Việt sử giai thoại (Tập 6) - Chương 10 - 15
10 - TRẬN TAM ĐIỆP
Trong cuộc hỗn chiến Nam - Bắc
triều, trận Tam. Điệp (1589) là một trong những trận ác liệt nhất. Với chúa
Trịnh Tùng, đây cũng là trận khẳng định năng lực cầm quân, khiến cho sĩ
khí Nam triều ngày càng phấn chấn. Sách Đại Việt sử kí toàn
thư (Bản kỉ tục biên, quyển 17, tờ 20 - b và tờ 21a - b) mô tả trận
này như sau:
"Bấy giờ, họ Mạc cử
binh, sai Mạc Đôn Nhượng thống suất tướng sĩ và quân khắp bốn trấn, định ngày
vào Yên Mô (Ninh Bình - ND) giao chiến với quan quân (chỉ Nam triều - ND). Tiết
chế Trịnh Tùng bàn với các tướng rằng:
- Nay họ Mạc đem đại binh tới, cốt để đánh một
trận sống mái với ta. Địch nhiều, ta ít mạnh yếu cách nhau xa lắm. Nhưng, ta
đang giữ đất hiểm, địch không dễ làm được gì. Binh pháp nói: Một người giữ được
chỗ hiểm, ngàn người không địch nổi. Ta đang ứng vào câu này đây. Vậy, ta nên
giả vờ rút quân để dụ chúng vào chỗ hiểm, khiến địch khinh ta mà đem quân đuổi
theo, khi đó, ta dùng trọng binh đánh úp, ắt là sẽ phá được.
Canh ba (vào khoảng từ 23
giờ đến 01 giờ) đêm ấy, Tiết chế Trịnh Tùng sai Nguyễn Hữu Liêu đem một vạn năm
ngàn quân tinh nhuệ và hai trăm cỗ khinh kị, đi gấp trong đêm tối, tới vùng
chân núi, tìm hang động, khe suối và những nơi có lau sậy để mai phục, hẹn
rằng, hễ nghe ba tiếng súng lệnh thì cho quân mai phục nổi lên đánh. Hữu Liêu
đem quân đi rồi, (Tiết chế Trịnh Tùng) lại sai Trịnh Đỗ, Trịnh Đồng, Trịnh Ninh
đem quân chặn phía sau. Xong, (Tiết chế Trịnh Tùng) hạ lệnh cho các quân cứ
theo đúng trận đồ mà rút lui, nếu thấy giặc đến thì cứ vừa đánh vừa chạy, chừng
nào đến chỗ có quân mai phục, hễ nghe thấy ba tiếng súng lệnh, thì phải lập tức
chuyển hậu quân thành tiền quân, đội ngũ, cờ xí tả hữu phải đúng như trận đồ đã
vạch. Các tướng nhận lệnh xong, trở về doanh trại, chỉnh đốn quân sĩ để đợi
giặc. (Tiết chế Trịnh Tùng) còn sai Ngô Cảnh Hựu đem quân chở lương thực, thu
nhặt hết mọi thứ vào núi Tam Điệp, cốt tỏ cho giặc biết việc lui quân, sai
Trung quân và Hậu quân lần lượt rút về Tam Điệp và đóng tại đó. Tiết chế tự
mình đốc suất tướng sĩ lên đường. Hôm ấy, tướng nhà Mạc sai người lên đỉnh núi
cao để quan sát, thấy quân (Nam triều) kéo về thì cười mà nói rằng:
- Nó thấy quân ta tới, tự biết là không kháng
cự nổi vì quân nó ít, thế nào nó cũng để Hoàng Đình Ái đi chặn hậu. Hỡi các
tướng sĩ, hễ người nào dấn thân cố sức đuổi kịp quân địch, bắt sống được tướng
giặc hoặc bắt được voi là công hạng nhất, về triều sẽ tâu xin thăng chức và
trọng thưởng.
