Mười Ngày Ở Huế - Chương 2 - Phần 1
Phần II
Cổ ngữ Âu châu có câu:
“Trăm con đường đều quay đầu về thành La Mã”. Có ý nói thành La Mã là nơi trung
tâm của lịch sử Âu châu đời xưa, đâu đâu cũng quy phục về đấy, muôn sự đều
do đấy mà ra. Cái ánh sáng của văn minh nước La Mã nhóm lên từ đấy mà
chiếu khắp thế giới, cái oai quyền của quân đội nước La Mã dấy lên từ đấy
mà trấn áp hoàn cầu; cái then máy của cuộc thống nhất nước La Mã cũng do
tự đấy mà vận động ra suốt cõi Âu châu. Từ xưa đến nay phàm nước nào đã có một
cuộc lịch sử lâu dài đều có một nơi trung tâm như thế: nước nào cũng có
một thành La Mã vậy. Thành La Mã của Việt Nam ta là ở đâu? Tức là nơi Đế
đô bây giờ, đất Thuận Hóa khi xưa, kinh thành Huế ngày nay vậy.
Lấy lịch sử mà xét, lấy
địa thế mà chứng, lấy cái tình thế chính trị ngày nay mà chiêm nghiệm, lấy lòng
khuynh hướng quốc dân sau này mà dự đoán, thành Huế thực là chốn căn cứ,
nơi yếu điểm của giống Việt Nam, xưa đã nhờ đấy mà gây dựng nên bờ cõi,
nay lại nhân đấy mà nói lên cái tư cách một dân quốc hoàn toàn. Ôi! Phàm đã gọi
là một dân quốc không thể giây phút thiếu cái tư tưởng, cái tinh thần một dân
quốc. Tư tưởng ấy, tinh thần ấy gọi một tên tức là cái quốc hồn vậy. Quốc
hồn của Việt Nam ta ngày nay phải tìm ở đâu cho thấy? Thiết tưởng phi ở
Huế không đâu thấy vậy.
Ấy trước khi bước chân
xuống đất Huế, cái tư tưởng tôi triền miên như vậy. Tôi chưa biết Huế tôi
đã yêu Huế rồi, yêu vì cái nghĩa cao thượng nó ngụ ở trong cái tên ấy, yêu
vì cái cảm tình vô hạn nó chan chứa trong lòng tôi. Bình sinh tôi học vấn
được đến đâu, cảm giác được đến đâu, tư tưởng được đến đâu, hi vọng được
đến đâu, bấy giờ tựa hồ như con sông vỡ đê mà tràn ngập cả trong tâm giới tôi
vậy.
Đương mộng tưởng mơ màng
thì xe hỏa dừng trước nhà ga Huế. Sực tỉnh trong bụng nửa mừng mà nửa lo.
Mừng rằng nay đã tới nơi rồi, lo rằng không biết sự thực có xứng với cái mộng
không, hay là quen thói thường chỉ đủ khiến cho mình thất vọng...
