Hitler và trận đánh Normandie - Chương 15 (Hết)

15

NHẬN XÉT VỀ TRẬN ĐÁNH NORMANDIE

PHE ĐỒNG
MINH TÂY PHƯƠNG COI CUỘC ĐỔ bộ ngay từ khi được bắt đầu chuẩn bị vào giữa năm
1942 là có tính cách quyết định đối với Lịch sử chiến tranh. Về phương diện trí
tưởng tượng cũng như về phương diện thực hành, của công cuộc chuẩn bị kỹ thuật ấy
thật phi thường. Quả thật Đồng Minh đã “tính toán với một sự chính xác toán học,
các phần việc mà người ta có thể phó mặc cho sự may rủi”.

Những
nhà sáng chế và các kỹ thuật gia của hai lục địa đạt được các kết quả mà cho đến
ngày nay vẫn còn được coi là ngoài sức tưởng tượng. Sự thiết chế các hải cảng
nhân tạo đã giúp cho cuộc đổ bộ và việc tiếp liệu trở nên độc lập với công cuộc
đánh chiếm các hải cảng của lục địa. Đường ống dẫn đầu “Pluton” vượt qua biển
Manche đã làm cho cuộc tiếp tế nhiên liệu có thể thực hiện được một cách gần
như toàn hảo. Những tài nguyên của tất cả mọi người có thể dành cho chiến thắng.
Các phi đạo nhân tạo được trải trên những phi thường được thiết lập cấp bách tại
các vùng đầu cầu, cho phép tổ chức sự liên lạc trên không với các đơn vị trên bộ
và với hải quân. Điều đó đưa đến kết quả là có được một sự hợp tác cực kỳ linh
động.

Trong
các năm trước khi có cuộc đổ bộ, rất cả các lợi ích phát sinh từ cuộc thám sát
gần, hay xa đã đóng vai trò có lợi cho Đồng minh. Trong lúc quân Đức chỉ sở cậy
vào các máy móc T.S.F., Bộ Tư lệnh Đồng minh đã xử dũng tột cùng vũ khí trên
không của họ vào công tác thảm sát. Không lực cũng có nhiệm vụ tiêu diệt khi thấy
cần thiết cho thành quả của cuộc đổ bộ sau này. Các cơ sở tình báo Anh Mỹ không
những chỉ có một hệ thống hoàn hảo, mở rộng ra trên khắp hoàn cầu. Đồng minh
còn sử dụng sức mạnh của các phong trào kháng chiến tại các quốc gia sẽ phải
tái chiếm. Các phong trao này cung cấp các tin tức hữu ích về quân số và vũ khí
của Đức và luôn cập nhật hóa cho tin tức Đồng minh. Trước chiến tranh, Hitler
đã cấm không cho tổ chức một cơ sở tình bào Đức tại Anh; Đến phút chót, khi thấy
cần tổ chức thì đã quá chậm.

Trên bỏ,
trên biển và trên không, người Hoa Kỳ đã chứng tỏ một ưu thế dữ dội. Đặc biệt
là sự tham dự của không lực có mức độ kỹ thuật cao cấp, được huấn luyện kỹ, và
được chỉ huy tốt đẹp, đã trở thành một yếu tố quyết định cho cuộc đổ bộ và cho
các cuộc hành quân phu giới. Phải thừa nhận rằng sự liên lạc đặc biệt giữa lực
lượng trên bộ và không lực, đã được chuẩn bị cho đến chi tiết nhỏ nhặt, nhờ đó,
hệ thống liên lạc ấy mới có thể chịu đụng được các thử thách trong thực tế. Cần
nói thêm rằng các đơn vị bộ binh đã được trang bị tối tân, được tiếp tế một
cách gương mẫu và tính cách vô cùng cơ động. Các sư đoàn của Anh và Mỹ đã tham
chiếm với quân số được động viên của các lực lượng được bảo toàn kỹ lượng. Các
lực lượng ấy có thể bình thản khai thác các kinh nghiệm của một cuộc chiến
tranh đã kéo dài từ 5 năm qua, nhân trong thời gian huấn luyện. Ngược lại, đàng
sau quân lực Đức là cuộc viễn chinh tại Ba lan, Na Uy, Pháp, Ý, Ba nhỉ cán, và
Nga; quân lực ấy đã bị bạc nhược và kiệt sức, ẩm thực và tiếp liệu thiếu thốn.
Mùa đông tại Stalingrag đã bẻ gãy xương sống của quân lực này. Tổn thất vô phương
cứu gỡ lên đến con số gần nửa triệu người.

