Tai Nạn - Chương 1
Fances đang lai vảng bên một cửa
sổ ở tầng hai của trường trung học Hanratty, vào một buổi trưa đầu tháng mười
hai. Đó là năm 1943. Trang phục của Frances đúng mốt thời bấy giờ: một chiếc
váy sọc đen có tua, khăn choàng hình tam giác cùng loại vải, phủ qua vai với
hai đầu cho vào thắt lưng; một cái áo xa ten màu kem - xa ten thứ thật, một
chất liệu không tồn tại được bao lâu nữa - với nhiều nút ngọc trai nhỏ chạy
dài xuống phía trước và lên tay áo. Cô không bao giờ mặc áo váy như vậy khi cô
đến dạy âm nhạc tại trường trung học; bất cứ chiếc áo len và váy cũ nào là được
rồi. Sự thay đổi này không phải là không được chú ý.
Cô không có việc gì ở lầu
hai. Nhóm của cô đang hân hoan ca hát ở tầng dưới. Cô đang làm việc chăm chỉ
với họ, tập dượt để họ sẵn sàng cho buổi hòa nhạc Giáng Sinh. “Ông Sẽ Chăn Nuôi
Đàn Thú (He Shall Feed His Flock)” là một bài khó khăn cho họ. Sau đó, “Bài
Thánh Ca Huron (The Huron Carol)” (một phụ huynh khiếu nại cho biết ông hiểu
bài này được một linh mục viết ra), “Tim của Cây Sồi (Hearts of Oak)” vì phải
có một bài gì yêu nước, để thế hiện thời buổi bấy giờ, và “Bài Hát Sa Mạc (The
Desert Song)” mà chính họ lựa chọn. Bây giờ họ đang hát “Phố Thánh (The Holy
City)”. Bài này được nhiều người thích, đặc biệt là với những cô gái tươi sáng ngực
to và đoàn phụ nữ hợp xướng. Những cô gái trung học có thể làm cho Frances đôi
lúc bực mình. Khi thì họ muốn đóng cửa sổ, khi thì họ muốn mở ra. Họ cảm thấy
những luồng gió, họ ngất đi vì nóng. Họ dịu dàng với cơ thể của họ, hướng vào
một trạng thái tự yêu ảm đạm, lắng nghe những kích động của con tim, tâm sự
những nổi đau nhói. Khi họ bắt đầu bước vào giai đoạn làm người phụ nữ. Sau đó,
những gì sẽ xảy ra với họ? Những vẫn để lớn ở phía trước và phía sau, tầm quan
trọng nhạt nhẽo, mập mờ, nghiện thuốc, bướng bỉnh. Mùi của áo nịt ngực, tiết lộ
kinh tởm. Họ mang một vẻ hiến tế trong đoàn hợp xướng. Tất cả chỉ là một loại
tình dục ảm đạm. Anh đi với tôi và anh nói chuyện với tôi và anh nói tôi là của
riêng anh.
Cô đã để nhóm của cô ở lại
một mình, giả vờ cô cần lên phòng vệ sinh của giáo sư. Tất cả những gì cô làm ở
đó là bật đèn lên và nhìn một cách nhẹ nhàng khuôn mặt thản nhiên, không bị
sưng, một khuôn mặt dài sáng sủa, với cái mũi khá to, đôi mắt nâu trong sáng và
mái tóc ngắn đỏ đen, rậm, thật quăn. Frances thích ngoại hình của mình, cô
thường cảm thấy vui bởi khuôn mặt khi nhìn trong gương. Hầu hết phụ nữ, ít nhất
là trong sách, dường như có một vấn đề về ngoại hình của họ, nghĩ mình ít đẹp
hơn là trong thực tế. Frances phải thừa nhận có thể cô có một vấn đề ngược lại.
Không phải là cô nghĩ mình xinh đẹp; chỉ là khuôn mặt của cô có vẻ đem lại may
mắn cho cô, và khuyến khích. Cô đôi khi nhớ một cô gái ở nhạc viện, Natalie gì
đó, cô chơi vĩ cầm. Frances rất ngạc nhiên khi biết người ta có lúc nhầm lẫn cô
với Natalie này, người xanh xao, mái tóc quăn, gương mặt xương; cô thậm chí còn
ngạc nhiên hơn khi biết, qua mạng lưới bạn bè và tâm sự, rằng điều này làm
phiền nhiều Natalie cũng như cô. Và khi cô hủy bỏ đính hôn với Paul, một sinh
viên khác ở nhạc viện, anh nói với cô bằng một giọng khắc nghiệt, thực tế không
có một sự lễ̉ độ hoặc tình cảm nào mà trước kia anh đã cảm thấy bắt buộc phải
sử dụng đối với cô, “Tốt, cô có thực sự nghĩ rằng cô có thể khá hơn nhiều
không? Cô biết cô không phải là người đẹp nhất.”