Tướng Mạc cậy có quân đông,
hăng hái tranh nhau tiến lên phía trước, không hề nghĩ gì đến kẻ đi sau, đua
nhau đánh đuổi (quân Nam triều) đến tận chỗ hiểm của núi Tam Điệp. Ba tiếng
súng lệnh nổ vang, quân mai phục nhất loạt vùng dậy. Khi ấy, Tiết chế Trịnh
Tùng cũng tung đại quân ra đánh, cả bốn mặt cùng tấn công, toàn quân theo đúng
trận đồ, không hề sai lạc. Giặc tan vỡ phải chạy dài, bị chém hơn một ngàn thủ
cấp, bị bắt sống hơn sáu trăm tên. Tướng nhà Mạc lo sợ, thu nhặt tàn quân chạy
về Kinh Ấp, quan quân (Nam triều) toàn thắng, kéo về Thanh Hoa.”
Lời bàn: Kẻ đang mạnh mà nông
nổi, thường quên rằng, mình cũng từng có lúc là kẻ yếu và nếu không như vậy thì
biết đâu, đến một lúc nào đó, mình cũng sẽ là kẻ yếu. Kẻ đang yếu mà nông nổi
lại kém ý chí thì thường quên rằng, cũng đã có lúc mình từng là kẻ mạnh, và nếu
không như vậy, thì biết đâu, đến một lúc nào đó, mình cũng sẽ là kẻ mạnh. Thiên
hạ cứ đổ hết cho con tạo xoay vần, biết đâu, con tạo của ta cũng chính là ta
vậy.
Trong trận này, nhà Mạc nói
chung và tướng Mạc Đôn Nhượng nói riêng, đúng là kẻ mạnh mà nông nổi, thảm bại
thì có gì là lạ đâu. Nam triều quyết đánh suốt mấy chục năm trời để
giành quyền bá chủ, thế cũng đáng gọi là có ý chí. Trịnh Tùng dùng quân ít mà
đại thắng Bắc triều quân đông, thế cũng đáng gọi là có tài. Chỉ tiếc là Bắc
triều hay Nam triều thì cũng đều là dòng dõi con Hồng cháu Lạc, nào có vẻ
vang gì chuyện nồi da nấu thịt này đâu.
Đoạn sử này nhòe nhoẹt, hình
như khi viết đến đây, sử gia xưa đã phải rầu rĩ, bất đắc dĩ mà gật đầu khen
tài, để mặc cho dòng nước mắt nặng lòng thương đời chảy mãi.
11 - NGÀY TÀN CỦA HỌ MẠC
Năm Nhâm Thìn (1592) là năm
ghi nhận sự tàn lụi của họ Mạc. Kể ra thì sau đó, họ Mạc vẫn còn tiếp tục xưng
vương xưng đế thêm một thời gian nữa, nhưng thực lực chẳng còn, có cũng như
không vậy. Mở đầu triều Mạc là Mạc Đăng Dung, nhờ có tài đánh vật mà được bổ
làm quan, rồi dần dần, quật đổ cả nhà Lê mà lập ra nhà Mạc, tiếc thay con cháu
chẳng nối được chí lớn của tổ tiên, đến đây, vua của nhà Mạc là Mạc Mậu Hợp lại
gục ngã bởi một người đàn bà. Sách Đại Việt sử kí toàn thư (Bản
kỉ tục biên, quyển 17, tờ 31a - b) chép rằng:
"Mạc Mậu Hợp càng ngày
càng buông thả, đam mê tửu sắc một cách bừa bãi. Bấy giờ, vì vợ của Sơn Quận
công Bùi Văn Khuê là Nguyễn Thị Niên có chị ruột đang là Hoàng hậu của Mạc Mậu
Hợp, bởi vậy, bà vẫn thường hay ra vào trong cung. Mạc Mậu Hợp thấy bà có nhan
sắc mặn mà, lòng lấy làm thích thú lắm, bèn bí mật lập mưu giết Bùi Văn Khuê để
cướp vợ của ông ta. Cơ mưu bị lộ, Bùi Văn Khuê vội đem quân bản bộ chạy về
huyện Gia Viễn, phủ Trường Yên (nay thuộc Ninh Bình - ND) chứ không chịu ra
giúp Mạc Mậu Hợp nữa. Mạc Mậu Hợp cho gọi hai ba lần mà không được, bèn sai
tướng đem quân tới hỏi tội Bùi Văn Khuê.
