn bà và cả những đứa trẻ dường như trở nên bất diệt, mạnh mẽ và đẹp đẽ.

Khi than đã rực hồng trong đống lửa được quây quanh bằng đá, ngọn đồi như
yên ả hơn dưới ánh trăng, Lorenz kể với Serafina lịch sử thế giới của anh ta.

Anh ta giải thích, trước đây nó cũng đã từng là một thế giới hạnh phúc.
Những thành phố rộng rãi và lịch thiệp, ruộng vườn màu mỡ. Những con thuyền
buôn chất hàng nặng trĩu đi tới đi lui trên đại dương xanh. Những người đánh cá
kéo lên những mẻ lưới đầy cá tuyết, cá ngừ, cá voi lẫn cá đối, rừng còn được
làm chỗ vui chơi và không có đứa trẻ nào phải chịu đói cả. Trong những hội đồng
và quảng trường của các thành phố lớn, những vị đại sứ hòa mình vào những người
bán thuốc lá, với những nhà hát kịch ứng tác từ Bergamo, những thương gia thịnh
vượng. Buổi tối những người yêu nhau đeo mặt nạ, gặp nhau dưới những hàng cây
hoa hồng hay những khu vườn có ánh sáng nhân tạo, không khí như được pha thêm
mùi hoa nhài và tiếng nhạc rộn ràng của đàn mandarone.

Những phù thủy mở to mắt lắng nghe câu chuyện của anh ta về một thế giới
quá giống với thế giới của họ nhưng cũng thật quá đỗi khác.

“Nhưng rồi mọi thứ tệ đi,” anh ta nói. “Từ ba trăm năm trước một số người
nhận ra Hội Torre degli Angeli của các nhà hiền triết, Tháp Thiên thần, trong
thành phố chúng tôi ở đã rời đi, và họ chính là những người đáng bị trách móc.
Những người khác thì nói đó là sự trừng phạt giành cho chúng tôi vì mắc phải
một vài tội lỗi lớn, mặc dù tôi chưa từng được nghe bất cứ sự tán thành nào về
việc định tội. Nhưng đột nhiên, bọn Spectre xuất hiện, không biết ở đâu ra và
chúng tôi bị ám kể từ đó. Các bạn vừa nhìn thấy những gì chúng làm. Bây giờ các
bạn thử tưởng tượng xem sống trong một thế giới có Spectre sẽ như thế nào. Làm
sao mà chúng tôi có thể thịnh vượng nổi, khi mà chúng tôi không thể tin tưởng
về bất cứ thứ gì tiếp diễn như thế này? Bất cứ lúc nào, một người cha, người mẹ
có thể bị cướp đi, gia đình tan nát, một thương gia đã bị lấy đi linh hồn thì việc
kinh doanh của anh ta cũng sẽ thất bại, tất cả thư ký, nhân viên của anh ta đều
bị mất việc. Làm thế nào để những người yêu nhau có thể tin vào lời thề của họ?
Tất cả niềm tin và đức hạnh trên thế giới này đều bị sụp đổ khi mà bọn chúng
tới.

“Những nhà hiền triết đó là ai?” Serafina hỏi. “Và cái tháp mà anh nói
đến nằm ở đâu?”

“Ở thành phố mà chúng tôi đã bỏ đi - Cittagazze. Thành phố của những kẻ
ba hoa. Bà biết tại sao nó bị gọi như vậy không? Vì những kẻ ba hoa thì ăn
trộm, và đó là tất cả những gì mà chúng tôi có thể làm bây giờ. Chúng tôi chẳng
tạo ra cái gì cả, đã hàng trăm năm rồi, chúng tôi có xây được cái gì đâu, tất
cả những gì chúng tôi có thể làm là ăn cắp từ thế giới khác. Ồ, phải, chúng tôi
biết về những thế giới khác. Những nhà hiền triết từ Torre degli Angeli đã khám
phá ra tất cả những gì chúng tôi cần biết về chuyện đó. Họ có một câu thần chú,
nếu bà đọc nó ra, nó sẽ cho phép bà đi qua một cánh cửa không phải ở đây và bà
sẽ thấy mình đang ở một thế giới khác. Một số người nói đó không phải là câu
thần chú mà là chìa khóa để mở mặc dù không có một ổ khóa nào. Ai biết nhỉ? Bất
kể nó là cái gì nó cũng đã để cho bọn Spectre tràn vào. Những nhà hiền triết
vẫn sử dụng nó, tôi biết. Họ đã đi sang thế giới khác, ăn cắp từ thế giới đó và
mang về đây những thứ họ tìm thấy. Vàng và đá quý, dĩ nhiên, nhưng có cả những
thứ khác nữa, những ý tưởng, những bao ngũ cốc, bút chì. Đó là nguồn gốc của
tất cả của cải của chúng tôi,” anh ta nói thật cay đắng, “đó là cái Hội trộm
cắp.”

