Ta Đã Làm Chi Đời Ta - Chương 2 - Phần 2
Chu Ngọc, một nhân vật khá đặc biệt trong giới Văn Lâm. Vì thật ra, Ngọc chẳng hề viết một bài văn nào, chứ đừng nói đến xuất bản thành sách. Thế mà Ngọc quen hầu hết anh chị em trong làng, và chẳng bị một ai ghét bỏ hay phủ nhận. Ngọc khoe với Hoàng rằng đã từng viết nhiều bài báo, phê bình phim Cánh đồng ma, lý luận xác đáng và phong phú đến độ thiên hạ mặc nhiên coi Ngọc như một chuyên viên sân khấu. Rồi Ngọc tự phong cho mình cái danh hiệu “đạo diễn”. Thì Hoàng cũng biết vậy thôi. Và lẽ dĩ nhiên, Ngọc sẽ là Đạo diễn của Ban Kịch Hà Nội; sẽ phụ trách dựng hai vở kịch: Thế chiến quốc và Bóng giai nhân.
Trong bộ ba Ngọc – Hoàng – Bính, Ngọc là người thực tế nhất; không gặp đâu hay đó như Hoàng, không đau khổ vớ vẩn như Bính. Cho nên khi xe lửa tiến vào ga Hải Dương, Ngọc tính toán rất kỹ:
Qua đêm nay, mai tôi về Hà Nội sớm. Bảo cho Lê Trọng Quỹ biết để hắn liệu thủ vai Ngô Thì Nhậm trong vở Thế chiến quốc; Ngọc Đĩnh sẽ thủ một vai quan trọng khác: vai Đặng Trần Thường. Những vai còn lại, ít quan trọng, thế nào trong 24 giờ cũng tìm ra. Chỉ lo vở Bóng giai nhân vì đó là kịch thơ, một hình thức sân khấu còn xa lạ đối với khán giả, nhất là khán giả của nơi đồng chua nước mặn vốn là một cửa biển, thích hợp với chuyện kỹ nghệ chuyện thương mại hơn chuyện thơ phú văn chương. Nhưng cũng may ở điểm kịch Bóng giai nhân chỉ có ba vai rưỡi…
“Sao lại… rưỡi?”
“Thì cái vai giai nhân đó, chỉ là bóng thôi, chỉ xuất hiện trên sân khấu dạo qua dạo lại mấy lần thôi; chứ có nói một lời hay ngâm một câu thơ nào đâu. Khoản ấy đỡ mệt cho mình lắm nhé”.
“Nhưng còn ba vai kia?”
“Đều là vai nam cả. Bính, tác giả, sẽ sắm vai Lý Đạt, thợ đúc gươm. Hoàng thì sắm vai tráng sĩ đi tìm mua gươm báu. Ổn quá rồi. Chỉ còn việc về Hà Nội tìm người thủ vai Đạo sĩ nữa là xong. Mà, vai này nhẹ; Kim nó thủ được đấy”.
“Kim nào?”
“Trần Huyền Trân ấy mà [5]!”
“Ừ, cứ cho là được đi.”
[5] Trần Kim, bút hiệu Trần Huyền Trân, bạn thơ rất thân của Nguyễn Bính.
“Vậy ông Bính chỉ chỗ hiện nay vở kịch để ở đâu. Tôi về Hà Nội lấy đem xuống đây ngay, nội nhật ngày mai thôi. Ông và Hoàng sẽ tập dượt với nhau đi, càng xong sớm càng tốt. Mà… mà… Bính là tác giả tất phải thuộc ít nhiều chứ? Ngay ngày mai, trong lúc vắng tôi, hai ông có thể cứ bắt đầu tập rượt theo phép “truyền khẩu” được rồi”.
“Diễn kịch chứ đi ăn cướp đâu mà gấp thế?
“Còn khó hơn đi ăn cướp nhiều. Không gấp sao được! Nhưng nói vậy thì nói; chứ ai dám ra lệnh cho các ông!”
Từ nãy đến giờ, độc có Hoàng đối đáp với Ngọc, còn Bính chỉ ậm ừ; vì bao nhiêu tâm trí còn để cả vào việc “tìm lối Thiên Thai”. Bỗng nhiên, Bính dừng bước ngó quanh ngó quẩn, xác định phương hướng, rồi reo lên:
“Đây rồi”.
Thì ra, hôm còn ở Cảng, Bính đã tỉ tê thế nào chả biết với Lan sơn phu nhân, nên được giới thiệu ngay nhà bà Nghị ở xóm Đầu Ghi… nơi xuất thân của chính phu nhân, trước khi về làm vợ một thi sĩ nổi tiếng, đã từng được Thế Lữ ca ngợi trên tuần báo Phong Hóa từ năm xửa năm xưa, cái thuở ban đầu của phong trào Thơ Mới.
