Việt sử giai thoại (Tập 6) - Chương 20 - 25
20 - LÊ DUY TÂN BẤT NGỜ ĐƯỢC... LÀM
VUA!
Sách Khâm định Việt
sử thông giám cương mục (Chính biên,quyển 30, tờ 29) viết rằng:
"Nhà vua (chỉ vua Lê
Thế Tông, làm vua từ năm 1573 đến năm 1599 - ND) bị bệnh, đến ngày 24 tháng này
(tháng 8 năm 1599 - ND) thì mất. Vua ở ngôi 26 năm, hưởng thọ 32 tuổi. (Trịnh)
Tùng cùng bọn bầy tôi trong triều bàn định rồi lấy cớ rằng: con trưởng của Nhà
vua là Thái tử (Lê) Duy Trì không được minh mẫn, bèn rước con thứ của Nhà vua
là (Lê) Duy Tân, lập lên làm vua (tức vua Lê Kính Tông). Hạ chiếu lấy năm sau
(Canh Tí, 1600 - ND) làm năm Thận Đức thứ nhất, tha hết các thứ thuế của dân
trong nước còn thiếu và mở rộng lòng thương xót đến những người phải phiêu bạt
đó đây mới trở về bản quán, đồng thời, gia tước và cấp đất cho bọn bề tôi có
công, gia phong điển lễ thờ tự cho bách thần theo thứ bậc cao thấp khác nhau.
Triều đình lại còn định ra thể lệ để tang (Vua): Các hàng thân vương, các quan
văn võ lớn nhỏ ở trong triều cũng như ở các địa phương, để tang từ ba năm trở
xuống, nhưng theo thứ tự mà giảm dần; nhân dân cả nước để tang hai mươi bảy
ngày; riêng (Trịnh) Tùng là bậc huân vương nên phải khác với trăm quan, chỉ để
tang một trăm ngày mà thôi."
Lời bàn: Đời cha là Lê Duy Đàm
cũng không ngờ mà được làm vua. Bấy giờ (năm 1572), Lê Anh Tông vì hốt hoảng mà
bỏ chạy vào Nghệ An, khi đi, đem theo bốn trong số năm vị Hoàng tử của mình. Vị
Hoàng tử thứ năm là Lê Duy Đàm, lúc này mới 6 tuổi, đang ở xã Quảng Thi, huyện
Thụy Nguyên (nay là huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa), được Trịnh Tùng... đẩy lên
ngôi vua. Lê Anh Tông sau đó bị Trịnh Tùng giết, còn Lê Duy Đàm hiển nhiên giữ
ngôi chí tôn suốt hai mươi sáu năm trời. Đó là vua Lê Thế Tông (1573 - 1599).
Tương tự như vua cha, Lê Duy
Tân cũng là phận con thứ mà gặp may. Bấy giờ, bởi anh ruột là Thái tử Lê Duy
Trì, tuy đã lớn tuổi, nhưng bị chúa Trịnh Tùng coi là… không minh mẫn mà bị
phế, cho nên, Lê Duy Tân mới... bất ngờ được đưa lên làm vua, dầu lúc ấy mới
mười một tuổi. Đó là vua Lê Kính Tông (1599 - 1619).
Lê Duy Tân là bậc thần đồng
mẫn tuệ hơn người chăng? Tiếc thay, sự thể lại không phải như vậy. Các tác giả
sách Đại Việt sử kí toàn thư (Bản kỉ tục biên, quyển 18, tờ 1 - a)
đã nhận xét về vua Lê Kính Tông như sau: Nhà vua "riêng nghe mưu gian, đến
nỗi có việc chẳng lành, thực đáng thương lắm.” Năm 1619, Lê Kính Tông bị chúa
Trịnh Tùng giết hại. Cho nên, nói là vua không hề thông minh cũng được, mà nói
là vua hèn cũng được.
Đưa Lê Duy Đàm lên ngôi vua
là Trịnh Tùng, mà đẩy Lê Duy Đàm phải xuống suối vàng lúc mới ba mươi hai
tuổi... cũng là chúa Trịnh Tùng. Mới hay, quyền sinh sát của Nhà chúa mới khủng
khiếp làm sao! Trịnh Tùng muốn vua Lê chỉ là hư vị, cho nên, tuổi Nhà vua càng
nhỏ càng tốt, đầu óc Nhà vua càng u tối hoặc càng nhu nhược càng tốt. Lỗi của
Nhà vua ở đây, hình như chỉ là ở chỗ, càng về sau càng lớn tuổi đó thôi!