Cô tắt đèn và thay vì trở
lại với nhóm ca đoàn vui vẻ cô đi lên lầu. Những buổi sáng mùa đông nhà trường
ảm đạm; sưởi ấm lên chưa đủ, tất cả mọi người ngáp và run rẩy, những đứa trẻ
vùng quê rời khỏi nhà trước khi trời sáng dụi khóe mắt cho tỉnh ngủ. Nhưng
khoàng thời gian này trong ngày, giữa trưa, Frances cảm thấy một niềm an ủi với
nơi chốn, một cơn buồn ngủ dễ chịu hơn, với những tấm ván tối dưới chân ngâm
trong ánh sáng, và những phòng đựng áo choàng im lặng treo đầy áo khoác len đã
khô và khăn quàng cổ và giày ống và giày trượt băng và gậy khúc côn cầu. Qua
cây chắn ngang để mở, vài hướng dẫn trật tự; mệnh lệnh bằng tiếng Pháp; những
sự kiện tin tưởng. Và cùng với tất cả trật tự và phục tùng này có một áp lực
quen thuộc, mong mỏi hoặc linh cảm, một khối u kỳ lạ của một cái gì đó mà bạn
có thể cảm thấy đôi khi trong âm nhạc hay một phong cảnh, gần như không đè nén,
hứa hẹn sẽ bùng nổ và tiết lộ, nhưng nó không xảy ra, nó hòa tan và biến mất.
Frances đang trực tiếp đối
diện với cửa phòng khoa học. Cây ngang cũng được mở, và cô có thể nghe những âm
thanh phong nhã, giọng nói thấp, dụng cụ chuyển dịch. Chắc anh đang cho họ làm
một thí nghiệm. Một cách vô lý, đáng hổ thẹn, cô cảm thấy những giọt mồ hôi
trong lòng bàn tay, tiếng đập mạnh trong ngực, như trước khi cô qua một cuộc
thi hay buổi biểu diễn dương cầm. Vẻ khủng hoảng nầy, khả năng phải chiến thắng
hoặc thảm họa mà cô có thể gây ra, cho bản thân và những người khác, bây giờ có
vẻ giả tạo, dại dột, nhân tạo. Nhưng còn chuyện này, cuộc tình của cô với Ted
Makkavala? Cô vẫn chưa đi và cô không thể thấy thật là dại dột cho bất cứ ai
đứng nhìn như vậy. Không sao. Nếu dại dột có nghĩa là rủi ro và thiếu thận
trọng, cô không quan tâm. Có lẽ tất cả những gì cô từng ước muốn là có một cơ
hội để nắm lấy. Nhưng đôi khi cô có ý nghĩ về tình yêu có thể là, không phải
giả tạo, nhưng một cách nào đó được đặt ra và cố ý, một cơ hội đưa đến, cũng
như những màn trình diễn ngớ ngẩn đó: một sáng kiến không có gì là chắc chắn.
Đó là một ý tưởng cô không nên lấy cơ hội; cô không nghĩ đến nó nữa.