Không
quân Luftwaffe đã bị tiêu hao từ “trận đánh Anh quốc”. Tiếp theo đó, nó không
còn chú ý gì đến các kỹ thuật tân tiến.

Lời nói
của Clausewitz liên quan đến sức mạnh tinh thần vĩ đại trong chiến tranh, đã được
áp dụng cho phía Đồng minh. “ Sức mạnh vật thể chỉ được biểu tượng như là chiếc
cán gỗ, trong khi đó sức mạnh tình thần của đối phương vượt qua phía Đức quốc,
nơi mà những lời nói lảm nhảm của Hitler đã rơi vào khoảng không. Tuy nhiên, sự
chỉ huy thuần túy quân đội của Đồng minh đã tỏ ra kém hơn các sự hoàn thiện về
mặt kỹ thuật. Điều này đã được chứng tỏ trong các vấn đề liên quan đến sự kết hợp
và đường lối hành động của các thành phần khác nhau của quân lực. Lịch sử ít
khi cho thấy có ít các sự đụng chạm và không khí căng thẳng không tránh được giữa
các Đồng minh trong cuộc đổ bộ liên quốc gia ấy.

Ngay cả
trên lục địa, Bộ Tư lệnh tỏ ra có phương pháp, trong lãnh vực chiến thuật cũng
như chiến lược. Họ áp dụng nguyên tắc của Thống chế Foch vế vấn đề “an toàn
trong cuộc điều quân”. Họ cố gắng loại trừ sự may rủi, giảm thiểu tối đa các tổn
thất, chỉ tung ra một cuộc tấn công “ăn chắc”.

Chính
vì vậy mà các lực lượng đổ bộ, trước hết đã giống như là một cây thước cứng rắn
gạt bằng đối phương, hơn thế nữa là một bánh xe lăn ép bằng hơi có sức mạnh
nghiền nát từ từ, nhưng chắc chắn.

Cũng
như, trong cuộc đổ bộ tại Phi châu, năm 1942, Bộ Tư lệnh Đồng minh không triệt
để khai thác các khả năng chiến lược mà họ có được nếu không, chiến tranh đã chấm
dứt từ năm 1941.

Để thí
dụ các trường hợp bỏ qua cơ hội tốt, chúng ta chỉ cần nhắc lại rằng họ đã không
chú ý đến sự sụp đổ của phòng tuyến song Seine sau trận đánh bại “túi Falaise”,
họ bỏ sót cơ hội chọc thủng bức tường phía tây để tiến mạnh cho đến bên kia bờ
song Rhin vào trung tâm Đức quốc, vào tháng 9 năm 1944. Chỉ một mình tướng
Patton trong Binh đoàn Bradley là toan tính phá vỡ hàng rào an ninh để tung ra
các cuộc hành quân vĩ đại. Nhưng ông ta không thể thông truyền lòng hăng hái và
sự độ tiến của mình cho toàn thể Bộ Tư lệnh. Và chân chính ông cũng đã không mấy
được tán thưởng về các chiến công của mình.

Những
nhận định trên đã không làm cho ý nghĩa của cuộc đổ bộ tài chiếm thay đổi chút
nào: nó bẻ gãy và bao vây bức tường phía tây. Đối với Nga sô, nó đã đem lại sự
nhẹ nhõm đến nỗi trong các năm 1944, 1945, hống quân chỉ có thể chiến thắng nhờ
cuộc đổ bộ này. Các chiến thắng ấy cũng đạt được nhờ hậu thuẫn kỹ thuật của Hoa
Kỳ, thật vậy chiến xa T.34 của Nga chạy được với máy móc từ Mỹ gởi sang, tại
đây, trước khi cuộc đổ bộ bắt đầu và chỉ để dành cho sự sử dụng của người Mỹ
hơn 2.000 chiến xa được sản xuất hàng tháng.