Nhà bà Nghị quả nhiên sang thật, Tủ chè sập gụ, câu đối hoành phi bóng lộn. Các em đào nương lố nhố đến cả chục, đủ cỡ tuổi, từ trăng tròn đến trăng khuyết, trăng tàn lụi, trăng vô ảnh vô tung…
Đích thân bà Nghị ra nói chuyện, mời uống trà, và hát một bài cho quý khách nghe. Giọng hát vững thật; không trách từ ba mươi năm trước bà đã nức tiếng danh ca, khiến cho ông Nghị viên tỉnh Đông này say như điếu đổ, phải cưới làm “đệ nhị phòng”.
Nhưng điều đáng kể nhất là cô con gái của ông Nghị và bà Nghị: Cô Hoài. Một con người ngọc, thanh sắc lưỡng toàn, lại thông thạo chữ nghĩa, tiểu thuyết của Khái Hưng, của Ngọc Giao, của Thanh Châu, v.v. ném tứ tung ngũ hoành khắp giường ngủ, bàn phấn.
Kịp đến khi người ngọc ra ngồi gieo phách thì – nếu Hoàng không lầm – cả bộ ba đều bị tiếng sét ái tình giáng xuống cân não…
Hồng Hồng Tuyết Tuyết,
Mới ngày nào chưa biết cái chi chi… [6]
Giọng của người ngọc tất phải là giọng ngọc rồi, có khen cũng bằng thừa.
[6] Hai câu hát nói của cụ Dương Khuê; các đào nương ai cũng thuộc và hay hát bài hát nói đó nhất.
Tiếng sét ban đầu truyền điện ra càng mạnh. Thế này thì không khéo cả ban kịch Hà Nội với huy hiệu Tháp Rùa cũng bị đánh tan mất!
Nhưng còn may là Chu Ngọc đang mải tính toán việc dựng kịch, nên chỉ bị sét đánh ngất ngư. Nằm ngay đầu sóng ngọn gió là Hoàng với Bính; lại thêm ngọn đèn thần ở giữa hai ngọa khách này, khiến cho tiếng sét bổ xuống, gặp lửa càng phản kích sang hai bên. Hoàng và Bính tự nhận ra tiền thân họ Lưu họ Nguyễn. Chỉ phiền nỗi động Tiên có độc một nàng tiên mà thôi! Ác thế chứ!
Ác nhất là mai đã lại Chủ nhật rồi. Mà Chủ nhật tức nhiên Hoàng phải có mặt ở cảng để thứ Hai còn dạy học. Vả chăng còn phải về ký “bông” trang trải mọi thứ và giữ chút đỉnh làm vốn liếng. Ít ra cũng tối thứ ba mới tái đáo Thiên Thai được. Hận không?
Hình như Bính đã biết rõ những điều ấy hay sao mà coi bộ đắc ý lắm.
Xóm Ghi không có điện – điện hiểu theo nghĩa đen – nên không có quạt máy; nóng quá đi mất! Lại cái đèn “măng-xông” treo giữa nhà càng tỏa ra một nhiệt lượng kinh khủng. Người ngọc với mặt hoa mà nhễ nhại mồ hôi thì đứt ruột cho kẻ si tình biết mấy! Cho nên Bính cứ phải “… anh hầu quạt đây”[7] luôn bên cạnh. Chả biết “lòng anh” có “mơ với quạt này” không, nhưng “lòng em” thì vẫn… “như chiếc lá khoai” thì phải. Nghĩa là cô Hoài vẫn có vẻ khủng khỉnh thế nào! Ít nói quá, chỉ cười chiếu lệ thôi.
[7] Chỗ này, mượn tạm bài thơ Huy Cận; trong bài Ngậm ngùi:
Ngủ đi! Hãy ngủ! Anh hầu quạt đây.
Lòng em mở với quạt này…
Hoàng đang hận về cái mục trưa mai phải tạm thời “xuống núi” nhìn thấy cảnh đó càng nóng mắt, đã tính bảo cô ta vào nhà trong đi nghỉ cho được việc.
Nhưng chưa kịp mở miệng thì bà Nghị đã ra xin phép cho cô con gái cưng trở gót phòng loan. Đồng thời cũng ra lệnh cho đám “con nuôi” quạt màn để “các ông ấy” yên giấc.
Đêm nay hẳn tác giả Lỡ bước sang ngang phải hút thuốc lào vặt nhiều hơn cái đêm “Bắc Giang nằm muỗi”…
Theo đúng kế hoạch, sớm hôm sau Chu Ngọc lên đường từ lúc gà gáy.
Hoàng ngủ lỳ đến 11 giờ và toan ngủ nữa. Nhưng Bính lôi dậy cho kỳ được. Để Hoàng còn ra xe đi Hải Phòng chứ! Tử tế quá!