Thường câu đọc trong sách
Đại Nam nhất thống chí, thiên Kinh sư, có tả địa thế cùng lược lịch sử nơi
kinh thành Huế như sau này:
“Chốn Kinh sư gồm cả núi
bể trong nước mà ở vào giữa khoảng Bắc Nam, khí hậu hòa bình, sơn thủy kỳ
tú. Đường bể thì có cửa Thuận An, cửa Tư Hiền làm hiểm, đường lục thì có
ải Quảng Bình, ải Hải Vân làm trở. Sông nhớn bao mặt trước, núi
cao chắn mặt sau. Ba nguồn Bồ Trạch bọc bên tả bên hữu. Đầm Tam Giang, đầm
Thanh Lam, đầm Hà Trung làm then làm chốt. Thực là một nơi hổ chồm rồng
cuốn, địa thắng hình cường; đất hiểm yếu của giời đất, làm thượng đô cho
đế vương. Kể từ khi nước Nam dựng nước, thuộc về nhà Trần là đất Thuận
Hóa, thuộc về nhà Lê là Thuận Hóa thừa tuyên, đều xưng là nơi trọng trấn. Về
Bản Triều, đức Thái tổ Gia Dũ Hoàng đế chịu mệnh Giời mở nền nước ở cõi
Nam, trước đóng ở Ái Tử, sau đi ra Trà Bát (tên làng thuộc tỉnh Quảng Trị,
huyện Đăng Xương, lại đi ra phía đông Ái Tử nữa ở nơi gọi là Cát Doanh). Đức Hi
tôn Hiếu Văn Hoàng đế lại tự Cát Doanh đi ra Phúc An (tên làng, thuộc
huyệnQuảng Điền). Đức Thần Tôn Hiếu Chiêu Hoàng đế lấy nơi Kim Long là đất có hình
thế, đổi ra đóng đấy. Đức Anh tôn Hiếu Nghĩa Hoàng đế lại dịch ra Phú Xuân
(Kim Long Phú Xuân đều là tên làng). Đức Thế tôn Hiếu Võ Hoàng đế chia đất
trong cõi làm mười hai doanh. Ở Phú Xuân thì gọi là Chính doanh, lại xưng
là Đô thành. Đều là đất Thuận Hóa vậy. Phía bắc cưỡi lên sông Gianh, phía nam
gồm đất Chân Lạp, Liệt Thánh tương truyền hơn hai trăm năm. Năm Giáp Ngọ
đời đức Duệ tôn Hiếu Định Hoàng đế, quân Trịnh đến chiếm. Sau bị giặc Tây
Sơn trộm giữ trong ba mươi năm. Kịp đến đức Thế tổ Cao Hoàng đế ta dấy lên như
rồng như mây, thay Giời dẹp giặc, mùa thu năm Mậu Tuất thu phục thành Gia
Định, mùa hạ năm Tân Dậu khắc phục chốn cựu kinh, mùa hạ năm Nhâm Tuất bắt
tướng giặc ở cõi Bắc; từ đó gồm An Nam nhất thống dư đồ, bờ cõi mênh mông, nam
tới Tiêm La Chân Lạp, bắc giáp nước Tàu, đông đến bể, tây đến Ai Lao. Giở
về đất cũ, mở rộng thêm ra, định đô ở Phú Xuân, từ đấy mới xưng là Kinh sư vậy.
Đặt phép tắc, định triều cống, như cái nóc nhà cao hơn cả, bốn bề đều quay
về đấy, như ngôi sao Bắc đẩu tôn hơn cả, trăm sao đều chầu chung
quanh. Cái nền vững vàng thịnh vượng của nước nhà trong ức vạn
năm thực là ở đấy vậy. Rực rỡ thay! Vẻ vang thay!"
Lấy cái cảm giác nhà ái
quốc mà đọc những nhời đó, trong lòng hứng khởi biết chừng nào! Người vô tình
cho là nhời văn chương hư sức, mà người có cảm với nước nhà qua câu văn
hình như trông thấy cái hồn trong nước sinh trưởng ở vùng Thuận
Hóa Phú Xuân nơi đất cũ vậy.
Tôi vốn không tin cái
thuật địa lý của bọn thầy vườn lấy đống đất giữa đồng, ngòi nước bên ruộng
làm ngai rồng tay hổ. Nhưng tôi tin những nơi sơn thủy kỳ tú có ảnh hưởng đến
vận mệnh một nước. Người ta đối với cái ngoại cảnh không phải là không có
quan hệ. Người đồng bằng biệt ra tính cách đất đồng bằng, người rừng núi
biệt ra tính cách nơi rừng núi; thói ăn cách ở, đường sinh kế, lối tư tưởng,
không gì là không tùy theo cái ngoại cảnh mà khác nhau. Huống chi là những
bậc đế vương mở đất dựng nước, những nơi sông núi xinh đẹp lại không có
quan hệ với cái lòng hoài bão nhớn nhao hay sao? Liệt Thánh bản triều ta
đặt nền Đại Việt ở đất Phú Xuân thực đã dự tưởng mà biết cái cơ đồ
vĩ đại về sau vậy.
