Liêu Trai chí dị (Tập 1) - Quyển II - Chương 019 - 020
19. Nhiếp Tiểu Thiến
Ninh Thái
Thần người đất Chiết (tỉnh Chiết Giang), tính hào sảng, ngay thẳng tự trọng,
thường nói với người ta rằng bình sinh không biết tới người đàn bà thứ hai. Gặp
lúc có việc tới huyện Kim Hoa (tỉnh Chiết Giang), tới cổng bắc huyện thành vào
nghỉ trong một ngôi chùa. Thấy trong chùa điện tháp nguy nga tráng lệ nhưng cỏ
tranh cao lút đầu như không có người qua lại, thiền phòng hai bên đông tây cửa
chỉ khép hờ, duy gian nhà nhỏ phía nam thì then khóa như còn mới. Nhìn qua góc
đông điện có rặng tre to hàng chét tay, bên dưới có cái ao lớn, sen dại đã nở
hoa, có ý thích cảnh u nhã.
Gặp lúc
quan Học sứ về khảo khóa, giá thuê nhà trong thành đắt đỏ nên Ninh quyết ở lại,
nhân tản bộ đợi sư về. Trời sẩm tối có người sĩ nhân tới mở cửa gian nhà phía
nam. Ninh bước tới chào hỏi rồi ngỏ ý. Sĩ nhân nói: “Nhà này không có chủ, ta
cũng chỉ ở ngụ, nếu không chê là hoang vắng, sớm tối chỉ giáo cho thì may lắm!”
Ninh mừng rỡ bèn rải cỏ làm giường, ghép ván làm ghế, tính kế ở lâu. Đêm ấy
trăng sáng vằng vặc, trời trong như nước, hai người nằm gác vế dưới hiên chuyện
trò, hỏi han tên họ. Sĩ nhân tự nói họ Yến tên Xích Hà, Ninh tưởng là Chư sinh[1] chờ khảo khóa nhưng nghe
giọng nói không phải là người đất Chiết, hỏi thì đáp là người đất Tần (tỉnh
Thiểm Tây), ăn nói rất chất phác thật thà. Kế chuyện vãn đã cạn, hai người chia
tay đi nghỉ.
[1] Chư sinh: sinh viên nhà Thái học.
Ninh lạ
nhà nằm mãi không ngủ được, chợt nghe gian phía bắc có tiếng rì rầm như người
nói chuyện bèn trở dậy tới núp dưới song cửa sổ bằng đá dưới vách tường phía
bắc nhìn qua. Thấy sau tường có một khu nhà nhỏ, có người đàn bà khoảng hơn bốn
mươi tuổi và một bà vú già mặc chiếc áo hồng bạc màu, trên tóc cài cái lược to,
lưng gù già sọm đang trò chuyện dưới trăng. Người đàn bà nói: “Tiểu Thiến sao
mãi không tới?” Bà vú già nói: “Thế nào nó cũng tới mà.” Người đàn bà hỏi: “Nó
có oán thán gì với bà không?” Bà vú già đáp: “Ta không nghe thấy, nhưng nó có
vẻ buồn rầu.” Người đàn bà nói: “Con nhãi ấy thì không cần phải tử tế đâu.”
Chưa dứt lời thì một cô gái khoảng mười bảy mười tám tuổi tới, nhìn phảng phất
có vẻ xinh đẹp.
