Liêu Trai chí dị (Tập 1) - Quyển III - Chương 051 - 052

51. Đại Nam

Hề Thành
Liệt là sĩ nhân ở Thành Đô (tỉnh thành Tứ Xuyên), có một vợ một thiếp, người
thiếp họ Hà, tiểu tự là Chiêu Dung. Vợ chết sớm, Hề lấy vợ kế họ Thân nhưng
không tử tế được với nhau, ngược đãi Hà làm khổ lây cả Hề, cả ngày cãi vã ầm ĩ
không sao sống nổi, Hề tức giận bỏ đi. Sau khi chồng đi, Hà sinh được một trai
đặt tên là Đại Nam. Lâu ngày Hề không trở về, Thân gạt Hà ra không cho ăn cơm
chung, cứ tính ngày đong gạo cấp cho.

Đại Nam
lớn dần, Hà không dám xin cấp nhiều hơn, phải dệt vải để kiếm thêm. Đại Nam
thấy trẻ con ở trường ngâm nga đọc sách thích lắm nói với mẹ muốn đi học, mẹ
thấy còn nhỏ quá nên tạm đưa tới trường cho học thử để làm khó. Nhưng Đại Nam
thông minh, học mau gấp đôi các trẻ khác. Thầy lấy làm lạ, tình nguyện dạy
không lấy tiền, Hà bèn cho con theo học, thù tạ chút ít cho thầy. Được hai ba
năm Đại Nam đã đọc thông kinh sử, một hôm về nói với mẹ: “Trong trường có năm
sáu đứa đều xin tiền cha mua quà bánh, sao con không có cha?” Mẹ nói: “Lúc nào
con lớn mẹ sẽ cho biết.” Đại Nam hỏi: “Con mới bảy tám tuổi, lúc nào mới là lớn,”
mẹ đáp: “Con tới trường đi ngang miếu Quan Đế thì nên vào lạy, người sẽ phù hộ
cho mau lớn.”

Đại Nam
tin lời, ngày hai buổi đi qua đều vào miếu lạy. Mẹ biết, hỏi con cầu xin chuyện
gì thì đáp: “Chỉ xin người sang năm cho con lớn như mười lăm mười sáu tuổi.” Mẹ
cười, nhưng Đại Nam sức học và vóc dáng đều tăng nhanh, đến năm mười tuổi đã
như mười ba mười bốn, làm văn thì thầy học cũng không thể thêm bớt sửa đổi. Một
hôm nói với mẹ: “Trước mẹ nói lúc nào con lớn mẹ sẽ cho biết cha ở đâu, nay đã
đến lúc rồi!” Mẹ nói: “Chưa đâu, chưa đâu!” Lại hơn một năm nữa, đã như người
lớn hẳn hoi, càng gặng hỏi luôn luôn. Mẹ bèn thuật lại ngành ngọn. Đại Nam nghe
kể vô cùng thương cảm, muốn đi tìm cha. Mẹ nói: “Con còn nhỏ lắm, mà cha con
sống chết ra sao chưa rõ, làm sao tìm được?”

Đại Nam
không đáp đi ra, đến trưa không về, mẹ tới trường hỏi thì thầy nói sau giờ cơm
sớm chưa trở lại trường. Mẹ cả kinh, thuê người đi tìm kiếm khắp nơi mà không
thấy tung tích. Đại Nam ra cửa, không biết nên đi đâu, cứ theo đường mà đi. Gặp
một người đang đi Quỳ Châu (huyện thuộc Tứ Xuyên), tự nói là họ Tiền, bèn xin
đi theo. Tiền thấy đi chậm chán quá, thuê cho con lừa đỡ chân, tiền lưng cạn
hết. Tới Quỳ Châu cùng ăn cơm, Tiền ngầm bỏ thuốc mê vào, Đại Nam mê man bất
tỉnh. Tiền chở tới một chùa lớn nói là con mình, đi đường bị ốm hết cả tiền ăn,
muốn bán cho sư. Các sư thấy mặt mũi khôi ngô tranh nhau mua, Tiền được vàng ra
đi.

Các sư đổ
nước cho, Đại Nam dần tỉnh lại, sư ông mới biết bèn tới xem, thấy tướng mạo lấy
làm lạ, hỏi biết được ngọn ngành càng thương, trách phạt các sư rồi cho Đại Nam
tiền bảo đi. Có Tú tài họ Tưởng ở huyện Lô Châu (tỉnh Tứ Xuyên) thi trượt trở
về trên đường gặp hỏi biết chuyện khen là hiếu, bèn dắt cùng đi. Tới Lô Châu ở
lại nhà Tưởng hơn một tháng, tìm hỏi khắp nơi. Có người nói trong các thương
nhân đất Mân (tỉnh Phúc Kiến) có người họ Hề, bèn chào Tưởng để đi Mân. Tưởng
tặng tiền áo giày, làng xóm cũng góp tiền giúp đỡ.