Người khách mới đến thành
Huế tưởng như bước chân vào bức tranh cảnh: chung quanh núi, giữa con
sông, nhà cửa tụ họp hai bên bờ, trên bến dưới thuyền, trông xa một tòa thành
cổ bao la, thâm nghiêm kín cổng. Cái phong cảnh Huế sở dĩ đẹp là thứ nhất bởi
con sông Hương Giang. Con sông xinh thay! Hà Nội cũng có sông Nhị Hà, mà sông
Nhị với sông Hương khác nhau biết chừng nào! Một đằng ví như cô con gái tươi
cười, một đằng ví như bà lão già cay nghiệt. Nhị Hà là cái thiên tai của
xứ Bắc, Hương Giang là cái châu báu của xứ Kinh. Nước trong như vắt, dòng phẳng
như tờ, ít khi có tị sóng gợn trên mặt, đi thuyền trên sông như đi trong
hồ vậy. Huế không có con sông Hương thì tưởng cái đẹp của xứ Huế giảm mất nửa
phần. Nhưng đã có sông Hương lại có núi Ngự nữa, cái cảnh mới thực là toàn
xinh. Ngự Bình không phải là một núi cao như núi Phú Sĩ nước Nhật, Hương Giang
không phải là một sông rộng như sông Hoàng Hà nước Tàu, nên nói rằng sông
ấy núi ấy làm hiểm trở cho chốn Đế kinh thì cũng là nói quá, nhưng
sông ấy núi ấy thực là vẽ nên phong cảnh xứ Huế vậy. Vả cái khí vị của
phong cảnh Huế không phải là cái khí vị hùng tráng, mà là cái khí vị mỹ diệu;
cảnh Huế xinh mà đẹp, không phải là hùng mà cường, đáng yêu mà không phải
là đáng sợ, có thi vị mà không phải là có khí tượng. Phải nhận kĩ như thế thì
mới khỏi nhầm mà hiểu được tinh thần của cái bức sơn thủy hiển nhiên
ấy.
Khi mới bước chân vào một
xứ lạ, cái gì nó cảm mình trước nhất là cái cảnh ngoài. Có cái cảnh ưa
người, như tươi cười mà đón khách, có cái cảnh ghét người như hẩm hiu mà
mới gượng, lại có lắm cái cảnh vô tình, mình hỏi không thèm đáp, phần đó là
phần nhiều. Cảnh Huế là một cảnh rất ưa người, ngoài mặt mới tiếp xúc trong
lòng đã sinh cảm tình. Hay là lòng tôi đã nhiệt thành sẵn mà dễ cảm như thế?
Cũng có nhẽ, nhưng bởi cái tinh thần riêng của phong cảnh cũng nhiều.
Nay đã có cảm tình với
cảnh Huế, phải gây lấy mối cảm tình với người Huế nữa. Đó là cái công việc
tôi trong mấy ngày về sau này.
Cái mục đích cuộc du Kinh
của tôi là chủ xem tế Nam Giao. Vậy trước nhất hẵng xin thuật chuyện
Giao.