Tháng 10 (năm 1592 - ND) một
mặt, Bùi Văn Khuê dốc quân đánh quân Mạc, mặt khác lại cho con chạy vào Thanh
Hoa, lạy xin đầu hàng (Nam triều), khóc mà nói rằng:
- Thân phụ của thần là Bùi Văn Khuê bị họ Mạc
ngầm sai quân đến bức hại. Thân phụ của thần sai thần thay mặt, liều đến tạ tội
và xin theo về với triều đình. Thần xin cúi mình hàng phục để cầu được sống,
nếu triều đình ưng thuận, thần xin khắc ghi ơn nghĩa vào tận xương cốt, trọn
đời cảm phục không quên. Nếu may mà thần được đội ơn đức lớn, được triều đình
xét rõ lòng thành, thì xin cho một lữ quân tới cứu. Thân phụ thần là kẻ hèn mọn
ở phương xa, nếu được oai trời rủ lòng thương xót đến, thì nhất định sẽ tình
nguyện làm người dẫn đường (đi đánh quân Mạc), cho dẫu có phải chết cũng không
dám chối từ, quyết lập công báo đáp.
Tiết chế Trịnh Tùng nghe
vậy, cười mà nói rằng:
- Văn Khuê về hàng, đó là ý trời muốn cho ta
được thành công. Đất đai của bản triều đã có thể định ngày lấy lại hết được rồi.”
Lời bàn: Mạc Mậu Hợp với Bùi
Văn Khuê, tuy lúc vào triều danh phận là vua tôi, nhưng khi về nhà, nghĩa tình
lại là anh em bạn rể. Mạc Mậu Hợp đã lấy chị, lại còn muốn chiếm luôn người em
vợ đã có chồng, ấy là tham. Bùi Văn Khuê đang lúc giận dữ nên lánh mặt không
ra. Mạc Mậu Hợp không tự hối lỗi, lại còn đem quân tới đánh, ấy là bất nghĩa và
thiển lậu. Đem quân đánh Bùi Văn Khuê thì có khác gì tình nguyện giúp Nam triều
chống lại chính mình? Mới hay, chia rẽ lúc lâm nguy cũng chẳng khác gì tự sát.
Lời Trịnh Tùng nói lúc con Bùi Văn Khuê đến hàng, quả là rất chí lí. Song le,
làm sao có thể bắt những kẻ tranh hùng trong thời loạn, một lòng một dạ chung
lưng đấu cật với nhau?
Đánh nhau với Bắc triều của
nhà Mạc, Nam triều phải hao binh tổn tướng, vất vả không biết bao nhiêu năm
trời, vậy mà trong phút chốc, chỉ vì một người đàn bà, vua Bắc triều là Mạc Mậu
Hợp đã gục ngã, thương hại thay!
12 - SỐ PHẬN MẠC MẬU HỢP
Mạc Mậu Hợp là con của vua
Tuyên Tông Mạc Phúc Nguyên, sinh vào năm nào không rõ, chỉ biết được lên nối
ngôi từ năm 1562 và làm vua nhà Mạc từ đó cho đến năm 1592. Trớ trêu thay, tên
vua là Mậu Hợp nhưng chính sự triều Mạc ở thời trị vì của vị vua thứ năm này
lại là lìa tan. Có thể nói, năm 1592 là năm đánh dấu sự chấm dứt vai trò của họ
Mạc trên vũ đài chính trị của nước nhà.