Bà vú
cười nói: “Đừng nói chuyện người vắng mặt, hai người bọn ta chỉ trò chuyện
thôi, mà con tiểu yêu lẻn tới không một tiếng động. May là bọn ta không nói gì
xấu.” Lại nói: “Tiểu nương tử thật là xinh đẹp như trong tranh, giả như già này
là đàn ông cũng bị bắt mất hồn rồi.” Cô gái nói: “Bà mà không khen ta thì còn
ai khen chứ.” Kế không rõ họ nói với nhau những gì, Ninh cho rằng đó là gia
đình nhà láng gìềng nên bỏ vào ngủ không buồn nghe nữa, hồi lâu tiếng trò
chuyện mới tắt. Ninh vừa thiu thiu sắp ngủ chợt thấy như có người tới chỗ mình
nằm, vội trở dậy nhìn thì ra là cô gái bên gian nhà phía bắc. Ninh ngạc nhiên
hỏi, cô gái cười đáp: “Đêm trăng không ngủ được, xin tới vui vầy.” Ninh nghiêm
sắc mặt nói: “Nàng phải đề phòng điều dị nghị còn ta thì sợ tiếng chê cười, lỡ
chân một bước thì hết cả liêm sỉ.” Cô gái nói: “Đêm hôm đâu có ai biết.” Ninh
xì khinh bỉ nhưng cô gái cứ lần lữa như còn muốn nói gì nữa, Ninh quát: “Đi mau
đi, nếu không ta kêu to cho người bên kia biết đấy.” Cô gái sợ lui ra ngoài cửa
nhưng lại trở vào đặt một nén vàng lên nệm, Ninh cầm lấy ném ra thềm nói: “Của
phi nghĩa chỉ làm bẩn túi ta.” Cô gái thẹn thùng quay ra nhặt vàng nói một mình:
“Người này sắt đá thật.”
Sáng hôm
sau có người học trò ở huyện Lan Khê dẫn theo một người đầy tớ tới ở trọ chờ
khảo khóa, đến đêm đột nhiên chết, lòng bàn chân có một lỗ nhỏ như dùi đâm rỉ
máu ra, không ai biết vì sao. Qua đêm sau thì người đầy tớ chết, cũng có dấu
vết như vậy.
Chiều tối
Yến sinh về, Ninh hỏi về chuyện ấy, Yến cho là yêu tinh nhưng Ninh vốn chính
trực cũng không sợ sệt. Nửa đêm cô gái lại tới, nói với Ninh rằng: “Thiếp từng
gặp qua nhiều người mà chưa thấy ai cứng rắn như chàng. Chàng quả là bậc thánh
hiền, thiếp không dám lừa dối. Thiếp họ Nhiếp tên Tiểu Thiến, chết yểu năm mười
tám tuổi, chôn ở cạnh chùa, bị yêu tinh bắt làm những việc hèn hạ, mặt dày ôi
gặp người, thật lòng rất không thích. Nay trong chùa không còn ai có thể giết
được, sợ sẽ sai quỷ Dạ Xoa tới hại chàng.” Ninh hoảng sợ xin chỉ cách thoát
thân, cô gái nói: “Chàng cứ ở chung một phòng với Yến sinh thì thoát.” Ninh hỏi
sao không dụ dỗ Yến sinh, nàng đáp: “ông ta là bậc kỳ nhân nên không dám tới
gần.”
Lại hỏi
làm cách nào để dụ dỗ người ta, nàng đáp: “Ai ôm ấp ta, ta sẽ lén đâm dùi vào
chân cho lập tức mê man rồi hút lấy máu dâng yêu tinh uống. Có khi đưa vàng cho
họ, thật ra không phải là vàng mà là xương quỷ La Sát, lưu lại để moi lấy tim
gan. Hai cách ấy cùng làm được cả thì tốt nhất.” Ninh cảm tạ, hỏi phải phòng bị
vào lúc nào, nàng đáp là đêm mai. Khi từ biệt, nàng khóc nói: “Thiếp rơi xuống
bể khổ, muốn tìm bờ lên mà không được. Chàng nghĩa khí xông mây, ắt có thể cứu
thiếp, nếu có thể đem nắm xương tàn của thiếp về chôn cho mồ yên mả đẹp thì còn
hơn cả ơn tái tạo.” Ninh quả quyết nhận lời, nhân hỏi mộ ở đâu, nàng đáp: “Cứ
ra chỗ cây bạch dương, trên ngọn có tổ quạ là đúng,” dứt lời bước ra cửa biến
mất.
Hôm sau
Ninh sợ Yến đi vắng, sáng sớm đã mời qua chơi, gần trưa thì sửa soạn cơm rượu
mời mọc, để ý quan sát Yến, kế hẹn tối ngủ chung phòng. Yến lấy cớ thích yên
tĩnh để từ chối, Ninh không nghe, ép phải mang giường chiếu qua. Yến bất đắc dĩ
theo lời, dặn rằng: “Ta biết túc hạ là bậc trượng phu nên rất kính mộ phong độ.