Tế Giao đính nhật đêm
ngày 12 rạng 13 tháng 2 an nam (tức là 24-25 tháng 3 tây). Tôi tới Kinh từ ngày
mồng 9, có ý sớm mấy bữa để xem cái cảnh tượng trong phố phường cùng cách
trần thiết ở Giao Đàn. Mấy ngày ấy thành Huế tấp nập những kẻ đi người
lại. Hai bên đường Hoàng Thượng sắp ngự qua từ nội thành đến Giao Đàn
đương làm rạp đặt hương án. Những hương án đó là do các thôn xã mấy huyện
ở gần Kinh đô, mỗi làng phải đặt một sở, nghe nói cả thảy mấy trăm sở. Nhất là
con đường thẳng lên Nam Giao hai ngày 10-11 đi dạo chơi không cảnh gì vui mắt
bằng: cờ xanh, cờ đỏ, cờ đuôi nheo, cờ ngũ hành, các hạng cờ cắm san sát hai
bên đường, gió thổi bay cả về một hướng, xa trông phấp phới, tưởng tượng như
con hoàng long ở dưới đất nổi lên mà mỗi lá cờ là một cái vẩy đương rung động
vậy! Hương án liên tiếp nhau, cách vài thước lại một cái, không có khoảng
nào bỏ không. Mỗi sở có mấy viên ký-mục ngồi túc trực. Sau lưng những hàng quán
dựng lên nhan nhản. Giữa đường kẻ đi người lại như nước chảy, nào là người phục
dịch về Giao Đàn, về các hương án, nào là dân các nơi lại xem, đàn bà con
trẻ cũng nhiều. Tôi có ý nhận những đám đông người ở đây rất nghiêm, không
những như ngoài bắc. Lính cảnh sát có ít mà trên đường vẫn có trật tự,
không hề thấy đám đánh nhau chửi nhau, ồn ào rộn rịp, thứ nhất là không có
cái tiếng rất khả ố là tiếng cập kè của bọn sẩm chợ, như những khi hội hè
ở ngoài ta.
Cái vui của người dân đây
nghiêm mà không nhả. Đại để dân xứ Huế rất có lễ phép, dù bậc hạ lưu cũng
vậy. Xem đó đủ biết là gần cái phong hóa của triều đình. Ngoài ta không hạng
người nào bại liệt bằng hạng phu xe: ở Huế bọn phu xe cũng có lễ
phép, không hề nói tục nói láo bao giờ. Cái nhân phẩm của phu xe
Huế, còn cao hơn phu xe Hà Nội gấp mấy lần vậy.
Ngày 11 ta, giao đàn trần
thiết đã chỉnh bị cả. Chiều hôm ấy tôi cùng với ông Chương Dân lên xem
khắp mọi nơi, muốn thu trước lấy cái địa đồ vào trong mắt để khi xem tế
cho tường hơn. Xin thuật đại khái như sau này.
Giao đàn ở giữa cánh
đồng, rộng ước bằng hai Văn Miếu Hà Nội. Ngày thường là cái đàn không, không có
nhà cửa gì cả; khi tế mới căng vải dựng nhà, tế xong lại triệt đi. Đàn chia làm
bốn thành: thành thứ nhất cao hơn cả là viên đàn, thành thứ nhì thấp kém
là phương đàn, thành thứ ba thấp kém nữa, đến thành thứ tư là khoảng đất bao
chung quanh, bằng với mặt đất ngoài, giồng toàn thông cả. Khi tế thì chỉ
trần thiết trong ba đàn thứ nhất thứ nhì thứ ba mà thôi. Đàn thứ nhất là viên
đàn thì căng vải xanh khắp cả, làm thành cái nhà tròn, gọi là thanh ốc.
Trong bầy như sau này: ở giữa đặt hai án chính vị, tả thờ Thiên Hoàng
(Giời), hữu thờ Địa kỳ (Đất), đều quay mặt về phía Nam. Ở hai bên thì tả
hữu mỗi bên đặt ba án phối vị, đông tây đối nhau. Tả nhất án thờ
đức Thái tổ Gia Dũ Hoàng đế (tức là đức Nguyễn Hoàng, tổ bản
triều); hữu nhất án thờ đức Thế tổ Cao Hoàng đế (tức là đức Gia Long); tả
nhị án thờ đức Thánh tổ Nhân Hoàng đế (tức là đức Minh Mệnh); hữu nhị án
thờ đức Hiến tổ Chương Hoàng đế (tức là đức Thiệu Trị); tả tam án thờ đức Dực
Tôn Anh Hoàng đế (tức là đức Tự Đức); hữu tam án thờ đức Cảnh Tôn Thuần Hoàng
đế (tức là đức Đồng Khánh). Đức Đồng Khánh mới thăng phối năm nay là
lần đầu, Hoàng thượng đã ký cáo trước ở Giao Miếu từ ngày mồng
1 tháng 2. Trước bấy nhiêu án đã kể trên đó, mỗi án có đặt năm cái bàn độc
để bầy những đồ tự khí tế phẩm. Ở trước chính vị ngay giữa, đặt một cái
nội hương án, trước nội hương án là chỗ Hoàng thượng đứng làm lễ. Ấy đại
khái trong thành thứ nhất trần thiết như thế.