Cuộc
tái chiếm đối với Lịch sử chiến tranh vẫn sẽ còn là một biến cố vĩ đại, phải
chăng là nhờ các kết quả đạt được do sự tập trung và đường lối chỉ đạo lần đầu
tiên ba binh chủng hướng về một mục tiêu độc nhất.

Về phía
Đức quốc, người ta đã không đo lường kỹ sự biến đổi các biện pháp đòi hỏi trong
một trận chiến tranh tân tiến để lượng định tương quan lực lượng trên bộ, trên
biển và trên không.

Vị tướng
soái “Adolf Hitler” đã có một tâm tánh của người ở lục địa. Ông vẫn còn vướng mắc
vào các kỷ niệm của trận địa chiến thời Đệ nhứt Thế chiến. Một cuộc chiến đấu
có cả 3 binh chủng dự chiến, nhưng với động lực trên bộ và trên không, chống lại
toàn diện thế giới, đã vượt quá sức mạnh kinh tế và kỷ luật của Đức. Đó là điều
mà Hitler không muốn thừa nhận. Hàng sư đoàn không được cơ giới quá đầy đủ,
theo kiểu chiến đấu xưa cũ, đã bị bắt buộc phải đối đầu với một thế giới cơ khí
hóa; 4.000 cây số bờ bể và biên giới của địch thủ phải được phòng vệ bởi 60 sư
đoàn theo cách tổ chức xưa cũ; một không lực với 90 phi cơ săn giặc và 70 oanh
tạc cơ( vào lúc cuộc đổ bộ bắt đầu) phải bị bắt buộc giải tỏa không phận, thám
sát và yểm trợ lực lượng trên bộ. Bộ Tư lệnh tối cao Quân lực vào mùa 1944, phải
tung ra lệnh này: “ Tất cả phi cơ đang bay trên không phận đều bị coi là phi cơ
địch”.

Sự thiếu
thận trọng, tính cách tài tử của Bộ Tư lệnh tối cao đi song hành với nhau.

Ông
Fuhrer và ông Tổng Tư lệnh quân lực Đức đưa ra các mệnh lệnh, trong những tuần
lễ đầu của cuộc đổ bộ, từ Berchtesgaden rồi từ Đông Phổ. Vì khoảng cách quá xa
và vì không có khả năng liên lạc hàng không, kết quả còn trầm trọng hơn là hậu
quả mà Bộ Tư lệnh đầu tiên phải chịu đựng trong trận chiến tại sông Marne năm
1914 ở Lục Xâm Ba.

Về phía
Đức, không một giới chức thẩm quyền cao cấp nào tiến đến mặt trận, bên Đồng
minh Winston Churchill là một trong các nhân vật đầu tiên đặt chân lên lục địa
trong khi cuộc đổ bộ đang diễn tiến.

Sự hỗn
độn trái với nguyên tắc chỉ huy, phát minh ra từ các trận đánh của các thành phần
khác nhau thuộc quân lực Đức và từ các tu quốc xã đã làm chống lại với tất cả mệnh
lệnh rõ ràng; nó chỉ làm cho quyền hành bị chia vụn. Chính con người ngoài mặt
trận phải trả giá cho tất cả điều đó.

Lòng
tin giữa Bộ chỉ huy và các đơn vị thay thế bởi sự cưỡng ép, bởi sự đặt điều nói
láo, tòa án chính trị và tòa án binh. Cảm nghĩ vui sướng của trách nhiệm và của
sáng kiến tại các cấp thuộc hạ mà ngày xưa là một biểu hiện vinh quang của người
quân nhân Đức, nay đã bị dập tắt. Với mộ tình thế như vậy và khi đem ra cân bằng
các lực lượng hiện tại, thì chỉ có một chiến lược vĩ đại, lấy ra từ các quyết định
chính trị, mới có thể hứa hẹn sự chiến thắng, hay mang lại các phương thuốc chữa
bệnh. Thay vì như vậy, người ta lớn tiếng cãi vã trên khắp tất cả các mặt trận.
Những quyết định chiến lược ban hành kịp thời có thể tránh cho phía Đức những vố
tàn khốc của quân địch: phía đông, lẽ ra phải thu ngắn và tăng cường lực lượng
trừ bị mạnh mẽ; phía Nam, lẽ ra phải cố giữ vững phòng tuyến Pise-Florence-Adriatique
và phòng tuyến Alpes; sau cùng tại phía Tây, lẽ ra trước hết phải di tản chiến
thuật khỏi đất Pháp về phía Nam song Seine, kết tạo một cuộc dàn quân tập trung
ở cánh phía Đông, tiên liệu các điểm rút lui và phòng thủ.