“Thế tại sao Spectre lại không làm hại trẻ con?” Ruta Skadi hỏi.

“Đó là một điều bí ẩn lớn nhất. Vẻ ngây thơ của bọn trẻ có sức mạnh đẩy
lùi được sự lãnh đạm của bọn Spectre. Nhưng còn hơn thế. Đơn giản là trẻ con
không nhìn thấy chúng, mặc dù chúng tôi cũng không hiểu tại sao. Nhưng những
đứa bé mồ côi do Spectre gây ra rất nhiều. Các bà có thể hình dung - những đứa
trẻ bị cướp mất bố mẹ; chúng tụ tập thành một nhóm, lang thang trên khắp đất
nước, thỉnh thoảng chúng còn thuê mướn nhau ra ngoài tới chỗ người lớn để tìm
thức ăn và đồ tiếp tế trong vùng Spectre hoành hành, và thỉnh thoảng thì chúng
chỉ đơn giản lượn lờ và bới móc.

“Đó là thế giới của chúng tôi. Ờ, chúng tôi cố gắng xoay xở để sống với
lời nguyền này. Chúng là lũ kí sinh chính hiệu: chúng không giết chết thân xác
vật chủ mặc dù đã hút hầu như cạn kiệt sinh mạng của họ. Nhưng vẫn có một sự
cân bằng nhất định… cho đến gần đây, lúc xuất hiện cơn bão khủng khiếp. Quả
đúng là một cơn bão kinh hoàng! Nó nghe như là toàn thể thế giới đang bị vỡ ra,
bẻ vụn thành từng phần; chưa hề có một cơn bão nào như vậy trong trí nhớ của
con người.

“Rồi có một đám sương mù kéo dài trong vài ngày, nó bao phủ từng phần của
thế giới mà tôi biết, không ai có thể đi lại; khi đám sương tan thì thành phố
này ngập tràn Spectre, một trăm nghìn con. Vì vậy chúng tôi chạy trốn lên đồi
và ra biển, nhưng bất kể chúng tôi đi đâu cũng không thoát khỏi bọn chúng. Như
những gì các bà đã tận mắt mục kích.

Bây giờ tới lượt bà. Nói cho tôi biết về thế giới của bà, tại sao các bà
lại bỏ nơi đó tới đây.”

Serafina nói với anh ta tất cả sự thật mà bà biết. Anh ta là một người
chân thật và không phải nói dối anh ta bất cứ điều gì. Anh ta lắng nghe, lắc
đầu khi ngạc nhiên, rồi khi bà nói xong, anh ta mới nói:

“Tôi đã kể với bà rằng sức mạnh mà người ta nói những triết gia của chúng
tôi có là mở ra một canh cửa tới thế giới khác. Một số người nghĩ là hiếm khi
họ để cánh cửa mở, chỉ vì tính hay quên, tôi sẽ không ngạc nhiên nếu những
người lữ hành từ thế giới khác dần dần sẽ tìm đến nơi này. Sau rốt thì, chúng
tôi biết rằng những thiên thần cũng đã đi qua đây.”

“Thiên thần?” Serafina hỏi. “Khi nãy anh đã nhắc tới họ. Họ thật mới mẻ
với chúng tôi. Anh có thể giải thích được không?”