Thành thứ nhì thì ở trước
viên đàn về mặt nam dựng một cái nhà vuông căng vải vàng, gọi là hoàng ốc.
Ở chính giữa hoàng ốc đặt một cái ngoại hương án (đối với nội hương án ở
đàn trên), trước án đặt chỗ ngự bái để hoàng thượng đứng tế. Hai bên tả
hữu thành thứ nhì đặt tám cái án gọi là tùng đàn, đông tây đối
nhau. Trên đàn bắc khung căng vải, mỗi án đặt ba cái bàn độc để bầy đồ tự
khí tế phẩm, trước án đặt chỗ để các quan phân hiến đứng tế. Tả nhất án thờ Đại
Minh chi thần (Mặt Giời); hữu nhất án thờ Dạ Minh chi thần (Mặt Giăng); tả nhị
án thờ Chu thiên tinh tú chi thần (các vì sao trên giời); hữu nhị án thờ
Sơn hải giang trạch chi thần (các núi sông); tả tam án thờ Vân vũ phong
lôi chi thần (mây mưa gió sấm); hữu tam án thờ Khưu lăng phần diễn chi
thần (gò đống đồng điền); tả tứ án thờ Thái tuế nguyệt tướng chi thần
(thần các năm các tháng); hữu tứ án thờ Thiên hạ thần kỳ chi
thần (bách thần trong nước).
Thành thứ ba góc đông nam
đặt nơi liệu sở, trữ sẵn củi bằng gỗ tùng để khi tế đốt lửa làm đình liệu,
góc tây bắc đặt nơi ế sở là chỗ đem chôn mao huyết những con sinh vật dâng tế.
Trước mỗi sở có đặt cái bàn độc, che tàn lọng. Về phía đông lại đặt nhà đại
thử, căng vải vàng, che mành màu sắc vàng, để làm chỗ khi hoàng thượng ngự
tới Giao Đàn vào nghỉ đấy, rửa tay, sửa áo, rồi mới lên làm lễ. Về phía nam,
ngay ở sân dưới thềm, hai bên bầy các đồ nhạc khí. Ngoại những trống, chuông,
chiêng, khánh, là đồ thường, còn có nhiều các đồ cổ nhạc lạ lắm. Nhất là có một
cái trống bằng gỗ, hình như cái hòm hổng mặt trên, khi nào bắt
đầu một khúc hát thì đánh vào đấy một hồi: gọi là cái chúc tỵ. Lại có cái
ngữ ty, hình con hổ nằm trên cái hòm, trên lưng thủng đặt mười tám miếng
gỗ ken liền với nhau, khi hát xong một khúc lấy cái que siết vào thành tiếng
quẹt quẹt. Những đồ cổ nhạc ấy không ra thanh âm gì cả: ý giả chế ra đó để cho
hợp cổ lễ mà thôi. Lại có thứ như đàn cầm đàn sắt nhớn, cái sáo bài tiêu, chỉ
bầy mà khi tế không dùng đến. Cạnh những đồ nhạc khí thì phường
nhạc phường hát sắp hàng đứng hai bên. Phường hát tức là phường múa, vừa
hát vừa múa, theo lối gọi là múa bát dật. Cả thảy có một trăm hai mươi tám
người, chia làm hai ban văn sinh và võ sinh, mỗi ban sáu mươi tư người, có một
thầy đội bát phẩm coi, bên văn là hiệu cờ mao, bên võ là hiệu cờ tinh. Văn sinh
võ sinh đều mặc áo xanh, nhưng bên văn thì tay áo rộng, bên võ thì tay áo
hẹp. Văn sinh tay trái cầm cái thược (cái sáo), tay phải cầm cái vũ (cái
gậy); võ sinh tay trái cầm cái can (cái mộc), tay phải cầm cái thích (cái
búa). Khi tế thì vừa múa vừa hát, sắp làm tám hàng tám người một, bên võ hát
khúc Võ thiên uy, bên văn hát khúc Văn thiên đức.
