Việt sử giai thoại (Tập 6) - Chương 41 - 47
41 - THẾ TỬ NGUYỄN PHÚC TẦN VỚI TRẬN
HẢI CHIẾN NĂM 1644
Năm 1556, người Hà Lan đã
làm cách mạng tư sản và cũng kể từ đó, Hà Lan trở thành một quốc gia có vị trí
rất quan trọng ở châu Âu nói riêng, thế giới nói chung. Từ đầu thế kỉ XVII,
thương thuyền Hà Lan đã có mặt ở nước ta, họ buôn bán đủ thứ hàng hóa, nhưng
đặc biệt nhất vẫn là vũ khí. Khi chiến tranh Trịnh - Nguyễn nổ ra, nếu như
người Bồ Đào Nha đã liên minh với chúa Nguyễn ở Đàng Trong thì người Hà Lan đã
liên minh với chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, khiến cho cuộc phân tranh giữa họ Trịnh
và họ Nguyễn vừa thêm phần ác liệt, vừa có những biểu hiện phức tạp, vượt ra
ngoài khuôn khổ của một cuộc nội chiến thông thường. Điều rất bất ngờ là một
hạm đội Hà Lan đã bị đánh tan tành ở hải phận Đàng Trong mà chỉ huy trận đánh
này là một thanh niên 24 tuổi: Thế tử Nguyễn Phúc Tần!
Sách Đại Nam thực
lục (Tiền biên, quyển 3) chép như sau:
"Thế tử Dũng Lễ Hầu
(huý là Phúc Tần, sau được tôn phong là Thái Tông Hiếu Triết Hoàng đê) đánh
giặc Ô Lan ở cửa Eo (tức là cửa Thuận An) (giặc Ô Lan tức giặc Hà Lan - ND).
Bấy giờ, tàu giặc Ô Lan đậu ở ngoài biển, cướp bóc kẻ bán người buôn, quân tuần
tiễu ngoài biển báo tin này về phủ Chúa. Chúa họp bàn kế đánh giặc. Thế tử tức
thì mật báo với Chưởng cơ Tôn Thất Trung (con thứ tư của Hy Tông), hẹn sẽ cùng
đem thủy quân ra đánh. Trung lấy cớ là chưa có mệnh Chúa nên chưa dám quyết, cứ
ngần ngại trù trừ mãi. Thế tử tự đốc suất chiến thuyền của mình tiến ra, khiến
Trung bất đắc dĩ phải đi theo. Khi thuyền Trung đến cửa biển thì thuyền của Thế
tử đã ra tận ngoài khơi rồi. Trung dùng cờ vẫy, báo quay lại, nhưng Thế tử
không nghe. Trung bèn thúc binh thuyền bơi theo, chiến thuyền trước sau lướt
như bay. Giặc trông thấy thì cả sợ, bỏ chạy thẳng về phía Đông, bỏ rơi lại một
chiếc thuyền khá lớn. Thế tử thúc quân vây bắn. Tướng giặc thế cùng phải tự
thiêu. Thế tử thu quân về.
Chúa chợt nghe tin Thế tử đi
có một mình, rất lấy làm lo lắng, bèn tự đem đại binh đi tiếp ứng, nhưng vừa
tới cửa biển, nhìn ra xa đã thấy khói đen bốc mù trời. Chúa hạ lệnh cho quân tiến
tới. Khi nghe tin thắng trận, Chúa mừng lắm, kéo quân về bờ biển để chờ. Thế tử
tới bái yết, Chúa giận, trách rằng:
- Con là Thế tử, sao không biết giữ thân?
Chúa lại trách cứ Trung về
tội sao không vào bẩm mệnh. Trung cúi đầu tạ tội hồi lâu, rồi nhân đó, tìm cách
khen ngợi oai phong của Thế tử, cho là không ai có thể sánh kịp. Chúa cười nói
rằng:
- Trước kia, Tiên quân của ta đã từng đánh
giặc biển, nay con ta cũng như thế, ta không còn lo ngại gì nữa.
Nói rồi, trọng thường cho
(Thế tử) và trở về cung.”
Lời bàn: Trong mọi thứ luật,
quân luật phải là thứ cần được nghiêm giữ hàng đầu, bởi vì nếu quân luật không
nghiêm, mối nguy không phải chỉ là của riêng quân đội mà còn là của chung xã
tắc, sau, dẫu có muốn hối cũng chẳng kịp nữa. Thế tử Dũng Lễ Hầu Nguyễn Phúc
Tần, chưa bẩm mệnh Chúa đã tự ý ra đi, vậy là đã coi thường quân luật, lỗi
không thể bỏ qua. Chúa giận mà trách, ấy cũng là sự hợp lẽ thôi.