Nhưng có chút niềm riêng khó thưa ngay được, vậy xin đừng nhìn vào cái tráp của
ta, nếu không cả hai chúng ta đều bất lợi.” Ninh kính cẩn vâng lời, kế đều đi
nghỉ.
Yến để
cái tráp trên cửa sổ, vừa ngả lưng một lát đã ngáy vang như sấm, Ninh thì không
ngủ được. Khoảng gần hết canh một thì có bóng người thấp thoáng ngoài cửa sổ,
giây lát tới gần cửa sổ nhìn vào, mắt sáng rừng rực. Ninh khiếp sợ đang định
gọi Yến, chợt có một vật sáng loáng như giải lụa xé cái tráp bắn ra tiện đứt
chấn song cửa sổ bằng đá, lóe sáng một cái rồi quay ngay vào tráp như ánh chớp
tắt ngấm. Yến biết trở dậy, Ninh giả ngủ nhìn ra thấy Yến bưng cái tráp lấy vật
ấy ra vừa săm soi dưới ánh trăng vừa hít ngửi, ánh sáng lóng lánh, dài khoảng
hai tấc, mỏng như lá hành, kế bọc lại mấy lớp cho vào cái tráp thủng, lẩm bẩm: “Không
biết con quỷ già nào mà lớn mật làm hỏng cái tráp của ta,” rồi lại đi nằm.
Ninh lấy
làm lạ trở dậy hỏi, kể những điều mình thấy. Yến đáp: “Đã là bạn tri giao, sao
còn dám giấu giếm, ta là kiếm khách đây. Nếu không vướng cái chấn song đá thì
yêu tinh phải chết ngay lập tức, nhưng như thế cũng bị thương rồi.” Ninh hỏi
vật cất đi là cái gì Yến đáp: “Đó là thanh kiếm, vừa ngửi thấy có yêu khí.”
Ninh muốn xem thử, Yến rút ra một thanh đoản kiếm lấp lánh, Ninh vì vậy càng
thêm kính phục.
Hôm sau
Ninh xem ngoài cửa sổ thấy có vết máu, ra phía bắc chùa thấy một nấm mộ hoang,
bên cạnh quả có cây bạch dương trên ngọn có tổ quạ. Khi việc đã xong Ninh thu
xếp hành trang trở về, Yến sinh bày tiệc tiễn rất ân cần, tặng Ninh một cái bao
da rách, dặn: “Đây là cái bao kiếm, giữ kỹ thì lũ yêu tinh phải tránh xa.” Ninh
muốn theo học đạo, Yến nói: “Người tín nghĩa cương trực như ông có thể học
được, nhưng ông là người trong trường phú quý chứ không phải là người trong
mạch đạo.” Ninh nói thác là có em gái chôn ở đó đào mộ cô gái lấy hài cốt gói
lại thuê thuyền đem về quê.
Phòng
sách của Ninh nhìn ra cánh đồng, nhân chôn cất nàng ngay phía ngoài, cúng tế
khấn rằng: “Thương nàng hồn ma lẻ loi nên chôn cạnh nhà, khi ca khi khóc đều nghe
cho khỏi bị lũ quỷ mạnh làm nhục. Có bát nước mưa mời uống, chưa được ngọt
trong cũng mong đừng trách.” Khấn xong quay về nghe phía sau có người gọi: “Xin
đợi cùng về,” ngoái nhìn thì là Tiểu Thiến. Nàng vui vẻ cảm tạ, nói: “Chàng là
bậc tín nghĩa, thiếp có chết mười lần cũng không đủ đền đáp. Xin theo về ra mắt
cha mẹ chồng, dù làm đứa ở con đòi cũng cam lòng.”
Ninh nhìn
kỹ thấy nàng da ửng màu ráng hồng, chân thon như búp măng, nhìn ban ngày càng
xinh đẹp bèn dẫn về phòng sách, dặn ngồi đợi rồi vào trước thưa với mẹ. Mẹ ngạc
nhiên, lúc ấy vợ Ninh ốm đã lâu bèn bảo đừng nói ra vì sợ nàng kinh hãi. Vừa
nói xong thì cô gái nhẹ nhàng bước vào sụp lạy, Ninh nói: “Đây là Tiểu Thiến.”