Giọng nói của một nữ sinh,
bối rối và phàn nàn (một điều về nữ sinh trung học - họ rên rỉ khi họ không
hiểu; nam sinh thì gầm gừ khinh thường dễ chịu hơn). Ted trả lời giọng trầm,
giải thích. Frances không thể nghe những gì anh nói. Cô nghĩ anh đang khòm
xuống chăm chú, thực hiện một số động tác bình thường chẳng hạn như hạ thấp
ngọn lửa của một lò đốt Bunsen. Cô thích nghĩ về anh như siêng năng, kiên nhẫn,
khép kín. Nhưng cô biết, nghe qua người khác, là hành vi lớp học của anh khác
với những gì anh làm cho cô hoặc bất cứ ai tin. Anh có thói quen nói một cách
khinh miệt về công việc hay học sinh của anh. Nếu hỏi anh áp dụng loại kỉ luật
nào, anh sẽ nói, Ồ, không có gì, có thể một cái bạt tai, có thể một cú đá thật
nhanh sau mông. Sự thật là, anh gây được sự chú ý của học sinh bằng đủ loại thủ
thuật và lời nịnh ngọt; anh sử dụng các vật phụ thuộc như mũ lừa bằng giấy
và còi sinh nhật; anh tiếp tục một cách rất phóng đại trên sự ngu dốt của họ,
và có một lần anh đốt cháy những bài kiểm tra của họ từng cái một trong bồn rửa
tay. Cả một cá tánh, Frances đã nghe học sinh nói về anh. Cô không thích nghe
họ nói như vậy. Cô chắc chắn họ cũng nói thế về cô, bản thân cô không sử dụng
những chiến thuật quá ngông cuồng, chảy máu cả ngón tay mà giựt mái tóc rậm,
rên rỉ không-không-không-không khi họ hát sai. Nhưng cô mong thà anh không
phải làm những điều đó. Đôi khi cô tránh né không đề cập đến anh, không nghe
những gì người ta có thể nói. Anh ấy rất thân thiện, họ nói, và cô nghĩ cô nghe
một số lúng túng, một số khinh miệt; tại sao anh lại chịu khó như vậy? Cô cũng
tự hỏi; cô biết anh nghĩ gì về thị trấn này và những người dân ở đây. Hoặc
những gì anh nói anh nghĩ.
[Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho người yêu sách.]
Cửa mở ra, làm cho Frances
bị một cú sốc. Cô không muốn Ted thấy cô ở đây, đang lắng nghe, rình rập. Nhưng
không phải Ted, cảm ơn Chúa, đó là bà thư ký của trường, một người phụ nữ tròn
trịa, nghiêm túc, người đã giữ chức vụ thư ký ở đây tự bao giờ, từ lúc Frances
còn là một học sinh, và trước đó. Bà tận tâm cho trường học, và lớp học Kinh
Thánh bà dạy tại Nhà Thờ United Church.
“Chào cô; đang lấy một
chút không khí à?”
Cửa sổ Frances đang đứng
bên cạnh dĩ nhiên là không có mở, thậm chí các vết nứt xung quanh còn được dán
lại. Nhưng Frances làm một bộ mặt đồng ý hài hước, nói: “Chơi trốn,” để xác
nhận cô ra khỏi lớp học của mình, và bà đi xuống cầu thang một cách thản nhiên,
giọng nói của bà vọng lại.
“Ban hợp ca vui vẻ của cô
hôm nay hát thật hay đó. Tôi luôn luôn thích nhạc Giáng Sinh.”
Frances trở lại lớp học
của cô và ngồi trên bàn làm việc, mỉm cười với các khuôn mặt đang ca hát. Họ đã
hát qua bài “Phố Thánh” và tự họ tiếp tục hát bài “Thánh Ca Westminster”. Họ trông
ngớ ngẩn thật, nhưng họ đâu có thể làm sao hơn? Ca hát là ngớ ngẩn hoàn toàn.
Cô không bao giờ nghĩ họ sẽ nhận thấy nụ cười của cô và đề cập đến sau đó, chắc
chắn là cô đã đi ra để gặp Ted trong hành lang. Khi Frances tưởng tượng cuộc
tình của cô là một bí mật, cô cho thấy, rõ ràng nhất, là cô thiếu bản năng của
thành phố nhỏ, một sự tin tưởng và liều lĩnh mà cô không biết; đây là những gì
người ta muốn ám chỉ khi họ nói về cô chắc chắn cho thấy rằng cô đã đi xa một
thời gian. Cô chỉ đi có bốn năm thôi, đến nhạc viện; sự thật là, cô luôn luôn
thiếu thận trọng. Cao, tinh xương, đôi vai hẹp, cô có phong cách nhanh chóng
của người ngoài phố, nét bận tâm, giọng nói cao, khẩn cấp, vẻ ngây thơ của
người ngoài nghĩ mình không bị quan sát khi cô chạy từ nơi này đến nơi khác
trong thị trấn, tay đầy sách nhạc, gọi nhau ngoài đường cho một số thông tin
liên quan đến sinh hoạt và có vẻ cuộc sống của cô gần như không thể nào sắp xếp
được.
Nói với Bonnie không đến
trước 3 giờ 30!
Bạn có chìa khóa không?
Tôi bỏ quên trong văn phòng rồi!