Trên
đường có hai khách buôn vải đi Phúc Thanh (tỉnh thành Phúc Kiến) rủ đi cùng. Đi
được vài ngày, họ nhìn thấy tiền trong túi Đại Nam bèn đưa tới chỗ vắng trói
tay chân cướp sạch rồi bỏ đi. Gặp lúc có ông Trần người huyện Vĩnh Phúc (tỉnh
Tứ Xuyên) đi ngang đó cởi trói cho chở về nhà. Nhà Trần giàu có, khách buôn các
trấn trong vùng phần lớn đều xuất thân từ nhà ông. Ông dặn các khách buôn Nam
Bắc hỏi giùm tin Hề, giữ Đại Nam lại cho học với các con mình. Đại Nam bèn ở lại
không đi đâu nữa, nên quê càng xa, tin nhà càng vắng.

Hà Chiêu
Dung sống cô đơn ba bốn năm, Thân thị chu cấp ít đi, ép phải tái giá nhưng Hà
tự làm lụng mà sống, không chịu đổi lòng. Thân bán bừa cho một khách buôn ở
Trùng Khánh (tỉnh Tứ Xuyên), người ấy bắt cóc Hà mang đi. Đến đêm Hà lấy dao tự
cứa cổ, người khách buôn không dám ép, chờ vết thương lành bán lại cho một
khách buôn ở Diêm Đình. Tới Diêm Đình, Hà tự rạch bụng thấy cả ruột gan, người
khách buôn sợ bó thuốc cho, khi lành rồi Hà chỉ xin cho làm ni cô. Người khách
buôn nói: “Ta có người bạn buôn không có ngọc hành thường muốn tìm một người để
may vá, ở với y cũng như làm ni cô, mà cũng có thể bù lại cho ta ít tiền,” Hà
nghe theo. Người khách buôn cho kiệu đưa đi, tới cửa chủ nhân bước ra thì là Hề
sinh. Nguyên Hề đã bỏ nghiệp nho đi buôn, người khách buôn thấy không có vợ nên
đem Hà tặng cho. Hai người gặp nhau kinh ngạc đau xót, cùng kể nỗi khổ, Hề mới
biết là có con trai đi tìm cha chưa về. Hề bèn nhờ các quán trọ dò hỏi tin tức
Đại Nam, còn Chiêu Dung từ chỗ là thiếp trở thành chính thất.

Nhưng
nàng trải nhiều tai nạn nên đau yếu lắm bệnh không làm được việc nhà, bèn
khuyên chồng lấy vợ lẽ. Hề nhớ lại tai họa trước đây nên không nghe, Hà nói: “Nếu
thiếp là kẻ tranh giành nơi giường chiếu thì mấy năm nay đã theo người sinh con
rồi, làm sao còn đoàn tụ với chàng như hôm nay! Vả lại việc người ta đối xử với
mình nay còn thầm đau trong lòng, lẽ nào mình lại đối xử như thế với người khác.”
Hề bèn dặn bạn khách buôn mua cho một người thiếp già hơn ba mươi tuổi. Qua nửa
năm, khách quả mua được người về, vào tới cửa thì ra là Thân thị, ai cũng lạ
lùng kinh sợ. Trước đó Thân thị ở một mình thêm được hơn năm thì anh là Bao
khuyên tái giá. Thân nghe theo, duy ruộng nương thì bị họ hàng nhà chồng cản
trở không cho bán, liền bán các vật dùng được mấy trăm lượng vàng về nhà anh ở.
Có người khách buôn ở huyện Bảo Ninh (tỉnh Tứ Xuyên) nghe nói có nhiều của hồi
môn bèn đút lót nhiều tiền cho Bao để lừa cưới. Nhưng người khách buôn già nua
không còn sức làm đàn ông, Thân oán anh không chịu ở yên, hết thắt cổ lại nhảy
xuống giếng, phiền nhiễu không chịu nổi. Người khách buôn giận, lục soát tiền
bạc lấy hết, định đem bán làm thiếp, nhưng ai nghe cũng chê đã quá ba mươi rồi.