Sau nhiều trận đại bại liên
tiếp, thế cùng lực kiệt, Mạc Mậu Hợp buộc phải rời bỏ kinh thành Thăng Long,
chạy trốn lên vùng Đông Bắc. Kẻ trung thành và người theo hầu hạ ngày một ít
dần, đất đai bị Nam triều chiếm lại gần hết. Cuối năm 1592, Mạc Mậu Hợp quyết
chí tự mình cầm quân để đánh trận quyết định với Nam triều, nhưng cả
cố gắng cuối cùng này cũng bị Nam triều đè bẹp. Bắc triều tan rã, vua
quan và tướng sĩ không sao liên lạc được với nhau nữa. Số phận của Mạc Mậu Hợp
sau trận thua thảm hại này, được sách Đại Việt sử kí toàn thư (Bản
kỉ tục biên, quyển 17, tờ 35 - b) ghi chép như sau:
"Bấy giờ, Mạc Mậu Hợp
buộc phải bỏ thuyền mà đi bộ, đến một ngôi chùa ở huyện Phượng Nhãn, ẩn náu ở
đó mười một ngày. Khi quan quân (chỉ Nam triều - ND) đến huyện Phượng
Nhãn, có người trong thôn dẫn đường đưa quan quân vào chùa. Mạc Mậu Hợp bị bắt
giải về dinh trại. Vũ Quận Công sai người lấy voi chở Mạc Mậu Hợp cùng với hai
kĩ nữ về kinh đô để dâng. Mạc Mậu Hợp bị chém ở bến Bồ Đề (Gia Lâm, Hà Nội - ND),
bêu đầu ba ngày, xong, đem đầu về hành tại ở Vạn Lại (Thanh Hoa), đóng đinh vào
hai mắt và bỏ ở chợ.”
Các bộ sử cũ cũng cho biết,
sau Mạc Mậu Hợp, đến lượt con của Mạc Mậu Hợp là Mạc Toàn cũng bị bắt và bị
giết. Cuộc hỗn chiến Nam - Bắc triều đến đây, kể như kết thúc.
Lời bàn: Thế
là Nam triều thắng, Bắc triều thua, nạn binh đao ở phía Bắc tạm lắng
xuống. Đành là hậu quả để lại còn nặng nề và lâu dài lắm, nhưng dẫu sao thì cái
chết không còn thường xuyên rình rập thiên hạ như những năm trước đó.
Đến bước đường cùng, Mạc Mậu
Hợp buộc phải ẩn náu trong chùa, cố ý mượn áo cà sa và cầu kinh niệm Phật để
che mắt bưng tai thiên hạ. Cửa chùa luôn rộng mở, nhưng chỉ rộng mở với những
ai biết giữ gìn sự tinh khiết cho nơi thờ Phật mà thôi. Mạc Mậu Hợp vào chùa mà
còn mang theo hai kĩ nữ, đáng sợ lắm thay. Hóa ra, con người này, đến chết cái
nết vẫn không chừa, dám làm ô uế nhà chùa thì bảo Phật cứu độ làm sao được?
Chẳng phải Trời Phật đứng về phía Nam triều, nhưng, bớt được phe nào
trong hai phe tham chiến cũng đều có ích cho sinh linh trăm họ đó thôi.
Dẫu lí giải theo cách nào đi
chăng nữa, vẫn không ai chối cãi được rằng, Trịnh Tùng đã trả thù Mạc Mậu Hợp
một cách hèn mạt. Hóa ra, thắng trên chiến trường đã khó mà thắng trong nhân
luân lại càng khó hơn. Song le, bắt Trịnh Tùng giữ đức thì Trịnh Tùng đâu còn là
Trịnh Tùng nữa.
Đem đầu Mạc Mậu Hợp về Vạn
Lại, chủ ý dâng Vua của Trịnh Tùng thì ít mà chủ ý dọa Vua của Trịnh Tùng thì
nhiều. Mạnh như nhà Mạc mà còn bị diệt, huống chi là những thế lực nhỏ khác.
Hãy biết thân biết phận, hỡi vua Lê Thế Tông - con bài chính trị ẻo lả và tội
nghiệp trong bàn tay thép của Trịnh Tùng!
Ý Trịnh Tùng hẳn là chỉ đơn
giản như thế mà thôi.