Cô cho thấy ngay cả khi cô
còn nhỏ, và rất quyết tâm để học chơi dương cầm, mặc dù họ không có một cây
đàn, trong căn hộ trên cửa hàng kim khí, nơi cô sống với mẹ và em trai cô (mẹ
cô là một góa phụ, lương thấp, bà làm việc ở tầng dưới). Bằng cách nào đó bà có
được ba mươi lăm xu một tuần, nhưng chiếc đàn dương cầm duy nhất cô nhìn thấy
là của bà giáo. Ở nhà, cô tập luyện trên bàn phím vẻ bằng bút chì trên bệ cửa
sổ. Có một nhà soạn nhạc - hình như là Handel? - ông tập luyện trên đàn phong
cầm trong căn gác với cánh cửa đóng lại, do đó cha của ông không biết là âm
nhạc đã bám vào ông ta. (Làm thế nào mà ông có thể lẻn mang một cây đàn phong
cầm vào đó là một câu hỏi thú vị.) Nếu Frances trở thành một nhạc sĩ dương cầm
nổi tiếng, bàn phím trên bệ cửa sổ - nhìn ra ngõ hẻm, mái nhà của sân chơi - sẽ
trở thành một huyền thoại khác.
“Cô đừng nghĩ rằng cô là
một thiên tài” là một điều khác mà Paul đã nói với cô “bởi vì cô không phải như
vậy.” Cô có nghĩ điều đó không? Cô nghĩ tương lai có một cái gì đó đáng ghi
nhận được lưu giữ cho cô. Ngay cả cô không nghĩ đến nó thật rõ ràng, chỉ cư xử
như thể cô nghĩ đến nó. Cô trở về nhà, bắt đầu dạy âm nhạc. Thứ hai tại trường
trung học, thứ tư tại trường công, thứ ba và thứ năm tai trường nhỏ ở đồng quê.
Thứ bảy luyện tập đại phong cầm và học trò riêng; chủ nhật cô chơi trong Nhà
Thờ United Chuch.
“Vẫn loay hoay trong thành
phố văn hóa lớn này”, cô viết nguệch ngoạc trên thiệp Giáng Sinh gởi cho những
người bạn cũ từ nhạc viện, ý tưởng là một khi mẹ cô qua đời, một khi cô được tự
do, cô tưởng tượng lờ mờ sẽ bắt đầu cuộc sống riêng vẫn đang chờ đợi cô, và vô
cùng thỏa mãn hơn. Những tin tức cô nhận trở lại thường có giọng điệu sao lãng
và hoài nghi. Một em bé nữa và bàn tay của tôi thường xuyên bận rộn giặt tã hơn
là trên bàn phím như bạn cũng có thể tưởng tượng. Tất cả họ đều vừa quá ba mươi
tuổi. Một tuổi mà đôi khi rất khó để thừa nhận rằng cuộc sống đang sống là của
bạn.
Bên ngoài gió đang uốn cây
và tuyết làm mờ cảnh vật. Một trận bão tuyết nhỏ đang xảy ra, không có gì để
chú ý nhiều trong vùng này của đất nước. Trên khung cửa sổ là một bình mực bằng
đồng méo mó với một cái vòi dài, một vật dụng quen thuộc làm Frances nghĩ đến
những đêm Ả Rập, hoặc cái gì đó như vậy; một cái gì với lời hứa hẹn, hoặc gợi ý,
có tính chất nước ngoài, kín đáo, thú vị.
“CHÀO EM, KHỎE KHÔNG?” Ted
nói khi cô gặp anh trong hành lang sau bốn giờ. Sau đó, anh nói nhỏ, “Phòng vật
liệu. Anh sẽ đến ngay.”
“Được,” Frances nói. “Được rồi.” Cô đi cất sách nhạc trong tủ khóa và đóng
dương cầm lại. Cô luống cuống và loay hoay quanh đó cho tới khi tất cả học sinh
đi ra, sau đó chạy lên lầu, vào phòng khoa học, đến một tủ lớn xây trong tường,
không có cửa sổ, đựng vật liệu của Ted. Anh chưa tới.
Căn phòng là một loại nơi đựng thức ăn, ngăn ra nhiều kệ đựng mấy chai hóa
học khác nhau - hóa chất sulfate đồng là chai duy nhất cô có thể nhận ra mà
không có nhãn, cô nhớ màu thật đẹp - lò đốt Bunsen, bình, ống nghiệm, một bộ
xương người và của một con mèo, một số bộ phận trong chai, hoặc có thể sinh vật;
cô không nhìn gần quá và dù sao trong phòng cũng tối.