Lê Duy Tân bất ngờ được lên
ngôi rồi cũng bất ngờ bị giết hại, nghĩa là cực may với cực rủi xa cách nhau
nào có là bao. Con diều giấy bay ở trên cao, có biết đâu, người ta tung mình
lên thì người ta cũng có thể kéo mình xuống. Không thể tự bay như chim thì điểm
trang màu mè diêm dúa cho đôi cánh giấy, nhiều lắm cũng chỉ mua vui chốc lát
cho thiên hạ mà thôi.
21 - LÊ NGHĨA TRẠCH QUA MẶT NGUYỄN
HOÀNG
Năm 1558, Nguyễn Hoàng vào
trấn thủ xứ Thuận Hóa (vùng Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên ngày nay). Từ
đó, quá trình xây dựng cơ sở cát cứ của họ Nguyễn bắt đầu. Tuy nhiên, từ năm
1558 đến năm 1600, bề ngoài, Nguyễn Hoàng vẫn tỏ rõ sự thần phục đối với vua Lê
- chúa Trịnh, thực hiện đầy đủ phận sự của một kẻ bề tôi. Đến đầu năm Canh Tí
(1600), mượn cớ đi dẹp loạn Bùi Văn Khuê, Phan Ngạn và Ngô Đình Nga ở vùng đồng
bằng Bắc Bộ ngày nay, Nguyễn Hoàng đã đem hết tay chân thân tín và quân bản bộ
của mình chạy về Thuận Hóa, có ý thoát hẳn ra khỏi vòng cương tỏa của vua Lê - chúa
Trịnh. Bấy giờ, vì dư đảng của họ Mạc và các thế lực chống đối khác còn khá
mạnh, trong khi đó, Thuận Hóa xa xôi, Nguyễn Hoàng lại là bậc lão tướng có tài,
cho nên, chúa Trịnh là Trịnh Tùng chưa thể lập tức đem quân đánh vào Thuận Hóa
là đất dựng nghiệp của Nguyễn Hoàng. Đó là chưa kể, xét về thế thứ họ hàng,
Nguyễn Hoàng còn là cậu ruột của Trịnh Tùng, chưa gì đã vội đem quân đánh nhau
là điều không nên. Không đánh nhưng lại muốn khẳng định quyền uy của mình nên
Trịnh Tùng đã sai quan Thiêm đô ngự sử, tước Gia Lộc Tử là Lê Nghĩa Trạch mang
thư vào cho Nguyễn Hoàng. Sự kiện này xẩy ra vào cuối năm 1600. Sách Đại
Việt sử kí toàn thư (Bản kỉ tục biên, quyển 18, tờ 2 - a và tờ 3 a - b)
chép như sau:
"Thư ấy viết rằng: Phàm
là bậc đại thần thì phải biết cùng vui cùng buồn với việc nước. Đối với nước,
cậu là bậc đời đời có công đầu. Đối với nhà, cậu là bậc tình nghĩa chi thân.
Mới rồi, vì họ Mạc tiếm nghịch mà vận nước gian truân. Tiên tổ là Thái Tể Hưng
Quốc Chiêu Huân Tĩnh Công (Hưng Quốc công Nguyễn Kim là ông ngoại của Bình An
Vương, cho nên Bình An Vương cũng gọi Nguyễn Kim là tiên tổ) đã có công khởi
xướng đại nghĩa, giúp Trang Tông Hoàng đế trong lúc gian nan, sửa lại danh phận
cho rõ ràng. Tiên tổ mất đi, tiên khảo là Minh Khang Thái vương (chỉ Trịnh Kiểm
- ND) nắm giữ việc lớn của nước nhà, bởi thấy cậu là người ruột thịt nên mới
trao cho cai quản hai xứ Thuận, Quảng. Từ ngày nhận chức đến nay, cậu đã vỗ yên
dân địa phương, thực là có công lớn.
Tiên khảo chầu trời, cháu
được nắm giữ binh quyền, vẫn để cậu giữ chức vụ như cũ. (Nhưng, dù cháu đã)
nhiều lần gởi thư yêu cầu cậu lo thu tiền thuế và chuyển vận lương thực để góp
phần chi dùng cho nước nhà thì cậu lại thường lấy cớ đường biển khó khăn hiểm
trở để từ chối. Đến khi lấy được kinh thành, thiên hạ đã yên thì cậu mới ung
dung theo vế. (Dẫu vậy) triều đình vẫn một lòng ưu đãi, (trao cho cậu) quyền
trông coi phủ Hà Trung và bảy huyện thuộc trấn Sơn Nam, lại phong chức Hữu
tướng, có ý mong rằng, cậu sẽ cùng với Tả tướng tước Vinh Quốc công là Hoàng
Đình Ái giúp rập hai bên tả hữu mà có thể hoàn thành được sự nghiệp trung hưng,
vỗ yên dân chúng cả nước Nam ta.