Trái lại,
bị lôi kéo bởi chính sách và hệ thống tuyên truyền của ông để từ chối tất cả mọi
sự thỏa hiệp, Hitler đã thiếu hẳn sự sáng suốt khách quan. Ông bắt buộc tử thủ,
bám chắc địa thế bằng mọi giá, “bất động hóa” cả 200.000 người trong những cái
gọi là “pháo đài”. Tất cả những điều đó đã đưa lại sự mệt mỏi quá sức về thể chất,
tinh thần và tri thức của người chiến binh ngoài mặt trận. Như trong mùa đông tại
Nga sô năm 1942- 1943, đã xảy ra hiện tượng xuất huyết trong các đơn vị. Riêng
về phần phòng thủ, thì đã phải phòng thủ với một sức mạnh hỏa lực yếu kém, và
không được kêu gọi các thành phần khác nhau của Quân lực yểm trợ.

Về phần
đường lối hành quân trên cấp bậc cao, Hitler không bao giờ ra chỉ thị có tầm ảnh
hưởng lâu dài, ông ta bằng lòng với các mệnh lệnh chiến thuật đặc biệt, ảnh hưởng
đến cấp bậc thấp nhất của hệ thống chỉ huy. Phần nhiều trường hợp, các mệnh lệnh
ấy đến quá trễ về phương diện không gian và thời gian. Với các phương pháp như
thế, vì coi thường phẩm giá của con người chiến binh và của con người, ông ta
không bao giờ có thể tiến đến chỗ tin tưởng mà gánh nặng chiến đấu đòi hỏi phải
có.

Tổng số
tổn thất tại mặt trận Miền Tây trong mùa hè 1944 lên đến con số nửa triệu người
gồm cả các đơn vị bị cầm chân trong pháo đài, không thể nào ước lưỡng tồn thất
về mặt quân dung; trong chiến trận tại Miền Tây năm 1940 đã có tổng cộng 40.000
chết. Cũng tại Miền Tây, Hitler không có khả năng, để nói như Clausewitz, để cảm
thức “cao điểm của trận đánh với một linh cảm bén nhạy trong sự suy đoán”. Ông
ta lừa phỉnh gây ảo tưởng nơi kẻ khác, nhưng điều kinh khủng hơn hết là ngay
nơi chính ông, cũng như vậy khi ông tìm cách che đậy sự thật hiển nhiên, tạo niềm
hy vọng vào các vũ khí “kỳ diệu”, thay vì rút ra những kết luận chính trị từ
các biến cố.

Năm
1944, Adolf Hitler vẫn còn đánh giá thấp, một cách không còn vãn cứu được nữa,
đối thủ tại Miền Tây: “Không có một chiến binh thận trong nào lại đi khinh thường
kẻ địch của mình”, Goethe đã viết trong cuốn Iphigénie như thế, Hitler, con người
thiếu ý thức về kích thước và phóng đại sức mạnh ý chí của minh, tiếp tục sống
với bằng ma quái của ông. Bị xâu xé bởi những ý tưởng thái qua, ông ta hy sinh
xương máu của dân tộc, do bởi quan niệm “độc đoán trong sự phòng thủ” ngu xuẩn,
cũng như do bởi các cuộc tấn công tại mặt trân Normandie, và trước hết là tại
Avranches.

Một
quân lực hết còn là một quân lực khi nó không còn khả năng chiến đấu, một bộ chỉ
huy chính trị và quân sự ý thức được trách nhiệm, phải biết rút tỉa các hệ quả
trong các cuộc chiến tranh. Chỉ cần nhắc lại cuộc chiến tranh 1870-1872 đối với
người Pháp, đối với người Đức, kết cuộc của Đại I thế chiến, với Hindenburg-
Ludendorff vào mùa thu 1918. Trong mùa hè 1944, quyết định trầm trọng này lại
áp đặt thêm một lần nữa.