Xét kĩ những tế khí bầy
trên các bàn độc cũng là thuần cổ cả. Thường đọc trong sách cũ thấy những tên
cái tôn, cái tước, cái biên, cái đậu, cái phủ, cái quỉ, nay mới được
trông, cái thì tròn, cái thì vuông, cái thì cao, cái thì thấp, hình dáng
rất lạ. Những đồ ấy dùng để đựng các thứ nước rượu, thóc gạo, hoa quả, rau
dưa, thịt cá, mỗi thứ một ít, để dâng tế thần. Lại cây đèn, bộ đỉnh, cái
ống hương, cái mâm bồng, cái đài, cái chén, không gì là không có cái vẻ cổ
lỗ và mộc mạc.
Tôi muốn về Kinh để xem
phong thể cũ nước nhà, nay thật được thỏa thích. Nội trong Giao Đàn không
có một đồ vật gì là không cũ; những người hành động trong ấy, ăn bận mũ áo xưa,
trông cũng rất là cổ. Khi mặt giời đã xế, một mình đứng giữa đàn rộng mênh
mông, mơ màng tưởng như tinh thần đương mộng du ở một nơi thế giới nào khác, tự
mười lăm hai mươi thế kỷ về trước, ở đâu nơi triều đình nhà Hán hay cung điện
nhà Đường vậy. Người đời tàu bay tàu lặn mà trong giây phút được nhác trông một
cái cảnh tượng đời thượng cổ như thế, còn gì khoái lạc bằng!
Xem xong Giao Đàn, xem
đến Trai cung là nhà hoàng thượng ra trai giới ở đấy một ngày trước khi
hành lễ. Cung ở ngoài đàn, xa xa về bên hữu; chung quanh xây tường. Trong
cung có hai mặt: mặt trước về hướng nam có cái sân rộng, là chỗ
hoàng thượng ngự để bách quan triều yết và làm lễ mừng sau khi tế xong.
Mặt sau có buồng the, giường sập, bàn ghế, mùng màn, để làm chỗ hoàng thượng
nghỉ ngơi. Sau cung có hai bên tả lang hữu lang để thị vệ túc trực. Bốn bề đều
giồng rặt những cây tùng, um tùm rậm rạp. Những cây gần cung là phần nhiều của
Liệt Thánh đời xưa giồng, lắm cây đã cao và to lắm. Ra ngoài một ít là
những cây của các Hoàng thân Vương công giồng. Còn ngoài xa là cây của các
quan đại thần. Người nào giồng đều có cái biển đã khắc tên hàm cùng năm tháng,
buộc vào cái vòng bằng sắt treo lên trên cây. Nhìn qua một lượt mà sực nhớ
đến bao nhiêu những bậc danh thần đại công của triều đình ta, người thì mất đã
lâu dựng nên công nghiệp nhớn cho nước nhà, người thì mới mất tiếng thơm
còn lừng lẫy trong châu quận, người thì hãy còn hoặc đương giúp Thánh
triều, hoặc đã về hưu nơi cố quận, thanh giá kẻ khen người trọng. Cũng là một
cách kỷ niệm rất có ý nghĩa vậy. Đại để ngày nay những cây to đến một ôm,
cao đến ngất giời, là những cây gieo hạt tự đời Gia, Minh, Thiệu, Tự vậy.
Khoảng đất ở sau cung là những cây tùng mới giồng, mới cao được độ một thước
hay hơn một thước ta, nhìn biển xem thì là những cây của các bậc đường quan
ngày nay từ tứ phẩm giở lên vậy.