Bà mẹ hoảng sợ nhìn nàng lo ngại, Tiểu Thiến nói: “Con lênh đênh một mình, xa
cha mẹ anh em, nay đội ơn công tử che chở tái tạo, nguyện sửa túi nâng khăn để
báo cao nghĩa.” Bà mẹ thấy nàng xinh xắn đáng yêu mới dám trò chuyện, nói: “Nương
tử ra ơn chiếu cố cho con ta, già này rất mừng. Nhưng bình sinh chỉ có đứa con
trai này để nối dõi tông đường, không dám cho nó lấy vợ ma.” Cô gái nói: “Con
thật không dám hai lòng. Người đã chết không đủ để mẹ tin cậy thì xin thờ chàng
làm anh, nương tựa nơi mẹ để sớm hôm hầu hạ có được không?”
Mẹ thương
nàng thành tâm bèn bằng lòng, nàng muốn vào lạy chào chị dâu nhưng mẹ lấy cớ
con dâu đang ốm từ chối. Nàng liền xuống bếp thay mẹ lo cơm nước, lên xuống ra
vào như người trong nhà. Tối đến bà mẹ e sợ, từ chối về phòng ngủ, không đặt
giường cho nàng. Cô gái biết ý bà liền trở ra, ngang qua phòng sách định vào
nhưng cứ ngập ngừng ngoài cửa như có điều sợ sệt. Ninh gọi vào, nàng nói: “Trong
phòng có kiếm khí ghê người, nãy giờ qua lại không dám vào gặp chàng là vì thế.”
Ninh biết là vì cái bao da, liền đem qua phòng khác treo, cô gái mới vào, tới
ngồi cạnh đèn một lúc không nói gì. Hồi lâu mới hỏi: “Tối đến chàng có đọc sách
không? Lúc nhỏ thiếp có học kinh Lăng nghiêm, nay đã quên quá nửa. Xin cho mượn
một quyển, tối rảnh nhờ chỉ cho.” Ninh nhận lời.
Nàng lại
ngồi im lặng, gần hết canh hai vẫn không đi, Ninh giục thì buồn rầu nói: “Hồn
côi ở xứ lạ sợ nấm mồ hoang lắm.” Ninh nói: “Trong phòng sách không có giường
nằm, vả lại anh trai em gái cũng nên tránh hiềm nghi.” Cô gái đứng dậy, mặt ủ
mày chau như muốn khóc, ngần ngừ bước ra cửa, xuống tới thềm thì biến mất. Ninh
thầm thương xót, muốn lưu nàng lại ngủ giường khác nhưng lại sợ mẹ mắng. Từ đó
cô gái sớm chiều tới hầu mẹ, bưng chậu múc nước rồi ra làm việc nhà, không việc
nào không theo ý mẹ, chập tối cáo lui qua phòng sách thắp đèn tụng kinh, đến khi
Ninh sắp đi ngủ mới buồn rầu trở ra.
Trước là
vợ Ninh ốm nặng bỏ hết việc nhà, bà mẹ vất vả không sao chịu nổi, từ khi cô gái
tới mới được thong thả nên trong lòng biết ơn nàng. Lâu dần thì yêu quý như con
ruột, quên luôn việc nàng là ma, chiều tối không nỡ bắt nàng phải ra khỏi nhà
nên giữ lại ngủ cùng. Cô gái lúc mới tới không ăn uống gì, nửa năm mới dần dần
hớp qua canh cháo, mẹ con Ninh đều rất thương yêu, kiêng nói tới chuyện ma quỷ
nên mọi người cũng không ai biết. Không bao lâu vợ Ninh chết, bà mẹ ngầm có ý
cưới Tiểu Thiến cho con trai nhưng lại sợ mang hại. Nàng biết ý, nhân lúc rảnh
rỗi nói với bà: “Con ở đây đã hơn một năm, chắc mẹ đã hiểu lòng con không muốn
hại người nên một lòng theo công tử không có ý khác. Chỉ vì thấy công tử quang
minh lỗi lạc, trời người đều phục nên thật lòng muốn nương tựa giúp đỡ để vài
ba năm nữa nhờ cậy được chút sắc phong cho vẻ vang dưới suối vàng.” Bà mẹ cũng
biết nàng không độc ác nhưng còn lo không có cháu nối dõi, cô gái nói: “Con cái
là do trời cho, tên chàng đã được ghi trong sổ phúc, có ba con trai, không vì
lấy vợ ma mà bị cắt giảm.”