13 - CHUYỆN VŨ ĐỨC CUNG
Vũ Đức Cung sinh và mất năm
nào không rõ, chỉ biết dưới thời vua Lê Thế Tông (1573 - 1599), ông từng được
phong tới tước Quận công và vào năm Giáp Ngọ (1594), ông là người bỗng dưng
được các sử gia đương thời đồng loạt nhắc tới. Sách Khâm định Việt sử
thông giám cương mục (Chính biên, quyển 30, tờ 9 và 10) viết như sau:
"Thuở trước, Gia Quốc
công là Vũ Văn Mật (bề tôi cũ của nhà Mạc - ND), vì đã sớm biết quy thuận triều
đình, lại còn có công đánh bại quân nhà Mạc, nên triều đình đặc ân, cho giữ đất
Đại Đồng (nay thuộc tỉnh Tuyên Quang - ND), và cho được đời đời cha truyền con
nối (chức vụ ấy). Vũ Đức Cung là đời cháu, khi lên nối giữ chức quyền,đã vào
chầu, dâng mười mâm vàng bạc và châu báu, thêm ba chục con ngựa hay, được triều
đình (vua Lê - chúa Trịnh - ND) gia phong làm Hữu Đô đốc của phủ Đô đốc, hàm
Thái bảo, tước Hòa Quận công, lại cho đặt quân hiệu riêng, lấy tên là An Bắc
Doanh. Nhận gia phong chức tước xong, Vũ Đức Cung xin triều đình cho về bản
trấn đề phòng giặc cướp.
Sau, Đức Cung ngầm thông mưu
với tướng nhà Mạc là Mỹ Thọ Hầu (chưa rõ tên), quấy phá và cướp bóc các huyện
vùng địa đầu Sơn Tây như Thanh Ba và Hạ Hòa (nay đều thuộc Phú Thọ - ND), xong,
còn thúc ép dân các huyện Đông Lan và Tây Lan (nay cũng thuộc về tỉnh Phú Thọ)
phải đi theo chúng.
Trịnh Tùng sai bọn Nguyễn
Hữu Liêu đem quân đi đánh dẹp, bắt sống được Mỹ Thọ Hầu, đánh tan quân giặc ở
Đại Đồng, khiến Đức Cung phải hoảng hốt đem con em mình chạy đến đất Nghĩa Đô.
Đức Cung lại sai người dâng lên triều đình vàng bạc và ngựa quý, xong thì vào
kinh đô tạ tội. Triều đình ưng cho."
Lời bàn: Thời hỗn chiến Nam - Bắc
triều, bên nào cũng có các văn thần và võ tướng bị coi là … phản. Gia Quốc công
Vũ Văn Mật là một trong số những người bị coi là làm phản như vậy. Đành rằng,
sống mà cứ… "gió chiều nào che chiều ấy" là lối sống tầm thường,
song, một lần cho cả một đời như Vũ Văn Mật, thì dẫu sao vẫn còn có thể tạm bỏ
qua.
Vũ Đức Cung quả là người
lòng dạ khó lường. Lần thứ nhất, đã thân vào kinh đô để chầu, lại còn đem dâng
mười mâm vàng bạc và châu báu cùng ba chục con ngựa quý, tưởng như Vũ Đức Cung
tỏ rõ chút lòng trung thực nhưng sự thực thì chừng như Vũ Đức Cung chỉ muốn tỏ
cái ngông nghênh của sứ quân một vùng. Sẵn có quyền hành lại sẵn của thiên hạ,
cứ làm tất cả những gì cho thỏa chí bình sinh, thế mới đáng mặt Vũ đại nhân chứ?
Nhận sự gia phong xong, Vũ
Đức Cung liền ngầm thông mưu với tướng của nhà Mạc, nghĩa là làm bạn với kẻ mà
đời ông là Vũ Văn Mật từng coi khinh. Ôi, đã phản phúc triều đình lại còn phản
cả gia tiên, dẫu giải thích thế nào đi chăng nữa, thì cũng là… vô phúc thay, họ
Vũ!
Lần thứ hai, khi thế cùng
lực kiệt, Vũ Đức Cung lại cậy nhờ đến vàng bạc, châu báu và ngựa quý, nghĩa là
phản bội Mỹ Thọ Hầu để cầu lấy sự sống cho riêng thân. Đáng sợ thay, Vũ Đức
Cung, người phản bội tất cả những ai có quan hệ với mình.
Dân gian có câu:
Dò sông, dò
biển thì dò
Đố ai lấy
thước mà đo lòng người
Chỗ này, hoặc giả là dân
gian nhầm, hoặc giả là Vũ Đức Cung thuộc hàng cá biệt đó thôi. Lòng dạ Vũ Đức
Cung chật ních những ý đồ phản trắc, cho nên, không phải là mông lung đến nỗi
khó đo đạc, mà là làm sao dùng cái thước rõ ràng và… cũng quá to lớn kia để mà
đo được chứ.