Người
khách buôn đi Quỳ Châu đưa Thân cùng đi, người bạn buôn với Hề gặp bèn mua về.
Thân gặp mặt Hề thì vừa thẹn thùng sợ sệt không nói một câu. Hề hỏi người bạn
buôn biết rõ đầu đuôi bèn nói: “Nếu gặp được người đàn ông mạnh khỏe thì đã ở
lại Bảo Ninh, đâu có gặp nhau ở đây, cũng là số trời. Nhưng nay ta mua thiếp
chứ không phải cưới vợ, nên cứ vào lạy Chiêu Dung cho đúng lễ vợ cả vợ bé đã.”
Thân lấy làm nhục, Hề nói: “Trước kia ngươi làm vợ cả thì sao?” Hà khuyên thôi
nhưng Hề không chịu, cầm gậy đe dọa cưỡng ép, Thân bất đắc dĩ phải lạy, nhưng
trước sau vẫn không chịu hầu hạ, chỉ làm lụng ở phòng khác. Hà đều bỏ qua hết,
cũng không nỡ xét nét siêng năng hay lười biếng. Hề cứ chuyện trò yến ẩm với
Chiêu Dung là gọi Thân thị tới hầu hạ bên cạnh, Hà muốn sai tỳ nữ thay nhưng
không nghe. Gặp lúc ông Trần Tự Tông tới làm Huyện lệnh Diêm Đình, Hề có việc
tranh chấp nhỏ với người làng, họ bèn kiện Hề tội bắt vợ cả làm vợ lẽ, Trần
thét đuổi ra.

Hề mừng
ca ngợi ông với Hà. Một đêm đã khuya, đứa hầu nhỏ gõ cửa vào bẩm quan huyện
tới. Hề hoảng sợ vội tìm áo mũ thì quan đã tới cửa phòng, lại càng sợ không
biết làm gì. Hà nhìn kỹ, vội bước ra nói: “Con ta đây mà,” rồi bật khóc, Trần
bèn lạy phục xuống đất khóc nức nở, té ra Đại Nam lấy họ ông Trần nay đã làm
quan. Lúc trước từ kinh tới đi vòng qua quê cũ mới biết hai mẹ đều đã cải giá,
trong lòng đau xót. Họ hàng biết Đại Nam đã làm quan liền trả lại ruộng vườn
nhà cửa, Đại Nam cho đầy tớ ở lại sửa sang xây cất đợi ngày cha về. Kế được bổ
nhiệm ở Diêm Đình, lại muốn bỏ quan tìm cha, ông Trần hết sức khuyên can. Vừa gặp
lúc có người thầy bói bèn xin một quẻ, thầy bói nói: “Nhỏ làm lớn, dưới thành
trên, tìm trống được mái, tìm một được hai, làm quan rất tốt.” Trần bèn đi nhậm
chức, vì không tìm được cha nên làm quan không uống rượu ăn mặn.

Hôm ấy
nhận được đơn kiện của người làng thấy nói đến họ Hề có ý ngờ, ngầm sai tớ gái
dò hỏi thì quả là cha. Bèn nhân lúc đêm tối vi hành, gặp mẹ càng tin thầy bói
tài giỏi. Lúc ra về dặn đừng tiết lộ, đưa ra hai trăm lượng vàng, bảo cha sửa
soạn về quê. Cha về tới nơi thì nhà cửa mới mẻ, nuôi thêm người hầu ngựa cưỡi,
nghiễm nhiên là một đại gia. Thân thị thấy Đại Nam sang giàu càng hổ thẹn, anh
là Bao biết được, kiện lên quan giành lại ngôi vợ cả cho em. Quan xét được sự
thật, giận nói: “Đã tham của khuyên em tái giá, bỏ Hề lấy chồng hai lần rồi, lại
còn mặt mũi tranh giành cả lẽ như xưa à?” Rồi sai đánh Bao thật đau. Từ đó danh
phận rõ ràng, Thân coi Hà như em, Hà cũng coi Thân như chị, thức ăn cái mặc đều
chia cho. Thân lúc đầu vẫn sợ Hà trả thù, đến lúc ấy càng thẹn thùng hối hận. Hề
cũng bỏ qua lỗi trước, cho người nhà gọi Thân là Thái mẫu, chỉ không được phong
tặng thôi.

Dị Sử thị nói: Làm cho chúng
sinh điên đảo không biết đâu mà bàn, đó là sự khéo léo của tạo hóa vậy. Hề sinh
không thể sống được với vợ và thiếp thì chỉ là một người tầm thường thôi, nếu
không có mẹ hiền con thảo thì làm sao có được sự hội ngộ kỳ lạ, ngồi không mà
hưởng phúc đến trọn đời như vậy.