Mẹ tin
lời bàn với con trai, Ninh mừng lắm bày tiệc báo cho thân thích bè bạn. Có
người xin nhìn mặt cô dâu mới, cô gái thản nhiên trang điểm lộng lẫy bước ra,
cả tiệc đều tròn mắt nhìn, không nghĩ là ma mà ngờ là tiên. Vì vậy họ hàng nội
ngoại đều mang lễ vật tới đến mừng, tranh nhau làm quen. Cô gái giỏi vẽ hoa lan
hoa mai, cứ vẽ ra đưa tặng để đáp lễ, người được tặng đều trân trọng cất kỹ,
lấy làm vinh dự.
Một hôm
cô gái cúi đầu đứng bên song cửa sổ có vẻ lo lắng buồn bã, kế chợt hỏi cái bao
da để đâu Ninh đáp: “Nàng sợ hãi nên ta gói cất ở chỗ khác.” Nàng nói: “Thiếp
nhận được sinh khí người sống đã lâu nên không còn sợ nữa, chàng nên đem ra
treo ở đầu giường.” Ninh hỏi làm thế là có ý gì, nàng đáp: “Ba hôm nay trong
lòng thiếp cứ hồi hộp không yên, có lẽ bọn yêu tinh ở Kim Hoa hận thiếp bỏ trốn
đi xa, e sớm chiều sẽ tìm tới đây.” Ninh đem cái bao da ra, cô gái lật đi lật
lại nhìn kỹ rồi nói: “Cái này là bậc kiếm tiên dùng để bắt ma quỷ, rách nát đến
thế này không biết đã giết bao nhiêu rồi. Hôm nay thiếp nhìn thấy còn rợn cả
người,” rồi đem treo lên.
Hôm sau
nàng lại bảo Ninh đem treo trên cửa, đến tối ra ngồi bên đèn, dặn Ninh đừng
ngủ. Chợt có một vật như con chim bay rơi xuống, nàng hoảng sợ nép vào sau tấm
rèm, Ninh nhìn ra thấy hình dáng nó như quỷ Dạ Xoa, mắt lóe như chớp, miệng đỏ
như máu, tay quờ quạng như sắp chộp bắt ai tiến thẳng tới trước cửa, dừng lại
hồi lâu rồi tới gần cái bao da, quờ móng giật lấy như muốn xé rách. Cái bao
chợt kêu soạt một tiếng, thấp thoáng như có nửa mình quỷ bên trong nhô ra nắm
Dạ Xoa kéo vào, tiếng động tắt ngay mà cái bao cũng co lại như cũ. Ninh hoảng
sợ, cô gái cũng bước ra mừng rỡ nói: “Hết lo rồi!” Cùng nhìn vào bao, chỉ thấy
có vài đấu nước trong mà thôi.
Vài năm
sau quả nhiên Ninh thi đỗ Tiến sĩ, sinh được một con trai. Sau khi Ninh lấy vợ
lẽ, mỗi vợ lại sinh một trai nữa, ba con sau đều làm quan, rất có danh tiếng.
20. Cỏ thủy mãng[1]
[1] Thủy mãng thảo.
Thủy mãng
là loài cỏ độc, mọc như dây leo, hoa tím như đậu ván, ai lầm ăn vào là chết
ngay, hóa thành ma thủy mãng. Tục truyền ma ấy không được luân hồi, phải có
người khác trúng độc chết thay vào mới được thác sinh, vì vậy suốt một dải sông
Đào Hoa ở đất Sở Trung (vùng Hồ Nam) có rất nhiều ma ấy.