Cô lo sợ người canh gác có thể đi vào, hoặc thậm chí vài học sinh làm việc
theo chỉ đạo của Ted về một số dự án liên quan đến nấm mốc hoặc ếch đẻ trứng
(mặc dù chắc chắn không phải thời điểm trong năm để làm). Làm sao nếu họ trở
lại để kiểm tra cái gì đó? Khi cô nghe tiếng chân tim cô bắt đầu đập mạnh, khi
cô nhận ra đó là Ted nó không lắng xuống nhưng dường như chuyển sang tần số
khác, để nó đập thình thịch không vì sợ hãi mà vì mong đợi tràn ngập, mạnh mẽ,
trong đó, tuy thú vị, nhưng khó khăn cho cô, về thể chất, như lo sợ, dường như
đủ để làm cô nghẹt thở.
Cô nghe anh ấy khóa cửa.
Cô có hai cách nhìn anh, tất cả trong thời gian anh sắp xuất hiện ở ngưỡng
cửa phòng vật liệu, sau đó khép cửa lại, họ hầu như trong bóng tối. Đầu tiên,
cô nhìn anh như cách đây một năm, và anh là một người không có gì liên can đến
cô. Ted Makkavala, giáo sư khoa học, không dự vào cuộc chiến, mặc dù anh dưới
bốn mươi tuổi, anh đã có vợ và ba con, và có lẽ anh từng bị một cơn nhói tim,
hoặc một cái gì đó như vậy, anh trông có vẻ mệt mỏi. Một người đàn ông cao lớn,
lưng hơi khòm, tóc đen, da sậm với một nét gắt gỏng, hài hước, đôi mắt vừa mệt
mỏi vừa tươi sáng. Anh chắc cũng có một cái nhìn tương tự về cô, đứng đó vẻ
phân vân lưỡng lự và lo lắng, với chiếc áo khoác trên cánh tay và giày ống
trong tay, kể từ khi cô nghĩ không nên để đồ đạc trong phòng treo áo của giáo
sư. Đã có dịp ở một thời điểm họ không thể nào gây ra công tắc, để nhìn nhau
một cách khác; họ không nhớ sự giao nhau đã được điều hành thế nào hay một ân
huệ không thể đến với họ, và nếu có thể như vậy, thì họ đang làm gì ở nơi này?
Khi anh kéo cửa đóng lại cô nhìn anh một lần nữa, một bên gương mặt và
xương gò má, một cái nghiêng Tartar tuyệt vời, tươi sáng; cô cảm nhận hành động
kéo cửa đóng lại là lén lút và thô bạo, và cô biết không có cơ may nào trên thế
giới để họ không thực hiện được công tắc. Nó đã xảy ra.
Sau đó, như thường lệ. Liếm và áp lực, lưỡi và cơ thể, trêu chọc và đau
thương và an ủi. Mời mọc, quan tâm. Cô đã từng tự hỏi, những ngày cô quen với
Paul, nếu toàn bộ câu chuyện có thể là một gian lận, như mang vào người một bộ
quần áo Hoàng Đế, nếu không ai thực sự cảm thấy những gì họ giả vờ, và chắc
chắn là cô và Paul không có. Một không khí tồi tệ xin lỗi và gượng gạo và bối
rối về toàn bộ sự việc, khó chịu nhất là tiếng rên rỉ và âu yếm và bảo đảm mà
họ trao đổi. Nhưng không, đó không phải là một sự giận lận, tất cả đều có thật,
vượt qua mọi thứ, và các dấu hiệu cho thấy nó có thể xảy ra - mắt khóa lai,
rùng mình dọc theo cột sống, tất cả sự ngu ngốc nguyên thủy - cũng có thật.
“Có bao nhiêu người khác biết chuyện này vậy anh?” Cô hỏi Ted.
“Ồ, không nhiều lắm, có thể khoảng mười, mười hai người.”
“Nó sẽ không bao giờ lan truyền, anh không nghĩ.”
“Đúng. Nó sẽ không bao giờ được phổ biến ra đám đông.”
Khoảng trống giữa các kệ chật hẹp. Có quá nhiều thiết bị rất để vỡ. Và tại
sao cô không có đủ ý thức để bỏ giày ống và áo khoác xuống? Sự thật là cô không
mong đợi quá nhiều hoặc ôm nhau có chủ đích như thế. Cô nghĩ anh chỉ muốn nói
một cái gì đó với cô thôi.