“Bà muốn biết về thiên thần à?” Joachim Lorenz nói.
“Tốt thôi. Họ tự đặt tên mình là bene elim, tôi nghe bảo thế. Cũng có người gọi
họ là Thần canh giữ. Họ không phải dạng thể xác như chúng ta, mà là một kiểu
linh hồn. Hoặc có lẽ thể xác của họ ở mức tinh tế hơn chúng ta, tôi cũng không
biết nữa; nhưng họ không giống như chúng ta. Họ mang thông điệp từ bầu trời, đó
là những gì họ gọi. Thỉnh thoảng chúng tôi có nhìn thấy họ đi qua thế giới này
tới một thế giới khác, tỏa sáng như những con đom đóm ở trên cao.

Nếu màn đêm tĩnh lặng
thì bà thậm chí còn nghe được cả tiếng vỗ cánh của họ ấy chứ. Họ có những mối
quan tâm khác hẳn chúng ta, mặc dù vào những thời xa xưa họ đã từng hạ xuống và
đi lại cùng những người đàn ông và phụ nữ, cũng có cả con với chúng ta, vài
người nói thế.

“Và khi đám sương mù
kéo đến, sau trận bão lớn, tôi bị đe dọa bởi lũ Spectre trên ngọn đồi phía sau
thành phố Sant’Elia, trên đường trở về nhà. Tôi trú ở trong lều của người linh
mục bên suối cạnh cây phong, suốt đêm đó, tôi nghe thấy tiếng gọi mình từ trên
đám sương, kêu la, giận dữ và cả tiếng vỗ cánh nữa, gần như chưa bao giờ tôi được
thấy; gần rạng sáng có tiếng vũ khí va chạm, có cả tiếng những mũi tên, tiếng
những thanh gươm va vào nhau lanh canh. Tôi không dám ra nhìn mặc dù rất tờ mò.
Vì tôi sợ. Tôi đã chết cứng trong khiếp hãi, nếu bà muốn biết. Khi bầu trời
sáng chưng hơn nó đã từng trong suốt thời gian sương mù, tôi đánh bạo ra ngoài
và nhìn thấy một dáng hình to lớn đang bị thương nằm cạnh suối. Tôi cảm thấy
như thể mình không có quyền được nhìn thấy những điều thần thánh. Cho nên tôi
đã ngoảnh đi và khi tôi quay đầu lại thì hình thù đó đã biến mất.”

“Đó là lần đầu tôi đến
gần các thiên thần nhất. Nhưng như những gì tôi đã nói với các bạn nhìn thấy họ
một đêm khác, ở trên cao giữa những vì sao đang hướng về Cực, giống như hạm đội
hùng mạnh nhổ neo giông buồm… Điều gì đó đang xảy ra và ở dưới này, chúng tôi
không biết như thế nào. Có thể có một cuộc chiến tranh đang xảy ra. Hàng nghìn
năm trước, từ những thời đại xa xưa, có một cuộc chiến tranh xảy ra trên thiên
đường, nhưng tôi không biết kết quả như thế nào. Nhưng sức tàn phá của nó thì
thật là lớn, và hậu quả cho chúng tôi là… Tôi không tưởng tượng nổi.”

“Dù vậy,” Anh ta vừa
khơi lửa vừa tiếp tục, “kết cục có lẽ sẽ khả quan hơn là những gì tôi lo ngại.
Có thể một cuộc chiến tranh trên thiên đường sẽ quét hết bọn Spectre trở về cái
hố mà chúng đã từ đó ra. Đó quả thật là một phúc lành, chao ôi! Chúng tôi sẽ
được sống trong thanh bình và hạnh phúc đến nhường nào, không còn phải sợ hãi
nữa!”

Dẫu cho Joarchim trông
có thể là bất cứ thứ trừ hi vọng khi anh ta nhìn đăm đăm vào đống lửa. Ánh lửa
đu đưa trên khuôn mặt anh ta, nhưng nó không làm cho tâm trạng của anh ta khá
lên mấy, trông anh ta thật buồn và khắc nghiệt.

Ruta Skadi nói, “Còn
Cực nữa, thưa anh. Anh nói là thiên thần đang hướng tới Cực. Tại sao họ lại làm
như vậy, anh biết không? Có phải thiên đường nằm ở đó?”

“Tôi không thể nói
được. Tôi không phải là người có ăn học, cô có thể thấy rõ mà. Nhưng họ nói
rằng phía Bắc ở thế giới của tôi là nơi ở của những tâm hồn. Nếu những thiên
thần tập hợp lại, thì đó là nơi họ sẽ đi, và nếu họ định mở đợt tấn công trên
thiên đường thì tôi dám nói rằng đó chính là nơi họ xây pháo đài và xông phá
vòng vây.”