Nhưng, sở dĩ Vũ Đức Cung là…
Vũ Đức Cung, bởi lẽ, ở thời mà mọi giá trị đều bị đảo lộn, thì trung nghĩa chỉ
là món đồ chơi công cộng, ai muốn chơi kiểu nào tùy thích đó thôi. Vả chăng, cả
hai lần Vũ Đức Cung về triều, vua chúa và trăm quan chỉ chăm chăm để tâm vào
vàng bạc, châu báu cùng ngựa quý của Vũ Đức Cung chớ có ai chú ý gì tới thế sự
đâu.
Có nơi dơ bẩn nào mà chẳng
có ruồi nhặng?
14 - DI CHÚC CỦA MẠC NGỌC LIỄN
Sau khi Mạc Mậu Hợp bị bắt
và bị giết, tôn thất nhà Mạc, có người thì theo về với Nam triều, có người thì
chạy trốn sang tận đất Long Châu (Trung Quốc) và thỉnh thoảng lại đem quân về
cướp bóc, có người mai danh ẩn tích để chờ thời.
Tháng 3 năm 1593, Mạc Ngọc
Liễn bí mật lên vùng rừng núi Đông Bắc, dò tìm được Đôn Hậu Vương là Mạc Kính Cung
(con của Mạc Kính Điển). Mạc Ngọc Liễn liền tôn Mạc Kính Cung lên ngôi vua, đặt
niên hiệu là Càn Thống. Dư đảng họ Mạc nghe tin này liền kéo nhau theo về. Vùng
Đông Bắc lại thêm một phen binh lửa. Tháng 2 năm 1594, Mạc Ngọc Liễn bị đánh
thua, phải chạy sang Tư Minh (Trung Quốc), xin làm bề tôi của nhà Minh, còn Mạc
Kính Cung thì chạy đến Long Châu (Trung Quốc). Nhờ được sự trợ giúp của các
quan biên ải nhà Minh, Mạc Ngọc Liễn và Mạc Kính Cung thỉnh thoảng lại đem quân
về cướp phá, quấy nhiễu.
Ngày 2 tháng 7 năm 1594, Mạc
Ngọc Liễn bị bệnh mà mất, các con của Mạc Ngọc Liễn chạy sang với Mạc Kính
Cung. Trước khi mất, Mạc Ngọc Liễn có để lại lời di chúc cho con cái và cho Mạc
Kính Cung. Sách Đại Việt sử kí toàn thư (Bản kỉ tục biên,
quyển 17, tờ 48 - b) chép về lời di chúc của Mạc Ngọc Liễn như sau:
"Khi Ngọc Liễn sắp lâm
chung, có di chúc để lại, khuyên Mạc Kính Cung rằng: Nay, khí vận nhà Mạc đã
cạn, họ Lê hưng phục, đó là bởi số trời đã định. Dân chúng vô tội mà mắc phải
nạn binh đao, thật không nỡ! Bọn ta nên lánh ra nước ngoài, chứa uy và nuôi
sức, chịu khuất để chờ thời, đợi khi nào mệnh trời tái hiện mới có thể hành
động nổi. Lấy sức chọi sức là điều hoàn toàn không nên. Hai con hổ tranh nhau
tất phải có một con bị thương, chẳng nên việc gì cả. Nay, nếu thấy quân họ tới
thì nên tránh, chớ nên đánh nhau, cẩn thận giữ mình là hơn cả. Cuối cùng, chớ
nên mời người Minh vào trong nước ta, khiến cho dân phải lầm than đau khổ. Đó
là tội lớn, không có gì so được.”
Lời bàn: Lời trước lúc lâm
chung, thường ở hai thái cực đối nghịch, hoặc rời rạc và ngớ ngẩn đến vô nghĩa,
hoặc sâu sắc và thông thái đến độ bất ngờ. Di chúc của Mạc Ngọc Liễn đáng xếp
vào loại thứ hai.
Mạc Ngọc Liễn quy hết nguyên
nhân thất bại cho mệnh trời. Xin chớ trách ông vì thời ông là thời người ta
thường nghĩ như vậy, ông có phải là ngoại lệ đâu, cổ nhân mà!