Hoàng biết vậy, liền chỉnh đốn y phục, ăn uống qua loa rồi chậm rãi nói chuyện với “ông bạn”:
“Còn nhớ chuyện Công Cẩn với Khổng Minh cùng mưu hạ Nam quận chứ [8]?”
“Lạ gì! Nam quận do Tào Nhân trấn thủ, tường đồng vách sắt mà!”
“Cái việc trấn thủ mặc người ta. Hẵng nói việc mình. Tôi, Khổng Minh, nhường cho cậu, Công Cẩn, đem binh tấn công trước. Nhưng nếu thất bại thì đến lượt tôi đấy nhé! Đừng có than trời!”
[8] Truyện Tam quốc chí hồi thứ 51:
Tào Nhân đại phá Đông Ngô binh;
Khổng Minh nhất khí Chu Công Cẩn.
Bính đồng ý ngay, coi bộ hừng lắm. Và Hoàng lẳng lặng ra xe. Mặc cho Bính độc chiếm giang sơn, yên trí rằng tối nay Ngọc sẽ từ Hà Nội xuống; còn Hoàng thì ít nhất cũng phải hai ngày sau. Càng nghĩ đến chuyện “nhường Nam quận”, càng thấy mình dại quá. Tuy nhiên, tính Hoàng vốn dĩ “gặp đâu hay đó”; về đến Cảng là quên ngay.
Thế mà không hiểu sao, suốt ngày thứ Hai, Hoàng nóng ruột vô hạn. Dạy học chẳng đâu ra đâu. Tới hôm thứ Ba thì đành dạy nốt buổi sáng, rồi ký “bông” và ra xe liền. Mấy giờ buổi chiều đã nói khó với một bạn đồng nghiệp nhờ thay tạm…
Lên đến Hải Dương mới hai giờ trưa. Hoài còn đang ngủ, mà… không có ai ngồi quạt bên cạnh mới lạ chứ! Ô hay, Bính đâu? Ngọc đâu rồi? Vắng tanh thế này nghĩa là gì?
Nhưng, kìa… Hoài đã thức giấc, ngồi dậy quấn lại tóc. Cái dáng vẻ của người ngọc lúc này sao gợi cảm thế! Bắt gặp một mỹ nhân vừa ngủ dậy mà thấy đẹp được, xúc động được, mê được… mỹ nhân ấy mới đích thực là “mỹ nhân”.
Cho nên Hoàng quên phắt cả hai ông bạn. Quên luôn cả chính mình đang ở đâu. Và… rồi cũng… tiến đến ngồi quạt hầu bên cạnh!...
Mãi đến chiều, Hoài mới đưa cho một mảnh giấy nhàu nát, chẳng biết lôi từ đâu ra!
“Cái ông tóc quăn quăn ấy bảo hễ anh xuống thì trao tận tay anh”.
“Thế còn ông kia?”
“Thì anh cứ xem trong giấy nói gì đã!”
Hoàng tuân lệnh. Thư rằng:
“Tôi mắc công việc ở Hà Nội, mãi sáng thứ Hai mới xuống Hải Dương. Lại bán được một tập thơ hộ Nguyễn Bính. Nhà xuất bản Hương Sơn ấy mà! Biết rằng ông còn ở Cảng đến chiều tối mới lên đây, tôi và Bình đành về Hà Nội từ sáng sớm để còn lãnh tiền tập thơ ấy chứ! Đợi ông thì mất đứt một ngày còn gì. Vậy ông tiếp được thư cũng liệu mà lên gặp chúng tôi ở Hà Nội ngay nhé! Công việc đang tiến hành. Ký tên: “Chu Ngọc”.
Lên ngay! Lên ngay!... Nhưng lên thế nào được! Giữa trưa xông vào nhà hát của người ta. Lại tri kỷ vụn cho đến bây giờ. Sắp lên đèn cả xóm rồi. Nói mới dễ nghe nhỉ?
Huống hồ lại đã mất công quạt cho người đẹp mấy tiếng đồng hồ rồi. Ít nhất cũng phải “neo thuyền” ở đây một đêm chứ!
Mặc dầu là nghe hát… một mình!...
Có điều lạ là hôm nay Hoài vui ghê lắm. Cứ nhảy như sáo ấy thôi. Điệu này thì Nguyễn Bính hạ Nam quận chắc không xong. Vả lại nếu thắng trận thì có thiên lôi cũng chẳng “kích” được Bính ra khỏi tỉnh Đông, chứ đừng nói Chu Ngọc! Bán được thơ lại càng có điều kiện nằm lỳ ở đây chứ. Ừ… ừ…! nhất định không xong rồi.