Người Sở
nếu sinh cùng năm thì gọi là đồng niên, đưa thiếp ra mắt gọi nhau là canh huynh
canh đệ, hàng con cháu thì gọi bề trên là canh bá, quen lệ thành như thế. Có
Chúc sinh đi thăm bạn đồng niên, trên đường khát nước, chợt thấy bên đường có bà
già bày quán thí nước liền rảo bước tới. Bà già đón vào rót nước mời mọc ân
cần, sinh thấy có mùi lạ không giống mùi trà bèn đặt xuống không uống mà đứng
dậy đi ra. Bà già vội giữ khách lại rồi gọi: “Tam Nương, pha một chén trà ngon
đem ra đây.” Giây lát có một thiếu nữ bưng trà từ sau quán bước ra, tuổi khoảng
mười bốn mười lăm, nhan sắc tuyệt đẹp, ngón tay đeo nhẫn, cổ tay đeo xuyến sáng
loáng. Sinh đỡ lấy chén trà, tâm thần ngây ngất, ngửi thấy thơm phức liền uống
cạn, lại xin chén nữa. Thừa lúc bà già đi ra bèn đùa nắm tay cô gái, tháo một
chiếc nhẫn. Nàng đỏ mặt mỉm cười, sinh càng mê mệt bèn hỏi qua nhà cửa. Cô gái nói:
“Tối chàng tới thì thiếp còn ở đây.”
Sinh xin
một nắm trà, lại cất luôn chiếc nhẫn ra đi. Tới nhà bạn đồng niên thì thấy bụng
đau quặn, ngờ là vì nước trà bèn kể cho bạn nghe. Bạn hoảng sợ nói: “Chết rồi,
đó là ma thủy mãng. Cha ta ngày xưa cũng chết vì nó, không thể cứu được, làm
sao bây giờ.” Sinh cả sợ đưa gói trà cho bạn xem thì đúng là cỏ thủy mãng. Lại
đưa chiếc nhẫn ra, tả lại hình dáng cô gái, người bạn ngẫm nghĩ rồi nói: “Đó ắt
là Khấu Tam Nương.” Sinh thấy đúng tên liền hỏi vì sao biết, bạn đáp: “Cô ta là
con gái họ Khấu ở thôn Nam, nổi tiếng xinh đẹp, mấy năm trước ăn lầm cỏ thủy
mãng mà chết, ắt đã làm ma. Có người nói ai bị ma ấy hại, nếu biết được tên họ
mà tới nhà xin được cái quần cũ nó mặc đem về nấu nước uống thì có thể khỏi.”
Bạn vội
tới nhà họ Khấu kể rõ tình thật, lạy lục năn nỉ. Khấu nghĩ Chúc sinh chết thì
con gái mình sẽ được đầu thai nên không cho, người bạn tức giận về kể lại. Sinh
cũng nghiến răng căm hờn nói: “Ta chết rồi quyết không cho con gái y đi đầu
thai.” Người bạn cáng sinh về, gần tới cổng nhà thì chết, mẹ sinh khóc lóc chôn
cất con trai. Sinh để lại một con trai vừa đầy năm, vợ không thủ tiết được, nửa
năm sau bỏ đi lấy chồng khác. Mẹ sinh giữ cháu nội lại nuôi nấng, vất vả không
sao chịu nổi, sớm tối đau xót khóc lóc.
Một hôm
bà đang bế cháu khóc lóc trong phòng chợt sinh sừng sững bước vào. Mẹ cả sợ gạt
nước mắt hỏi, sinh nói: “Con ở dưới đất nghe mẹ khóc rất đau xót nên trở về để
sớm hôm hầu hạ mẹ thôi. Con tuy chết nhưng đã lấy vợ, nay cũng về cùng để giúp
đỡ mẹ, mẹ đừng buồn nữa.” Mẹ hỏi vợ là ai, sinh nói: “Họ Khấu để mặc cho con
chết, con rất căm hận, sau khi chết muốn tìm Tam Nương nhưng không biết nàng ở
đâu. Mới rồi gặp canh bá Mỗ chỉ cho, con tới thì Tam Nương đã đầu thai vào nhà
quan Thị lang họ Nhiệm. Con đuổi theo bắt nàng trở lại, nay đã làm vợ con, cũng
tâm đầu ý hợp không có gì khổ.” Giây lát có một cô gái ăn mặc lộng lẫy bước vào
quỳ xuống lạy mẹ, sinh nói: “Đây là Khấu Tam Nương.” Tuy hai vợ chồng không
phải là người sống nhưng mẹ nhìn thấy cũng được an ủi, sinh bèn sai Tam Nương
làm việc nhà. Tam Nương không quen làm lụng nhưng rất ngoan ngoãn với mẹ chồng,
từ đó vào ở luôn phòng sinh cũ không đi. Cô gái xin mẹ báo tin cho nhà mình
biết, sinh không muốn nhưng mẹ chiều ý con dâu nên báo cho họ Khấu.