Khi anh ngẩng lên,
những phù thủy dõi theo ánh mắt anh ta. Những ngôi sao ở thế giới này cũng
giống như ở thế giới của họ: dải ngân hà tỏa sáng dưới vòm trời và vô số những
ngôi sáng được rắc trên màn trời đen, như hòa với ánh trăng…

“Thưa anh,” Serafina
nói. “Anh đã từng nghe về Bụi chưa?”

“Bụi á? Tôi đoán rằng
cô có ý hỏi những thứ khác chứ không phải là bụi trên đường. Không, tôi chưa
nghe bao giờ. Nhưng nhìn kìa! Một đoàn thiên thần…”

Anh ta chỉ vào chùm sao
Ophiucus. Chắc chắn, có cái gì đó đang di chuyển qua, những đám màu sáng nhỏ
xíu. Chúng không trôi lờ lững; chúng đang bay có chủ đích như những đàn ngỗng
hoặc thiên nga.

Ruta Skadi đứng dậy.

“Các chị em, đã đến lúc
tôi phải chia tay các bạn. Tôi sẽ đi nói chuyện với những thiên thần đó, bất kể
họ là ai. Nếu họ đi về hướng Ngài Asriel thì tôi sẽ đi cùng họ. Nếu không, tôi
sẽ tự tìm thấy ông ta. Cảm ơn vì các bạn đã đi cùng tôi. Chúc thượng lộ bình
an.”

Họ hôn tạm biệt, Ruta
Skadi lấy nhành thông mây và bay lên không khí. Con nhân tinh Sergi cũng bay
bên cạnh cô.

“Chúng ta sẽ tăng tốc
chứ?” nó hỏi.

“Tăng hết mức như những
vật bay phát sáng phía Ophiucus. Họ bay nhanh lắm đấy, Sergi, chúng ta phải bắt
kịp họ”.

Rồi cô cùng nhân tinh
của mình vọt lên, nhanh như tia lửa vậy. Không khí quất vào những nhánh nhỏ
trên nhành thông và làm mái tóc đen của cô phất phới về phía sau. Cô không hề
ngoái lại nhìn đống lửa nơi có những đứa trẻ đang ngủ, nơi có những người bạn
phù thủy đã đồng hành với mình. Phần đó trong chuyến hành trình của cô đã kết
thúc, và, hơn nữa, nhứng sinh vật phát sáng trên đầu cô nhìn từ xa rất nhỏ, nếu
cô không dán mắt vào đó thì rất dễ nhầm với những vì sao trên trời. Cứ như thế cô bay, không để mất dấu
của những thiên thần, dần dần, khi cô lại gần hơn, thì cũng nhìn thấy họ rõ
hơn.

Họ tỏa sáng không phải
vì họ đang cháy mà giống như thể, bất kể họ ở đâu và bất kể đêm tối như thế
nào, ánh sáng mặt trời vẫn đều tỏa sáng trên người họ. Trông họ giống con người
nhưng có cánh và họ cao lớn hơn rất nhiều; vì họ đều không mặc quần áo nên cô
phù thủy có thể nhận ra có ba người đàn ông và hai người đàn bà. Đôi cánh của
họ ló ra từ phía xương vai, lưng và ngự học cơ bắp cuồn cuộn. Ruta Skadi giữ
khoảng cách đằng sau họ một quãng, quan sát và ước chừng sức mạnh của họ để đề
phòng trường hợp cô phải chiến đấu chống lại họ. Họ không có vũ khí nhưng với
sức mạnh của họ, họ có thể bay rất nhanh và có thể bỏ xa cô nếu có một cuộc
đuổi bắt.

Lên sẵn cung, đề phòng
bất trắc, cô phóng nhanh lên cạnh họ và gọi: “ Hỡi những thiên thần! Hãy dừng
lại và nghe tôi nói! Tôi là phù thủy Ruta Skadi và tôi muốn nói chuyện với các
bạn!”