Anh mở cửa một chút, để có thêm ánh sáng cho họ. Anh lấy đôi giày khỏi tay
cô và để ra bên ngoài cửa. Sau đó, anh lấy áo khoác của cô. Nhưng thay vì đặt
nó xuống bên ngoài anh mở ra và trải rộng nó trên sàn gỗ trần. Lần đầu cô đã
nhìn thấy anh làm một chuyện tương tự như vậy là mùa xuân vừa qua. Trong khu
rừng lạnh lá vẫn chưa có, anh đã cởi áo chắn gió ra và trải nó xuống một khoảng
nhỏ trên mặt đất. Cô cảm thấy xúc động mạnh mẽ bởi hành động chuẩn bị đơn giản
này, cách anh trải chiếc áo ra và vỗ nhẹ nó xuống, không hỏi một câu, một nghi
ngờ hoặc vội vàng. Cô không chắc chắn, cho đến khi anh làm điều đó, về những gì
sẽ xảy ra. Anh có một cái nhìn thật nhẹ nhàng, ổn định, định mệnh. Cô đã bi
khuấy động khi nhớ lại lúc anh quỳ xuống trong khoảng trống hẹp này và trải áo
khoác của cô ra. Đồng thời cô nghĩ: nếu anh muốn làm chuyện đó bây giờ, có
nghĩa là anh không thể đến thứ tư? Tối thứ tư họ thường gặp gỡ nhau, trong nhà
thờ sau khi Frances thực tập với ca đoàn. Frances sẽ tiếp tục ở lại trong nhà
thờ, chơi đàn phong cầm, cho đến khi tất cả mọi người ra về. Vào khoảng 11 giờ
cô sẽ đi xuống và tắt đèn và chờ đợi ở cửa sau, cửa của lớp học ngày chủ nhật,
để mở cho anh vào. Họ đã nghĩ về điều này khi thời tiết trở lạnh. Cô không biết
anh đã nói gì với vợ.
“Em cởi tất cả ra đi.”
“Chúng ta không thể ở đây”, Frances nói, dù cô biết họ sẽ làm. Họ luôn luôn
cởi tất cả quần áo ra, ngay cả lần đầu tiên trong rừng, cô không bao giờ tin cô
có thể cảm thấy quá ít lạnh như vậy.
Chỉ một lần trước ở đây, trong trường, cũng trong phòng này, và đó là thời
kỳ nghỉ hè, trời vừa tối. Tất cả các đồ gỗ trong phòng khoa học đã được sơn mới
và không có dấu hiệu cảnh cáo nào được dán lên - tại sao phải có, vì không ai
được vào đây. Mùi đủ mạnh, khi cuối cùng họ đã nhận thấy. Họ đã quấn vào nhau
thế nào mà chân của họ nằm ở ngưỡng cửa này, và cả hai đều bị dính đầy sơn từ
khung cửa. May mắn là Ted đã mặc quần ngắn buổi tối hôm đó - một cảnh tượng kỳ
lạ trong phố, lúc đó - và có thể đã nói sự thật với Greta, rằng anh dính phải
chân khi anh vào phòng khoa học làm một cái gì đó, mà không cần phải giải thích
làm sao chân lại trần. Frances không cần giải thích vì mẹ cô không làm sao để ý
những điều như vậy. Cô không chùi sạch vết sơn (nó chỉ ở trên mắt cá chân), cô
để nó từ từ phai đi, và thích nhìn vào nó và biết nó ở đó, giống như cô thích
những vết bầm tím, những vết cắn, trên cánh tay trên và vai, mà cô có thể dễ
dàng che đậy với tay áo dài nhưng thường thì cô không làm. Sau đó người ta sẽ nói
với cô, “Làm sao cô bị vết bầm ghê đó vậy?” Và cô sẽ nói: “Bạn biết đó, tôi
không biết nữa! Tôi hay bị bầm dễ dàng. Mỗi khi tôi nhìn vào chính tôi, là có
một vết bầm!” Adelaide em dâu của cô, vợ của em trai, là người duy nhất có thể
biết đó là cái gì, và sẽ tìm cơ hội để nói điều gì đó.
“Ồ ồ, cô lại đi chơi với con mèo đực đó nữa. Có phải không, Ê? Có phải
không?” Cô sẽ cười và thậm chí đặt ngón tay lên cái dấu.