Phải đến lúc sắp tắt thở,
Mạc Ngọc Liễn mới biết xót thương cho thân phận của dân đen, chút nhân từ đến
với ông quá muộn màng, nhưng dẫu sao thì cũng đã đến, đó thực sự là phần an ủi
cho chính ông, vì dưới đấng cao xanh, ông cũng là một con người!
Lời khuyên tạm lánh để chờ
mệnh trời, tỏ rõ rằng đến chết, ông vẫn không quên mối thâm thù với Nam triều,
nhưng, cho dẫu việc trả thù có khó khăn gian khổ đến bao nhiêu cũng không được
dại dột đi cầu viện. Ắt hẳn là bình sinh, ông phải nếm bao cay đắng tủi nhục
khi đi cầu cạnh người nên mới thấm thía mà thành thật nói lời trăn trối như
vậy. Vâng, quả đúng là kẻ nào vì quyền lợi ích kỉ của cá nhân và dòng họ mà cam
tâm rước giặc ngoại xâm về dày xéo đất nước, thì kẻ đó đã phạm tội lớn đến độ
"không gì so được,” trời sẽ không dung và đất cũng chẳng tha.
Lời vàng ngọc rành rành
trong sử sách, nhưng, những kẻ say sưa với cuộc tranh hùng, chỉ nhìn chăm chăm
vào cổ đối phương để vung gươm lên chém, có ai ngó ngàng gì tới sử sách đâu.
15 – CHUYỆN PHAN NGẠN
Phan Ngạn là tướng
của Nam triều, được Nam triều phong tước Kế Quận công. Năm
1592, Nam triều kể như dã đè bẹp được Bắc triều, tuy nhiên, dư đảng của họ Mạc
vẫn còn hoạt động khắp miền Đông Bắc. Trước tình hình đó, Nam triều cử Kế Quận
công là Phan Ngạn, đem 300 chiến thuyền, một con voi và đông đảo lính thủy,
lính bộ đi đàn áp. Cuối năm Ất Mùi (1595), Phan Ngạn đã có mặt ở Hải Dương.
Ngày mồng ba tết Bính Thân (1596), Phan Ngạn đã đụng độ một trận quyết liệt với
đối phương. Sách Đại Việt sử kí toàn thư (Bản kỉ tục biên,
quyển 17, từ tờ 53 - b đến tờ 55 - a) chép như sau:
"Khi ấy, Phan Ngạn đóng
quân chưa yên chỗ, quân sĩ chưa kịp mặc áo giáp mà thuyền giặc đã tới ngoài cửa
dinh, ai cũng luống cuống, chỉ có 45 người cùng đi với Phan Ngạn ra chống cự mà
thôi. Có viên tướng (Nam triều), người Giao Thủy là Lễ Quận công, thấy thế giặc
mạnh, tự liệu rằng quân ít, sức không chống nổi, đem quân của mình rút lui
trước, Phan Ngạn cho là nhát gan, liền chém chết và rao cho mọi người biết. Nhờ
vậy, ai cũng liều chết mà đánh. Đúng khi đó, có một đội thuyền nhẹ từ Tây Chân
(thuộc Nam Hà cũ - ND) tiến ra. Tướng giặc ngờ là có quân cứu viện, liền tự tan
vỡ, bỏ thuyền nhảy xuống sông chạy trốn. Phan Ngạn cho gọi các thuyền lớn nhỏ
của mình, nhất loạt xông ra kịch chiến ở giữa sông, chém được tướng giặc là Ly
Quốc công, Thái Quốc công, An Quốc công, Thụy Quận công... (tất cả đều không rõ
họ tên) và hơn hai mươi viên tì tướng khác. Quân Phan Ngạn chém được 2298 thủ
cấp, thu thuyền bè khí giới nhiều không kể xiết, sau lại còn bắt sống được
tướng giặc là Hào Quận công (không rõ tên). Giặc tan tác chạy về bản quán của
chúng.
Ngay hôm ấy, tướng giặc là
Hào Quận công bị giải đến trước cửa quân. Phan Ngạn tự mình cởi trói (cho Hào
Quận công) và dụ dỗ:
- Muốn sống thì hãy làm người hướng đạo cho
ta, bắt được Tráng Vương (chỉ Mạc Kính Chương, kẻ cầm đầu thế lực họ Mạc lúc ấy
- ND) ta sẽ tha tội chết cho.