Họ quay lại. Những đôi
cánh lớn vỗ vỗ hướng vào trong để bay chậm dần, người họ đu đưa xuống phía dưới
cho đến khi họ đứng thẳng trên không khí, đôi cánh đập đập để giữ thăng bằng.
Họ vây quanh cô, năm thân hình chiếu sáng trong màn đêm, họ sáng rực lên.

Cô phù thủy nhìn quanh,
vẫn ngồi trên nhành thông, tim cô đập mạnh trước những người lạ lùng này, nhân
tinh của cô cũng vỗ cánh ngồi gần cô.

Mỗi thiên thần rõ ràng
là một cá thể riêng biệt, dẫu họ có vẻ rất giống nhau hơn bất kể người nào mà
cô đã từng gặp. Họ cùng nhau tỏa sáng, bay nhanh như tên, thông minh và cảm
giác tất cả những thứ đó đồng thời được quét lên người họ vậy. Họ không mặc
quần áo nhưng cô lại cảm thấy mình như thể mới là người không mặc gì trước
những con mắt của họ, những ánh mắt thật sắc và sâu.

Khi đã hết xấu hổ, cô
quay lại đáp lại cái nhìn của họ, đầu ngẩng cao.

“Vậy, các bạn là thiên
thần,” cô nói, “hay Người canh giữ, hay là bene elim. Các bạn đang đi đâu thế?”

“Chúng tôi đi theo một
tiếng gọi,” một thiên thần nói. Cô không chắc là vị nào nói nữa.

“Tiếng gọi của ai?”

“Của một người.”

“Ngài Asriel?”

“Có thể.”

“Tại sao các bạn lại đi
theo tiếng gọi của ông ấy?”

“Bởi vì chúng tôi thích
thế,” một giọng nói đáp lại.

“Vậy thì bất kể ông ấy
ở đâu, các bạn cũng có thể dẫn tôi tới chỗ của ông ấy,” cô ra lệnh cho họ.

Ruta Skadi đã bốn trăm
mười sáu tuổi, với tất cả tự tôn và tri thức của một nữ hoàng phù thủy trưởng
thành. Cô thông minh hơn bất cứ người sống ngắn ngủi nào, nhưng cô không hề có
một ý nghĩ dù là nhỏ nhất nào về việc trông cô giống như một đứa trẻ ra sao bên
cạnh những giống loài cổ xưa này. Cô cũng không biết nhận thức của họ trải rộng
như những sợi tơ mảnh đến những vùng xa xôi hẻo lánh nhất trên vũ trụ, những
vùng mà cô thậm chí chưa bao giờ mơ tới; hoặc biết rằng cô nhìn thấy họ dưới
hình dạng người chỉ bởi vì mắt cô muốn vậy. Nếu cô nhận thức được hình dạng
thật sự của họ, thì họ sẽ có vẻ giống như tòa kiến trúc hơn là cơ thể, như
những cấu trúc khổng lồ do trí tuệ và cảm xúc tạo nên.

Nhưng họ không mong đợi
gì hơn: cô ta còn quá trẻ.

Ngay lập tức họ vỗ cánh
bay dần lên cao, cô cũng lao vụt lên cùng với họ, lướt trên những tiếng cánh vỗ
lao xao trên không để thưởng thức tốc độ và sức mạnh như được thêm vào chuyến
bay của cô.

Họ bay suốt đêm. Những
vì sao trên đầu họ nhạt dần và biến mất khi ánh rạng đông bắt đầu hiện lên. Khi
ánh sáng mặt trời xuất hiện, thế giới như bừng sáng, họ bay qua bầu trời xanh
trong không khí trong lành, ngọt ngào và ẩm ướt.

Ban ngày những thiên
thần ít bị nhìn thấy hơn mặc dầu dáng vẻ lạ lùng của họ là rất rõ ràng. Ánh
sáng mà Ruta Skadi nhìn thấy không phải là ánh sáng mặt trời đã bắt đầu chiếu
lên đỉnh núi mà là ánh sáng từ nơi nào đó.