Thế là Hoàng cao hứng. Gọi trống phách đèn đóm cứ tưng bừng. Và bảo em Hoài rằng:
“Thôi! Hát mãi những bài cũ, chán chết! Đem giấy bút ra đây, anh viết một bài mới, xem có hay hơn bất cứ bài cũ nào không”.
Và sau đây là bài Mưỡu nói do chính Hoài đã hát đêm ấy cho độc một người nghe:
Bấy lâu đáy bể mò kim
Là nhiều vàng đá, phải tìm trăng hoa!
Sông Hoài thuyền ghé lân la
Giai nhân danh sĩ là ta với mình.
Nhu hoài nhất phiến
Gió say này quạt đến… cháy vần Ô,
Ai thề hoa ước quạt những ngày xưa?
Hoa ngại nắng, quạt sầu mưa, ngàn vạn kiếp!
Ráo chén, hồn hoa cười phấn điệp,
Duyên đề, xác quạt nhớ tiền thân.
Mộng Trạng Sinh ngủ lại bến sông Tần,
Muôn canh quạt xa gần chen cánh bướm…
Ta chẳng có hẹn núi, thề sông, tình trao duyên ướm.
Chỉ hoa nồng quạt đượm cứ hoài say.
Say hoài quạt chẳng dời tay.
***
Cũng phải thêm rằng bốn câu Mưỡu chỉ có một câu thật sự của Hoàng: câu thứ ba. Còn câu một câu hai là “Tập Kiều” và bốn câu mượn tạm của Nguyễn Bính [9].
[9] Hát ả đào vốn là một lối “văn chơi”, không phải là văn “dạy đời” hay “cứu nước”; do đó trong bài, tha hồ vay mượn cổ nhân. Thí dụ bốn câu Mưỡu có thể lấy nguyên văn Truyện Kiều cũng cứ được. Hai câu thơ (thất ngôn hay ngũ ngôn) cũng tha hồ tập cổ. Tuy nhiên, ở bài này của Hoàng, chỉ mượn hai câu trong Truyện Kiều là nguyên vẹn thôi (Tập Kiều).
Nguyên do đêm đầu tiên gặp em Hoài, Bính đã cùng với Hoàng đặt liên tiếp hai bài “Hát hãm” mỗi bài bốn câu. Như thường lệ Bính nhập cuộc là ra quân ngay, mặc dầu chỉ là một câu “Tập Cổ”:
Bán sinh phong cốt lăng tằng
Hoàng tiếp:
Nhu hoài nhất phiến sao bằng gửi đây.
Bính không ngần ngừ:
Tỉnh Đông mà có mái Tây,
Hoàng phải nghĩ một phút mới hoàn tất được:
Hồ vơi cung Bắc lại đầy gió Nam.
Đó là bài “Hãm” thứ nhất, còn bài thứ hai thì chính là bốn câu Mưỡu như trên đã chép. Hoàng ra quân trước:
Bấy lâu đáy bể mò kim
Bính rất thuộc Truyện Kiều, nên tiếp ngay:
Là nhiều vàng đá, phải tìm trăng hoa!
Hoàng nối thành câu thứ ba, mà điều kiện bắt buộc là phải có chữ Hoài:
Sông Hoài thuyền ghé lân la.
Bính được dịp cười ha hả; vì Bính chỉ có việc lấy câu thơ vẫn ngâm hàng ngày ra, lựa vần nối luôn, ý lại cũng hợp mới thú chứ. Câu thơ ấy gốc ở câu nói trong Tam quốc chí: “Thiên hạ anh hùng, Sứ quân dữ Tháo”; và Bính vẫn tự khen là “tuyệt”, phải khuyên son đủ tám chữ:
Giai nhân danh sĩ là mình với ta.
Nhưng nếu cứ “khiêng” cả câu này vào bài “Hãm” thì lạc vần, nên Bính đảo lại:
Giai nhân danh sĩ là ta với mình.
Hoàng đề nghị đổi quách ra thành:
Nào ai danh sĩ, ai là giai nhân?
Bính không chịu, bảo rằng tách rời giai nhân ra khỏi danh sĩ là “nhảm”, là “vô tình”, v.v.
Bính ơi Bính, đêm nay chẳng biết “cậu” đang tự hủy diệt ở xóm nào? Tôi ngồi nghe hát một mình – và em Hoài hát đấy nhé! – Không thể quên được cậu, nên trong bài hát, tôi để nguyên vẹn câu bốn Hãm của tôi và của cậu làm Mưỡu; không sửa một chữ nào! Quý nhau đến thế đấy, cậu ạ!
Ý nghĩ này cứ chìm nổi mãi theo giọng ngọc của “giai nhân”, khiến cho Hoàng – chả biết có phải là “danh sĩ” hay không – chợt cảm thấy tất cả cái đẹp cái say của tình bạn “giang hồ vặt’.