Mới rồi, bọn nghịch thần là
Phan Ngạn, Bùi Văn Khuê và Ngô Đình Nga manh tâm phản bội, dấy quân làm loạn.
Cháu đang cùng với cậu bàn tính việc binh, truy quét đảng nghịch, nào có ngờ
đâu, cậu không đợi mệnh, tự tiện bỏ về, làm lay động lòng người, chẳng biết đó
là ý cậu hay là cậu đã nghe lầm ý gian của bọn nghịch thần.
Nay, bọn Bùi Văn Khuê và
Phan Ngạn đánh hại lẫn nhau và cả hai đã bị giết, thế mới hay là đạo trời luôn
sáng tỏ, giáng họa không kịp trở gót, chắc cậu đã biết cả rồi. Sự việc đến thế,
nếu cậu biết tỉnh ngộ và hối lỗi, nghĩ đến công lao của tiên tổ mà sai người
đem thư đến hành tại để lạy trình, rồi dốc lòng lo nạp tiền thuế để chi dùng
vào việc chung của nước nhà, thì hẳn nhiên là công sẽ trừ tội, triều đình ghi
nhận lòng thành của cậu, công lao ngày trước của cậu được giữ vẹn toàn, công
danh sự nghiệp bao đời được bền lâu mãi mãi. Nếu không làm như vậy, thì triều
đình sẽ lấy thuận đánh nghịch, việc dùng binh đã có cớ rồi, danh tiết của cậu
sẽ ra sao? Trong việc quân, cậu vẫn thường lưu ý đến kinh sử, xin hãy nghĩ kĩ,
chớ để hối hận về sau.
(Lê) Nghĩa Trạch vào Thuận
Hóa, dò biết (Nguyễn) Hoàng vốn là bậc túc trí đa mưu, liền lấy thư (của Chúa)
bỏ vào ống rồi đem giấu ở bụi rậm ngoài đồng, xong mới sai xá nhân báo tin mình
đến. (Nguyễn) Hoàng nghe tin (Lê) Nghĩa Trạch tới, bèn lập mưu cướp lấy thư và
làm nhục sứ giả. Đêm ấy (Nguyễn Hoàng) sai võ sĩ đến chỗ trọ (của Lê Nghĩa
Trạch), cướp hết hòm xiểng mang về. Mở ra, thấy không có thư, lại sai võ sĩ tới
đốt hết cả nơi trọ. (Nguyễn) Hoàng tin như thế là mọi giấy tờ đều bị lửa thiêu
hết rồi. Hôm sau, (Nguyễn) Hoàng thân hành dẫn tướng tá, chỉnh đốn voi ngựa và
nghi vệ ra đón. Bấy giờ, thấy Lê Nghĩa Trạch hai tay bưng thư đi đến, (Ngyễn
Hoàng) lấy làm kinh ngạc, nói với tướng tá của mình rằng:
- Trời sinh ra bậc chủ tướng, triều đình có
người giỏi.
Từ đấy (Nguyễn Hoàng) không
còn có ý ngấp nghé gì nữa.”
Lời bàn: Nói
chung là không ai muốn, và cũng không ai có thể phủ nhận vai trò của Nguyễn
Hoàng trong việc khai mở dòng chúa Nguyễn và trong quá trình xây dựng xứ Đàng
Trong. Tuy nhiên, đặt trong mối quan hệ xung đột phức tạp của xã hội đương
thời, nếu đứng ở một góc độ nào đấy, cũng có thể nói Nguyễn Hoàng là một nghịch
thần. Bản thân Nguyễn Hoàng cũng tự thấy, ông đã làm điều trái ý vua Lê - chúa
Trịnh. Đối đầu bằng vũ lực thì chưa thể, nhưng quyết tâm bứt ra khỏi vòng cương
tỏa của vua Lê - chúa Trịnh thì đã rõ lắm rồi.