Ông bà
Khấu nghe tin cả sợ, thắng xe kiệu tới ngay, vào thấy đúng là Tam Nương, nhìn
nhau khóc lạc cả giọng, cô gái khuyên mãi mới nín. Bà Khấu thấy nhà sinh nghèo
quá có ý thương xót con gái, nàng nói: “Con đã là ma thì sợ gì nghèo. Huống hồ
mẹ con Chúc lang đối xử với con rất có tình nghĩa, con đã yên phận rồi.” Bà
Khấu nhân hỏi bà già bán trà là ai, nàng đáp: “Bà ta họ Nghê, tự thẹn già nua không
dụ dỗ được khách đi đường nên nhờ con giúp cho thôi, nay đã thác sinh vào một
nhà bán rượu trong thành.” Kế quay lại nhìn sinh nói: “Chàng đã làm rể mà không
lạy cha mẹ vợ thì thiếp còn lòng dạ nào?” Sinh liền lạy chào. Cô gái bèn vào
bếp giúp mẹ chồng nấu cơm đãi thông gia. Họ Khấu thấy thế thương xót, khi trở
về liền sai hai tỳ nữ tới hầu hạ, gởi thêm trăm cân vàng, vài mươi tấm lụa,
thỉnh thoảng lại tặng biếu rượu thịt, mẹ Chúc sinh trở nên dư dật. Họ Khấu cũng
thỉnh thoảng gọi nàng về thăm nhà, nhưng cứ ở vài ngày thì nàng nói: “Ở nhà
không có ai, nên để con về sớm,” nếu cố giữ lại thì nàng lãng đãng tự về. Ông
Khấu xây cất nhà cửu cho Chúc sinh rất tươm tất, nhưng rốt lại sinh vẫn không
hề tới nhà cha mẹ vợ.
Một hôm
trong làng có người trúng độc cỏ thủy mãng chết nhưng lại sống lại, người ta
đồn là chuyện lạ. Sinh nói: “Đó là ta cứu sống đấy, y bị con ma Lý Cửu làm hại,
ta đã đuổi nó đi giúp.” Mẹ hỏi: “Sao con không tìm người khác thay thế cho
mình?” Sinh đáp: “Con rất căm thù bọn ấy đang định diệt trừ cho bằng hết, đâu
lại làm như chúng. Vả lại con được thờ mẹ là vui lắm rồi, không muốn đầu thai
nữa.”
Từ đó về
sau, những người trúng độc thường bày cỗ bàn giữa sân khấn vái sinh, đều thấy
hiệu nghiệm. Trải hơn mười năm, bà mẹ qua đời, vợ chồng cũng để tang nhưng
không ra tiếp khách, chỉ sai con mặc sô chống gậy làm lễ chôn cất mà thôi. Chôn
cất mẹ xong, lại ở hơn hai năm rồi cưới vợ cho con, nàng dâu là cháu nội Thị
lang họ Nhiệm. Trước là người thiếp của ông Nhiệm sinh được đứa con gái vài
tháng thì chết, sau nghe chuyện lạ của vợ Chúc bèn sai thắng kiệu tới nhà nhận
sinh làm con rể. Đến lúc ấy lại gả cháu nội cho con sinh, hai nhà qua lại nhau
không dứt.
Một hôm
sinh nói với con: “Thượng đế xét ta có công với người đời nên phong làm Tứ độc
Mục Long quân, nay ta đi đây.” Giây lát thấy giữa sân có bốn con ngựa thắng xe
mui vàng, chân ngựa đều mọc vảy, hai vợ chồng ăn mặc đẹp đẽ bước ra cùng lên
xe. Vợ chồng con trai khóc lạy đưa tiễn, trong chớp mắt đều biến mất. Hôm ấy
nhà họ Khấu thấy con gái về từ giã cha mẹ, cũng nói như lời sinh. Bà Khấu khóc
giữ lại nàng nói: “Chúc lang đi trước rồi,” rồi bước ra cửa biến mất. Con trai
sinh tên Ngạc, tự Ly Trần, tới xin ông Khấu cho lấy hài cốt Tam Nương về hợp
táng với sinh.