52.
Thạch Thanh Hư

Hình Vân
Phi người phủ Thuận Thiên thích đá, thấy đá đẹp là mua ngay không tiếc tiền.
Tình cờ đánh cá ở sông thấy có vật vướng vào lưới, lặn xuống gỡ thì được tảng
đá bề ngang khoảng một thước, bốn mặt lóng lánh lởm chởm như núi non rất đẹp,
mừng như được ngọc báu, lấy gỗ đàn hương tía chạm thành cái đế bày trên bàn.
Mỗi khi trời sắp mưa thì các lỗ sinh mây, nhìn xa như bông bay phơ phất.

Có nhà
thế hào Mỗ tới xin xem, nhìn thấy cướp luôn, đưa cho tên đầy tớ khỏe mạnh vác
rồi quất ngựa đi mất. Hình không làm gì được, chỉ biết giẫm chân căm tức mà
thôi. Tên đầy tớ vác đá tới bờ sông nghỉ vai ở trên cầu, chợt tuột tay, đá rớt
xuống sông. Nhà thế hào giận đánh đầy tớ rồi bỏ tiền thuê người giỏi lặn tìm đủ
cách mò lên mà vẫn không thấy, bèn treo tiền thưởng cho ai mò được rồi đi.

Từ đó
người mò đá hàng ngày kéo tới đầy sông mà không ai lấy được. Sau Hình tới chỗ
đá rơi, nhìn sông than thở thì thấy nước trong suốt, đá vẫn ở dưới đó. Hình cả
mừng cởi áo lặn xuống ôm lên, cái đế gỗ đàn vẫn còn. Về nhà không bày ở phòng
khách nữa, dọn sạch phòng ngủ đặt ở đó.

Một hôm
có ông già gõ cửa xin xem, Hình nói thác rằng mất đã lâu. Ông già cười nói: “Không
phải ở phòng khách sao?” Hình bèn mời vào phòng khách để chứng tỏ là không có,
vào tới thì thấy tảng đá bày trên ghế, kinh ngạc đớ lưỡi. Ông già xoa tảng đá nói:
“Đây là vật cũ của nhà ta bị mất đã lâu, vẫn còn ở đây à? Nay đã thấy xin cho
lại.” Hình cuống quá bèn cãi nói của mình, ông già cười hỏi: “Đã là của nhà ông
thì lấy gì làm bằng?” Hình không sao trả lời. Ông già nói: “Ta thì biết rõ lắm,
trước sau có tất cả chín mươi hai lỗ, trong lỗ lớn có năm chữ Thanh Hư thiên thạch
cung (Đá trời cung Thanh Hư ).” Hình nhìn kỹ quả trong lỗ có hàng chữ nhỏ như
hạt gạo, cố nhìn mới đọc được, lại đếm số lỗ thì đúng như ông già nói. Hình
không đáp được, chỉ giữ không chịu đưa ông già cười nói: “Vật của nhà ai mà ông
đòi làm chủ?” rồi chào ra.

Hình đưa
ra tới cổng, quay vào thì đá đã đâu mất. Cả kinh nghi là ông già lấy, vội đuổi
theo thì thấy ông thong thả đi cũng chưa xa, Hình chạy theo níu áo van xin. Ông
già nói: “Lạ chưa, tảng đá to cả thước, ai mà giấu được trong tay áo?” Hình biết
là thần, cố kéo về nhà, quỳ xuống năn nỉ. Ông già bèn hỏi: “Đá đó thật là của
ông hay của ta?” Hình đáp: “Quả là của ông, chỉ xin ông dứt tình mà cho thôi.”
Ông già nói: “Nếu thế thì đá vẫn ở đấy,” Hình vào phòng ngủ thì đá vẫn ở chỗ
cũ.

Ông già nói:
“Vật quý trên đời nên để cho người biết quý. Tảng đá này có thể tự chọn chủ, ta
cũng mừng. Nhưng nó vội xuất hiện, ra đời sớm thì ma kiếp chưa trừ, ta thật
muốn mang đi, ba năm nữa mới đem tặng ông. Nếu muốn giữ nó ngay thì phải giảm
thọ ba năm nó mới làm bạn với ông mãi được, ông có chịu không?” Hình đáp chịu,
ông già bèn lấy hai ngón tay miết lên một cái lỗ, cái lỗ mềm như bùn, theo ngón
tay vít kín lại, lần lượt vít ba lỗ. Ông già nói: “Số lỗ trên đá là số tuổi thọ
của ông,” rồi chào đi. Hình cố giữ lại nhưng ông nhất định chối từ, Hình hỏi họ
tên cũng không nói, ra đi ngay.