Phận sự của Lê Nghĩa Trạch
là phải chuyển đạt cho bằng được bức thư của chúa Trịnh Tùng tới Nguyễn Hoàng,
bởi đó là bức thư nói rõ lập trường của chúa Trịnh Tùng, để ít ra là cũng làm
cho tay chân của Nguyễn Hoàng biết mà suy nghĩ. Công việc mới khó làm sao. Lê
Nghĩa Trạch khen Nguyễn Hoàng là bậc túc trí đa mưu, nhưng xem ra, Lê Nghĩa
Trạch cũng đáng được coi là người đa mưu túc trí. Ông biết giữ cái gì cần phải
giữ nhất; và ông đã thành công. Ở đời, đôi khi chỉ hơn nhau ở chỗ nên giữ cái
gì nhất thiết phải giữ như thế mà thôi. Kẻ đa mưu gặp kẻ đa mưu, thói thường
thiên cổ vẫn là vậy, song xem suốt hành trạng của hai người, thật khó mà nói
rằng, Nguyễn Hoàng cũng tương đương hoặc giả là thua kém Lê Nghĩa Trạch, dẫu
trong trường hợp cụ thể này, Nguyễn Hoàng đã thua. Chim ưng cũng có khi bay
thấp hơn chim sẻ, nhưng, phàm đã là chim sẻ thì chẳng bao giờ bay cao hơn chim
ưng.
Sử chép: “Từ đấy Nguyễn
Hoàng không còn có ý ngấp nghé gì nữa.” Thế là nhầm. Voi chưa cất tiếng, không
có nghĩa là voi không dám gầm. Nói theo tác giả của Tam quốc diễnn
nghĩa là La Quán Trung, thì chuyện này, xin xem hồi sau sẽ rõ.
22 - CHUYỆN BÀ NGUYỄN THỊ NIÊN
Nguyễn Thị Niên là vợ của
Sơn Quận công Bùi Văn Khuê. Sơn Quận công nguyên là võ tướng của nhà Mạc. Năm
1592, vì có chị ruột đang là Hoàng hậu của Mạc Mậu Hợp, cho nên, bà Nguyễn Thị
Niên vẫn thường hay ra vào trong cung cấm. Thấy bà có nhan sắc mặn mà, Mạc Mậu
Hợp mưu giết Sơn Quận công Bùi Văn Khuê để cướp vợ của ông ta. Cơ mưu bị bại
lộ, Bùi Văn Khuê lập tức đem toàn hộ gia quyến và tướng sĩ dưới quyền, chạy về
vớiNam triều. Sự kiện này khiến cho cả vua Lê lẫn chúa Trịnh đều rất hồ
hởi. Nhưng, ở với Nam triều chưa được mười năm. Bùi Văn Khuê đã
phản Nam triều mà về với Bắc triều, dầu lúc đó Bắc triều hầu như
chẳng còn chút thực lực nào đáng kể nữa. Hẳn nhiên, lấy chồng thì phải theo
chồng, bà Nguyễn Thị Niên cũng bỏ Nam triều mà đi.
Sách Đại Việt sử kí
toàn thư (Bản kỉ tục biên, quyển 18, tờ 1 - b) đã chép chuyện vợ chồng
Bùi Văn Khuê từ khi về với Bắc triều như sau:
"Khi ấy (năm Canh,Tí,
1600 - ND), bọn Phan Ngạn, Ngô Đình Nga và Bùi Văn Khuê đem quân lính theo về
với họ Mạc, ra lời chiêu an các thành thị để mưu việc lớn, nhưng bọn Phan Ngạn
lại ngờ Bùi Văn Khuê có ý khác, bèn sai người bắn chết Văn Khuê ở giữa sông. Từ
đó, (Phan) Ngạn tự xưng là Tiết chế Sinh Quốc công, (Ngô) Đình Nga tự xưng là
Thái bảo Hoa Quận Công, còn em của Phan Ngạn (chưa rõ tên) thì xưng là Tiền Bộ
dinh Quỳnh Quận công. Khi ra bảng yết thị hoặc lệnh cấm, chúng dùng niên hiệu
Càn Thống của họ Mạc. (Niên hiệu này là của Mạc Kính Cung, dùng từ năm 1593 đến
1625 - ND).
Vợ Văn Khuê là Nguyễn Thị
Niên muốn báo thù cho chồng, vừa khóc vừa nói với quân lính của chồng rằng:
- Người nào dốc sức đền ơn, giết được (Phan)
Ngạn thì sẽ được trọng thưởng.
Phan Ngạn nghe tin, giận
lắm. Ngày 1 tháng 6 (năm 1600 - ND) Ngạn dẫn quân đến Hoàng Giang để đánh nhau,
bị quân của vợ Văn Khuê bắn chết ở giữa sông.”