Những
quân nhân ý thức được trách nhiệm của mình - và trong số đó có Rommel thử tìm
cách loại trừ Hitler và chấm dứt chiến tranh. Chính vì vậy mới xảy ra vụ mưu
sát ngày 20 tháng 7 năm 1944. Mưu toan đã thất bại. Nó không đưa lại một hậu quả
tức thời nào cho mặt trận; chỉ rất lâu về sau, biến cố đó mới xuất hiện trong
các động lực, các sự bành trương, các hậu quả của chiến trường.

Vẫn
khăng khăng gạt bỏ bằng chứng thất bại rõ rệt, Hitler vẫn tiếp tục đằm mình
trong các ảo tưởng của ông: hy vọng vào hiệu năng của V1, vào chiến tranh tiềm
thủy đỉnh, vào sự hủy diệt của liên minh Nga, Mỹ, v.v… Ông ta không hề rút ra một
hậu quả hợp lý nào của thực tại. Ông ta không muốn thế.

Số phận
của quân lực Đức kết thúc bi đát như thế. Nhờ các thành tích và nhờ tu thế
riêng, các sư đoàn của Đức đã thảo mãn các đòi hỏi của Von Seeckt, khi ông yêu
cầu nơi người binh sĩ một “Sự can đảm lạnh lung có thể cho phép chịu đựng trong
cơn hung họa”.

[Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com
- gác nhỏ cho người yêu sách.]

Một sự
can đảm như thế, can đảm có thể đưa đến chỗ hy sinh tính mang, đã được phung
phí cho một con quỹ: đấy là tấn thảm kịch của tất cả những quân nhân Đức can đảm
của lịch sử Đức quốc, thảm kịch đưa đến kết quả là định mệnh kinh hoàng. Không
một ai thoát khỏi khổ đau. Trong số cả triệu quân nhân Đức, hành trăm ngàn người
vẫn còn bị giam cầm cho tới ngày nay; hàng trăm ngàn người khác đã chết trong
vòng bí ẩn tuyệt đối; các cấp chỉ huy của họ, những người ít ra là đã không bị
gục ngã trên chiến trường, đã chết vì sợi dây treo cổ hay do sự tự vẫn; những
người khác nữa đang bị giam cầm hay đi lang thang khắp xứ, ăn mày vô gia cư. Những
quân nhân hồi hương chỉ tìm thấy một quê hương bị tàn phá; những gì còn lại
trên đó là sự tràn ngập hàng triệu người chạy trốn hay được di tản.

Nếu một
nền hòa bình thật sự được thiết lập, phải mang lại công lý cho tất cả mọi người
cũng như cho các binh sĩ chiến bại và cho hành triệu người đã chết. “ Ý thức
danh dự quân đội không thể nào được đạt đến bởi những cuộc bàn cãi liên quan đến
vấn đề trách nhiệm. Người nào đã làm bổn phận của mình, là người bạn trung
thành không bao giờ rời trong cơn nguy khốn, con người đã chứng tỏ lòng can đảm
và thẩm quyền trong hoạt động của mình, con người đó có quyền giữ lại một cái
gì không thể bị tấn công được với sự hiện hữu của mình và trong tâm thức của
mình. Những tình cảm thuần túy quân sự nhưng đồng thời là tình cảm con người,
là chung cho tất thảy mọi dân tộc. Chính tại đây mà bổn phận một khi đã được
thi hành, có thể được dùng làm nền tảng cho ý nghĩa của cuộc sống.” (Karl
Jaspers).

Đức quốc
cũng vậy, thoát khỏi các lầm lỗi, và khi mà một Âu châu mới, đoàn kết trong một
thế giới hòa bình, không thể nào tồn tại mà không có yếu tố vô hình này: đó
chính là Tinh Thần, mà ngày xưa tất cả các quân nhân đã rút ra sức mạnh, và
trong đó, sự hy sinh của những Người Xuất chúng nằm yên nghỉ.

Saigon
mùa thu 1973

Thực hiện bởi
nhóm Biên tập viên Gác Sách:
Chim Cụt - Kaitoukiddo - trangchic
(Tìm - Chỉnh sửa - Đăng)

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3