Hơn năm
sau, Hình có việc đi vắng, đêm có kẻ trộm vào phòng, không lấy vật gì mà chỉ
trộm tảng đá mang đi. Hình về buồn bã tưởng chết, dò hỏi thuê tìm nhưng không
thấy manh mối. Vài năm sau tình cờ vào chùa Báo Quốc, thấy có người bán đá, tới
gần xem thì là vật cũ bèn nhận của mình. Người bán đá không chịu, nhân vác đá
lên quan. Quan hỏi: “Lấy gì làm bằng?” Người bán đá nói đúng số lỗ. Hình hỏi
còn gì khác không thì không nói được. Hình bèn nói năm chữ trong lỗ và ba vết
ngón tay, việc liền rõ ràng. Quan định phạt đòn người bán đá, người ấy khai mua
ở chợ mất hai mươi lượng vàng, quan bèn tha. Hình mang được đá về, lấy gấm bọc
lại cất vào rương, thỉnh thoảng lấy ra ngắm thì đốt trầm trước rồi mới đem ra.

Có quan
Thượng thư nọ đem một trăm lượng vàng tới mua nhưng Hình thì vạn lượng vàng
cũng không bán. Thượng thư tức giận ngầm lấy việc khác hãm hại, Hình bị bắt, vợ
con cầm ruộng bán vườn chạy vạy, Thượng thư sai người bắn tin cho con Hình là
muốn lấy đá. Con thưa lại, Hình nói thà chết chứ không chịu mất đá. Vợ bàn
riêng với con đem đá dâng Thượng thư, Hình ra khỏi ngục mới biết, chửi vợ đánh
con, nhiều lần thắt cổ tự tử nhưng người nhà đều biết cứu thoát. Một đêm mơ
thấy một người đàn ông tới, tự xưng là Thạch Thanh Hư, nói với Hình rằng: “Đừng
buồn, chỉ tạm xa ông hơn một năm thôi. Mờ sáng ngày hai mươi tháng tám sang năm
cứ đem hai quan tiền tới cửa Hải Đại chuộc về.”

Hình mừng
rỡ ghi lại ngày tháng cẩn thận, mà tảng đá trong nhà Thượng thư cũng không sinh
mây nữa, dần dần cũng không quý trọng lắm. Năm sau Thượng thư có tội bị cách
chức, kế chết. Đúng ngày hẹn Hình tới cửa Hải Đại thì gia nhân Thượng thư ăn
cắp đá ra đang tìm người để bán, Hình bèn bỏ ra hai quan mua về.

Về sau
Hình sống đến tám mươi chín tuổi, tự sắm sửa quan quách, dặn con hễ mình chết
thì chôn đá theo. Kế chết, con theo lời chôn đá vào trong mộ. Khoảng nửa năm kẻ
trộm đào mộ lấy đá đi, con Hình biết nhưng không có cách nào đòi được. Qua hai
ba hôm dắt đầy tớ đi trên đường chợt thấy hai người mồ hôi nhễ nhại chạy theo,
ngẩng lên không cầu khẩn: “Hình tiên sinh tha cho bọn ta đi, hai đứa lấy đá
chẳng qua bán được bốn lượng bạc thôi,” liền bắt trói đưa lên quan, quan hỏi
liền nhận tội ngay. Hỏi đá thì họ khai là bán cho họ Cung, bèn lấy lên. Quan
nhìn thấy rất thích, muốn chiếm lấy bèn sai cất vào kho. Viên lại vừa bưng đi
thì đá chợt rơi xuống đất vỡ làm mấy mươi mảnh, ai cũng hoảng sợ. Quan cho cùm
kẹp hai tên trộm thật đau rồi tha ra. Con Hình nhặt các mảnh đá đem chôn vào mộ
cha như cũ.

Dị Sử thị nói: Vật kỳ lạ chỉ
mang họa tới, thế mà muốn đổi mạng sống lấy vật, cũng thật là si mê quá đáng.
Nhưng rốt lại đá lại cùng người có thủy có chung, ai nói rằng đá vô tình? Người
xưa nói: “Kẻ sĩ chết cho người biết mình”, thì không phải là sai. Đá còn như
thế, huống chi là người sao!

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3