Các tác giả sách Khâm
định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 31, tờ 4 và 5),
sau khi chép chuyện Nguyễn Thị Niên tương tự như trên, còn viết thêm một Lời
chua khá dài như sau:
"Nguyễn Thị, tên tự là
Niên, con gái thứ của tướng nhà Mạc là Nguyễn Quyện. Có một thuyết nói rằng,
Ngạn nghe nói Thị Niên có sắc đẹp, bèn sai người đưa tin, ước hẹn sẽ kết duyên
với nhau. Nguyễn Thị Niên giả vờ nhận lời, rồi chọn hơn mười người trẻ tuổi,
đẹp trai, đóng giả con gái, làm "thị tì" cho mình và hẹn với họ rằng:
hễ ai mà giết được Phan Ngạn thì sẽ trọng thưởng. Cùng lúc đó, Nguyễn Thị Niên
vì muốn cho Phan Ngạn không nghi ngờ gì nên hẹn với y rằng:
- Đêm ngày nọ, tháng nọ... sẽ đi thuyền lớn
đến hội kiến.
Phan Ngạn hí hửng lắm. Đến
hẹn, Nguyễn Thị Niên ăn mặc lộng lẫy, đi thuyền ngược dòng, từ Hoàng Giang ra
Nha Giang. Ngạn sai người do thám, thấy trong thuyền chỉ đầy những gái đẹp nên
không còn nghi ngờ gì cả, vội ra ám hiệu cho thuyền tuấn tiễu bơi nhanh ra giữa
sông, cắm neo gần chỗ đậu thuyền của Nguyễn Thị Niên. Sắp đặt đâu đó rồi, Ngạn
mừng rỡ, lấy thuyền lớn đến gặp gỡ Nguyễn Thị Niên. Khi Ngạn đã sang thuyền
mình rồi, Nguyễn Thị Niên ra dấu cho thuyền mình lui đần, còn "thị
tì" thì đứng làm hai hàng để hầu rượu. Đúng lúc cuộc vui đang hồi nồng nàn
nhất, đám "thị tì" rút dao giấu sẵn trong tay áo ra chặt đầu Phan
Ngạn, rồi nhân lúc đang đêm, nước rút, gió thổi mạnh, bơi thuyền như bay mà về,
khiến cho bọn lính tuần tiễu của Phan Ngạn cũng không hay biết gì cả. Đến nhà, Nguyễn
Thị Niên đem đầu Phan Ngạn ra làm lễ tế chồng ở bàn thờ, xong, dặn hai con đến
hành tại ở An Trường để xin quy thuận vua Lê, còn mình thì lao xuống sông tự tử.”
Lời bàn: Hai thuyết khác nhau
về một con người, nhưng xem ra, tính cách chung của con người ấy ở trong cả hai
thuyết cũng chẳng có gì khác nhau.Tự mình đốc thúc quân lính bắn chết Phan Ngạn
để trả thù cho chồng hay tự mình bày mưu để cho quân lính giết chết Phan Ngạn,
thì cái chí của bà Nguyễn Thị Niên cũng chỉ là một mà thôi.
Xuất giá tòng phu, bà Nguyễn
Thị Niên đã nêu cao được tiết hạnh của người phụ nữ thuở trước. Bà đã cùng
chồng ra sống vào chết, và cuối cùng, sau khi đã trả được thù cho chồng, thì
trầm mình thủ tiết để giữ đức trung trinh. Hóa ra, bà chưa bao giờ được Vua ban
tước hiệu, nhưng so với những người từng mang tước hiệu cao sang, như chồng bà
là Sơn Quận công Bùi Văn Khuê chẳng hạn, thì danh giá của bà còn cao hơn hẳn
nhiều lần. Bùi Văn Khuê từng bỏ nhà Mạc theo về với nhà Lê, sau lại bỏ nhà Lê
theo về với nhà Mạc, lòng trung chỉ đáng giá bạc xu mà thôi. Đành là Bắc triều
hay Nam triều thì cũng đều là những kẻ đắc tội với dân, nhưng, nhân
thời loạn mà làm cho thời thêm loạn, chỉ những ai tâm địa khó lường mới có thể
cam lòng làm như vậy. Sự thất tiết của đấng nam nhi là đấy chăng?
Giết được Phan Ngạn rồi,
Nguyễn Thị Niên về với nhà Mạc cũng chẳng được mà về với nhà Lê cũng không
xong, còn như lánh đời thì biết mai danh ấn tích thế nào cho thoát lưỡi gươm
cay nghiệt của cả hai bên. Không ai cổ vũ cho cái chết, nhưng đôi khi, cái chết
cũng chính là sự giải thoát cần thiết đó thôi.