Tràn đầy sinh lực, họ
vẫn tiếp tục bay và cô cũng bay theo không biết mệt mỏi. Cô thấy vui sướng cực
độ khi biết mình có thể ra lệnh cho những hình dạng bất tử này. Cô thấy niềm
vui tràn ngập máu thịt của cô, trên nhành thông trầy xước mà cô cảm nhận được
trên da mình, cả cơn đói lúc này và sự hiện diện của con nhân tinh đáng yêu của
cô; dưới mặt đất kia là tất cả sinh vật, từ cây cối đến muông thú; cô vui thích
vì giống như họ, và vì biết rằng khi cô chết, da thịt cô sẽ nuôi dưỡng những
cuộc sống khác như chúng đã từng nuôi dưỡng cô. Một niềm vui nữa là cô sẽ được
gặp Asriel.

Một đêm nữa trôi qua,
những thiên thần vẫn tiếp tục bay… Tầng khí đã thay đổi, không tốt hơn mà cũng
không xấu hơn, Ruta Skadi biết rằng họ đã bay qua thế giới này đến một thế giới
khác. Cô không thể đoán được điều gì sẽ xảy ra.

“Thiên thần à!” cô gọi
khi cảm thấy sự thay đổi trong không khí. “Làm cách nào mà chúng ta đã rời khỏi
thế giới mà tôi đã tìm ra các bạn? Đường biên giới ở đâu thế?”

“Có nhiều chỗ không thể
nhìn thấy được trong không khí,” tiếng trả lời vọng tới. “Những cái cổng vào
một thế giới khác. Chúng tôi có thể nhìn thấy chúng, nhưng cô thì không.”

Ruta Skadi không nhìn
thấy những cái cổng, nhưng cô cũng không cần, phù thủy có thể định hướng tốt
hơn là chim muông. Ngay khi những thiên thần nói, cô để ý tới ba đỉnh núi lởm
chởm răng cưa ở phía dưới và cố nhớ chính xác hình dáng đó. Từ bây giờ, cô có
thể tìm lại nó nếu cần, mặc cho những thiên thần này muốn nghĩ gì.

Họ bay cao hơn, đột
nhiên, cô nghe thấy có giọng nói: “Ngài Asriel đang ở thế giới này, ông ấy đang
xây một pháo đài…”

Họ bay chậm dần, rồi
bay vòng quanh như những con đại bàng trên không trung. Ruta Skadi nhìn theo
hướng một thiên thần đang chỉ. Những ánh sáng đầu tiên của một ngày đang le lói
ở phía đông mặc dù những vì sao vẫn sáng lấp lánh trên bầu trời đen như nhung.
Ánh sáng ngày một rõ hơn; một ngọn núi hùng vĩ nhô lên ở phía sau với những
tảng đá đen có đỉnh nhọn hoắt, những phiến đá mỏng xen lẫn những đỉnh núi lởm
chởm răng cưa cứ chồng đống vào nhau như sau một thảm họa vũ trụ vậy. Nhưng ở
đỉnh núi cao nhất, nơi đầu tiên đón nhận những tia nắng đầu tiên của mặt trời
rạng rỡ lại đứng sừng sững một pháo đài có tường bao quanh làm bằng đá bazan,
cao bằng một nửa ngọn đồi, chỉ có thể đo được nó bằng cách tính thời gian bay
mà thôi.

Khi trời vẫn còn tối,
dưới pháo đài khổng lồ là những ánh lửa bập bùng từ những lò luyện kim, Ruta
Skadi có thể nghe được cả những tiếng quai búa cách đó vài dặm và tiếng của
những cối xay gió lớn. Từ mọi hướng, hướng nào cô cũng thấy những đôi cánh của
các thiên thần đang bay tới, không chỉ có mỗi thiên thần mà còn những chiếc máy
nữa, những chiếc máy có cánh bằng thép đang lướt nhanh như những con chim hải
âu lớn, những khoang kính nhỏ phía dưới lập lòe như cánh rồng, những tiếng kêu
o o của khí cầu zepơlin giống những con ong nghệ khổng lồ - tất cả đang hướng
tới pháo đài mà Ngài Asriel đang xây ở trên dãy núi ngay rìa thế giới.

“Ngài Asriel ở đó sao?”

“Đúng, ông ấy ở đó,”
những thiên thần đáp.

“Vậy ta hãy bay đến gặp
ông ấy. Các bạn hãy làm người hộ giá cho tôi.”

Họ tuân lệnh, sải rộng
đôi cánh bay về phía pháo đài có viền vàng, với cô phù thủy háo hức bay đằng
trước.

Báo cáo nội dung xấu