Hào Quận công xin làm người
dẫn đường, đem quân (Phan Ngạn) theo đường thủy mà men ra Quảng Yên, cố bắt
Tráng Vương để báo đáp. Phan Ngạn chọn thuyền nhẹ và mấy trăm quân tinh nhuệ,
cùng với năm chiến thuyền, mặc áo giáp che kín mình, giấu Hào Quốc công trong
thuyền rồi ra đi.
Ngày mồng bốn (tết Bính Thân
- ND) Phan Ngạn bàn với các tướng rằng:
- Việc quân quý ở thần tốc. Ta lấy quân thắng
trận, thừa thế chẻ tre mà tiến, đánh một trận mà thắng đến hai lần thì đó chính
là trời đã giúp ta thành công to, đáng mặt để sánh với các danh tướng thuở xưa
lắm. Tôi mong các tướng nghe lệnh, đồng tâm hiệp lực để lập công danh, tiễu trừ
được giặc nguy thì công của bọn ta không gì to bằng.
Các tướng đều nói:
- Xin tuân lệnh.
Hôm ấy, Phan Ngạn chọn các
tráng sĩ, Vờ mang sắc áo và màu cờ của quân (Tráng Vương) Mạc Kính Chương. Phan
Ngạn tự làm tiền đội, quân thủy lục tục theo sau. Đến đêm, Phan Ngạn tự đi
thuyền nhẹ, xông vào, qua được hai lần cửa. Người giữ cửa hỏi, Phan Ngạn nói:
- Binh thuyền của Hào Quận công đây. Nhân
thắng trận, bắt được tướng giặc là Kế Quận công (tức Phan Ngạn - ND) nên giải
về để dâng nạp.
Nhờ lời này mà quân phàn
Ngạn qua được hết mấy lớp cửa rồi thẳng tiến, sau ba ngày đêm thì đến xã Hương
Lan, châu Vạn Ninh. Mạc Kính Chương ngỡ là Hào Quận công thắng trận trở về liền
thân ra đón. Phan Ngạn thét:
- Ta là Kế Quận công đây. Bọn ngươi nên mau
mau chịu trói để khỏi bị chém đầu.
Kính Chương nghe nói, trở
tay không kịp, bỏ thuyền chạy lên bờ, vừa đến giữa bãi cát thì bị quan quân bắt
được. Cùng bị bắt với Mạc Kính Chương còn có vợ cả, vợ lẽ của y, cộng 20 người.
Phan Ngạn sai chém 40 tên dư đảng. Lúc ấy, quân lính (của Phan Ngạn) phần nhiều
tranh nhau lấy của cải, bỏ mặc cho dư đảng (của Mạc Kính Chương) chạy tản mác
vào rừng núi. Quân Phan Ngạn toàn thắng, một lúc hai trận, ai cũng vui mừng,
khải hoàn về kinh đô, giải nạp Mạc Kính Chương ở dưới cửa khuyết. Hôm ấy Tiết
chế Trịnh Tùng thưởng chiến công, ban cho Phan Ngạn một tấm thẻ bài bằng vàng,
cân nặng 10 vàng ròng, thưởng cho các tướng sĩ đã chấp hành mệnh lệnh 300 cân
bạc và đặt yến lớn để khao quân.”
Lời bàn: Tướng cấm quân ra trận,
trước phải lo giữ quân pháp cho nghiêm. Phan Ngạn chém Lễ Quận công cũng chính
là để giữ nghiêm quân pháp vậy.
Giữa chốn trận mạc, trí trá
là sự thường. Đóng giả quân của Hào Quận công, Phan Ngạn cũng xử sự theo thói
thường nơi trận mạc đó thôi.
Cứ xem hai việc trên, đủ
biết Phan Ngạn cũng thuộc hàng dụng binh rất kiên quyết và mưu mô chẳng kém gì
ai, nghĩa là cũng đáng xếp vào hàng tướng tài. Tiếc thay, ông là tướng tài thời
loạn!