23 – SỰ TÍCH CHÙA THIÊN MỤ
Một trong những ngôi chùa cổ
kính nhất của đất Thừa Thiên - Huế (và cũng là của cả nước ta) là chùa Thiên
Mụ. Hoàng đế Thiệu Trị (1841 - 1847) xếp chùa Thiên Mụ đứng thứ 14 trong số 20
cảnh đẹp của kinh thành Huế thuở xưa, đồng thời, viết bài thất ngôn bát cú, đề
là Thiên Mụ chung thanh (Tiếng chuông chùa Thiên Mụ) với những
xúc cảm vừa chân thành, vừa mãnh liệt. Và, ca dao ta cũng có câu:
Bao giờ cạn
nước Đồng Nai,
Nát chùa
Thiên Mụ mới sai tấc lòng.
Nhưng, vì sao lại gọi là
chùa Thiên Mụ, và chùa Thiên Mụ được xây tự lúc nào? Sách Đại Nam thực
lục (Tiền biên, quyển 1) cho biết:
"Bấy giờ, Chúa (chỉ
Nguyễn Hoàng - ND) đi dạo xem hình thế núi sông, thấy trên cánh đồng của xã Hà
Khê thuộc huyện Hương Trà (nay là ngoại ô thành phố Huế - ND), giữa khu đất
bằng phẳng nổi lên một gò cao, trông tựa như hình đầu rồng đang ngoái nhìn lại,
phía trước thì có sông lớn (chỉ sông Hương - ND), phía sau thì có hồ rộng, cảnh
trí rất đẹp đẽ. (Chúa) nhân đó mới hỏi chuyện người địa phương, ai cũng nói gò
đất ấy rất thiêng. Tục truyền: Xưa, đang đêm bỗng có người nhìn thấy một bà già
mặc áo đỏ quần xanh, ngồi trên đỉnh gò và nói:
- Sẽ có vị chân chúa đến đây xây chùa để tụ
khí thiêng, giữ bền long mạch.
Nói rồi, bà già ấy biến mất.
Bấy giờ, nhân đấy mới gọi gò đất kia là gò Thiên Mụ. Chúa cũng cho là gò đất ấy
có linh khí, bèn cho cất chùa, gọi là chùa Thiên Mụ.”
Lời bàn: Trong sách nói trên,
sự kiện này được chép vào tháng 6 năm Tân Sửu (1601), nghĩa là chỉ mới được mấy
tháng ngay sau khi Nguyễn Hoàng quyết định ở hẳn tại Thuận Hóa, không về chầu
vua Lê - chúa Trịnh nữa.
Giữa vùng đất mới, mối bận
tâm hàng đầu của Nguyễn Hoàng là lo cố kết nhân tâm, trước đã được các quan một
dạ, giờ phải làm sao để trăm họ đồng lòng. Có dân là có tất cả. Thời bấy giờ,
dựng chùa xây tháp chính là cách quy tự lòng người tế nhị mà hiệu quả hơn cả.
Tiếng chuông chùa, tiếng tụng kinh gõ mõ, đôi khi còn có những tác dụng tốt
đẹp, vượt ra ngoài chủ đích của các nhà tu hành cao minh.
Muôn đời còn đó, chùa Thiên
Mụ. Muôn đời còn đó, những danh xưng giản dị mà rất gần gũi, như Chúa Tiên,
Chúa Phật, Chúa Hiền... v.v. Có thể là không hoàn toàn như vậy, nhưng quả là
lắm khi, để mau chóng đến được với lòng dân, đường thẳng chưa hẳn đã là đường ngắn
nhất.
24 - DI CHÚC CỦA NGUYỄN HOÀNG
Nguyễn Hoàng là con trai thứ
hai của Nguyễn Kim, sinh vào tháng 8 năm Ất Dậu (1525). Năm 1558, Nguyễn Hoàng
được nhận chức Trấn thủ xứ Thuận Hóa và đến năm 1570 thì kiêm luôn cả chức Trấn
thủ xứ Quảng Nam. Năm 1593, Nguyễn Hoàng được phong làm Thái úy, tước Đoan Quốc
công. Từ cuối năm Canh Tí (1600), Nguyễn Hoàng quyết định ở hẳn tại Thuận Hóa,
không về chầu vua Lê - chúa Trịnh nữa. Bình sinh, Nguyễn Hoàng thường xưng là
Chúa Tiên. Ông trấn trị đất Thuận Hóa và Quảng Nam đến tháng 6 năm Quý Sửu
(1613) thì mất, thọ 88 tuổi.
Nguyễn Hoàng có 8 người con
trai nhưng bốn người con đầu là Nguyễn Phúc Hà, Nguyễn Phúc Hán, Nguyễn Phúc
Thành và Nguyễn Phúc Diễn thì đã chẳng may qua đời sớm. Năm 1600, khi Nguyễn
Hoàng vào ở hẳn tại Thuận Hóa, ông có gởi người con trai thứ năm là Nguyễn Phúc
Hải ở lại đất Bắc làm con tin, theo ông lúc đó chỉ còn người con trai thứ sáu
là Nguyễn Phúc Nguyên, con trai thứ bảy là Nguyễn Phúc Hiệp và con trai thứ tám
là Nguyễn Phúc Trạch. Trong ba người con này, Nguyễn Phúc Nguyên được Nguyễn
Hoàng tin cậy, giao phó cho việc trấn giữ đất Quảng Nam.
Theo Đại Nam thực
lục (Tiền biên, quyển 1), khi biết mình không thể sống được nữa,
Nguyễn Hoàng đã cho gọi Nguyễn Phúc Nguyên từ Quảng Nam về, lại sai gọi, những
quan lại thân tín đến và dặn dò như sau:
"Ta với các ông, từng
đồng cam cộng khổ đã lâu, một lòng gầy dựng nghiệp lớn. Nay, ta để gánh nặng
lại cho con ta, các ông nên dốc lòng giúp đỡ, quyết thành cơ nghiệp mới thôi.
Nói rồi, Chúa cầm tay Hoàng
tử thứ sáu (chỉ Nguyễn Phúc Nguyên. Hai chữ Hoàng tử là do
người viết sử đời sau tự ý thêm vào - ND), dặn bảo:
- Đạo làm con thì phải hiếu, làm tôi thì phải
trung, cho nên, anh em trước hết phải thương yêu nhau. Con mà nhớ được lời dặn
này thì ta không còn ân hận gì.
Xong, Chúa lại nói tiếp:
- Đất Thuận Quảng, phía Bắc có Hoành Sơn và
Linh Giang (tức sông Gianh - ND) hiểm trở, phía Nam có Hải Vân và Thạch Bi (tức
núi Bia Đá ở Phú Yên - ND) rất vững bền. Núi sẵn vàng, sẵn sắt, biển lắm cá,
lắm muối, thật đúng là chỗ dụng võ của người anh hùng. Nếu biết luyện binh để
chống chọi với họ Trịnh thì có thể xây dựng cơ nghiệp đến muôn đời. Ví bằng thế
lực không chống nổi, thì cứ cố giữ vững đất đai để chờ cơ hội, đừng bỏ qua lời
dặn của ta.
Hoàng tử thứ sáu và các quan
lại thân tín đều khóc lạy mà vâng mệnh. Hôm ấy Chúa băng, ở ngôi tất cả 56 năm,
thọ 88 tuổi. Đầu tiên đem táng ở núi Thạch Hãn, thuộc huyện Hải Lăng (nay thuộc
tỉnh Quảng Trị - ND), sau cải táng ở núi La Khê, huyện Hương Trà (nay thuộc
tỉnh Thừa Thiên - Huế - ND).”
Lời bàn: Di chúc của Nguyễn
Hoàng, nói gọn lại là thể không đội trời chung với họ Trịnh, mà muốn làm được
điều đó, anh em phải hòa thuận, quan lại phải biết giữ lòng trung nghĩa.
Lời vĩnh quyết của Nguyễn
Hoàng, lời của người thuộc hàng thượng thọ hiếm hoi ở thời loạn, quả là đáng
suy ngẫm lắm thay. Nghiêm dạy con mình là đó mà khéo léo kết hợp giữa động viên
với răn đe những người thân tín cũng là đó.
Buồn vui khó nói, nhưng dẫu
sao thì di chúc của Nguyễn Hoàng cũng được con cháu của ông thực hiện khá trọn
vẹn. Đáng sợ thay, đại lão khơi nguồn xứ Đàng Trong!
25 – LỜI TÂU CỦA QUẦN THẦN THÁNG 9
NĂM MẬU NGỌ (1618)
Bấy giờ là thời trị vì của
vua Lê Kính Tông và chúa Trịnh Tráng. Sử cũ vẫn thường chép lại một số lời tâu
bày của quần thần. Lời thiết thực, ý viển vông, được nghe theo hay bị dửng dưng
gác bỏ... đại để đều gồm đủ cả. Trong nhiều lời tâu bày đó, có lời tâu bày dâng
lên vua Lê Kính Tông vào tháng 9 năm Mậu Ngọ (1618), được sách Khâm
định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 31, tờ 16) ghi
lại như sau:
"Bầu trời ở phương Đông
Nam có sắc trắng, đứng thẳng, dáng tựa như cái búa lớn, thường xuất hiện vào
khoảng canh năm, kéo dài tới hơn một tháng mới dứt. Quần thần nhân đó dâng lời
tâu rằng:
- Việc quan hệ giữa trời và người thật là đáng
sợ lắm. Tháng 9 năm nay, cứ đến khoảng canh năm là lại có sắc trắng xuất hiện ở
phương Đông Nam, hai đầu nhọn hoắt, ai trông thấy cũng phải kinh sợ. Đã thế lại
còn có điềm mưa vàng như đất, mưa gạo đen như than và sấm vang trái mùa nữa. Sở
dĩ có tai biến ấy, có lẽ vì trong triều đình có việc vô đạo đức, bên ngoài
triều đình thì có việc không đúng với chính lệnh, giềng mối suy tàn, phép nước
không chấn chỉnh, quan lại hà khắc và nhũng nhiễu, khiến cho ngôi sao tượng
trưng lòng dân bị dao động, rồi việc làm của người phần lớn là trái với hòa khí
mà ra nông nỗi ấy chăng? Chúng tôi kính xét sách Chu thư thì
thấy có câu: "Vương tỉnh duy tuế, khanh sĩ duy nguyệt, thứ dân duy
tinh" (đây là câu trong thiên Hồng phạm của sách Thượng
thư, dẫn lời của Cơ Tử tâu với vua Chu Vũ Vương, ý nói: Nhà vua có
chức phận phải quán xuyến hết tất cả mọi việc trong nước, cũng như một năm phải
gồm đủ cả bốn mùa; Khanh sĩ thì mỗi người trông coi một việc, cũng mười hai
tháng khác nhau trong một năm mà mỗi người chỉ là một tháng; thứ dân trong
thiên hạ cũng tương tự như các vì sao, có sao thích gió, có sao thích mưa,
không ai giống ai cả - ND). Câu này ý nói: việc làm hay dở của người đều có
điềm lành điềm gở tương ứng hiện ra, người phải biết theo đó mà xử sự cho phải.
Nay tai biến xảy ra luôn luôn, ý trời cao răn bảo đã rõ, do vậy, cần phải siêng
năng kính sợ. Xin bệ hạ hãy nhân tai biến mà lo sửa đức, nghiêm khắc với bản
thân, ăn chay lập đàn thành khẩn cầu trời, mong lòng trời cảm động mà ban điềm
lành, những ngôi sao tai dị sẽ theo độ số mà lui, hòa khí lại hiện ra như cũ.
Nhà vua (xem xong), đem tờ
tâu ấy cất vào cung.”
Chép đến đây, các tác giả
của sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục đã
hạ hút viết lời phê như sau:
"Việc cần kíp nhất lúc
này, không gì hơn việc làm sao cho danh phận vua tôi rõ ràng và đúng mức, thế
mà bầy tôi chi nói lời viển vông cốt chỉ để gọi là có nói, thật đáng khinh khi
và đáng chê cười.”
Lời bàn: Mức độ giá trị lời tâu
của quần thần đương thời, xin hãy tạm gác sang một bên, bởi vì, thời ấy thiên
hạ vẫn cho rằng nghĩ như thế là phải. Vả chăng, họ đã dẫn cả Chu thư, nghĩa
là cũng "nói có sách, mách có chứng" đó thôi.
Quần thần khuyên Nhà vua giữ
đức và lập đàn cầu trời, nhưng họ có biết đâu, trời của Vua không ở trên đầu
Vua mà lại ở... dưới ngai Vua: chúa Trịnh! Các tác giả sách Khâm đinh
Việt sử thông giám cương mục đã nói rất đúng rằng:
"Việc cần kíp nhất lúc này không gì hơn việc làm sao cho danh phận vua tôi
rõ ràng và đúng mức.” Mạng Vua trong tay Chúa, thử hỏi, Vua làm sao có thể thay
mặt trăm họ mà cầu xin với đấng cao xanh?
Chính sự rối bời, đạo lí tả
tơi, ngay ở nơi chí tôn của thiên hạ, trăm quan thích hùa theo kẻ mạnh nhưng
lại hay nói chuyện đức hạnh, ấy là bởi vì ở đời, người thiếu cái gì thì hay nói
mãi về cái ấy mà thôi.
Vua cất tờ tâu ấy vào cung,
vậy là xem ra, Vua cũng khôn khéo hơn người, nếu không, hậu thế làm sao có thể
hiểu được thế thái đen bạc của thời Vua trị vì!