Nhưng, biển xa náo động,
giặc ngang nhiên cướp phá dân lành, câm lặng ngồi nhìn thì không phải là mắc
lỗi mà là phạm đại tội, mang danh là tướng, mặt mũi nào còn dám sống giữa trời
cao đất dày? Có biến mới hay, khoảng cách khí phách giữa Thế tử Nguyễn Phúc Tấn
với Chưởng Cơ Tôn Thất Trung là xa lắm. Người Hà Lan sợ trước hết là sợ khí
phách lạ lùng này, họ hốt hoảng bỏ chạy tán loạn khi chưa kịp nhận ra vị tướng
chỉ huy lực lượng tấn công họ là ai.
Dũng thay, Dũng Lễ Hầu!
42 - TỜ SẮC PHONG... ĐẠI BỊP!
Giữa thế kỉ thứ XVII, người
Mãn đã tiến hành cuộc chiến tranh lật đổ nhà Minh, và cuối cùng, họ đã lập ra
triều Mãn Thanh - triều đại phong kiến cuối cùng của Trung Quốc (1649 - 1911).
Năm 1643, khi vua Lê Thần
Tông nhường ngôi cho con là Lê Duy Hựu (tức vua Lê Chân Tông) để làm Thái
thượng hoàng, thì ở Trung Quốc, vua nhà Minh đã bị đánh bật ra khỏi kinh thành,
phải chạy về Phúc Kiến lánh nạn, tình hình Trung Quốc đang trong lúc hết sức
rối ren. Mặc dù biết như vậy, triều Lê vẫn cử Nguyễn Nhân Chính làm Chánh sứ,
Phạm Vĩnh Miên, Trần Khải và Nguyễn Cổn làm Phó sứ, sang Phúc Kiến để cầu phong
cho Lê Chân Tông!
Tháng 5 năm Đinh Hợi (1647),
sứ nhà Minh là quan Hàn lâm Học sĩ Phan Kỳ và quan Khoa đài Lý Dụng Tiếp mang
tờ sắc phong sang. Sách Đại Việt sử kí toàn thư (Bản kỉ tục
biên, quyển 18, tờ 39 - b và 40a - b) viết như sau:
"Sứ nhà Minh làm lễ ban
sắc phong, tuyên đọc lời chế như sau: Trẫm nghĩ, đế vương dựng nghiệp, trước
phải vỗ về cõi xa. Xuân Thu là nghĩa lớn, phải tận lo nhớ lệ
tôn vương. Xưa, đức
Hoàng Tổ ta mở cõi, chân
trời góc biển đều trong bản đồ. Nước An Nam ngươi từng hưởng thanh giáo, lễ
nhạc, mũ áo đã dần quen, chịu ơn đã trăm đời, để phúc đã mấy kiếp. Đô thống ti
Lê Hựu sớm tỏ tài lành, một niềm cung thuận, nêu đức từ cõi hoang, để tiếng tốt
thấu vào cửa khuyết. Đang khi Long Vũ Hoàng đế ta ngự ở đất Mân, một mình nước
ngươi cho quan vượt biển sang triều cống. Tuy thiên triều chẳng quý của cải ở
cõi xa, nhưng kẻ bề tôi mà dâng cống để tỏ rõ lòng thành thờ nước lớn, thực là
rất đáng khen.
Nghĩ cõi xa cũng là con đỏ,
ta ban đất cấp tước, chính là lấy đức để vỗ về. Trẫm là cháu đích tôn của Thần
Tông Hoàng đế, được thần dân trong nước suy tôn, nối giữ nghiệp lớn, cai trị
muôn phương, xa thì ngưỡng mộ truyền thống Đường Nghiêu hòa hợp, gần thì nhớ
oai phong Hán Tuyên Đế trị đời. Nay, loài hôi tanh làm phản, bốn biển đều thù
ghét chúng. Tráng sĩ Sở - Thục nổi như mây, cờ nghĩa Ngô - Việt cùng hưởng ứng.
Trẫm rất mến yêu, khen ngươi
trung thành, vì thế, sai quan Hàn lâm Phan Kỳ, quan Khoa đài Lý Dụng Tiếp, đem
phù tiết sang phong ngươi làm An Nam Quốc Vương. Ôi, phẩm phục nhận lấy, ấy là
vâng mệnh trời, ngọc khuê bích này sẽ truyền tới con cháu. Ngươi được làm vua
nước ngươi, chăn dân nước ngươi, khiến cho kẻ nông tang cũng được hàm ơn đế
đức. Cõi xa về chầu, trấn phiên tới cống, ngọc cung cầu chớ biếng chức xưa...
“
Sau khi đã phong Lê Duy Hựu
làm An Nam Quốc Vương, tháng 10 năm Tân Mão (1651), nhà Minh lại sai sứ sang
phong Trịnh Tráng làm An Nam Phó Quốc Vương! Tờ sắc phong này được sách Đại
Việt sử kí toàn thư (Bản kỉ tục biên, quyển 18, tờ 41 - b và tờ 42a - b)
chép như sau:
"Trẫm nghĩ: Tổ tông
dựng nên bờ cõi, thanh giáo ban ra khắp nơi, lấy lễ và tín mà đối đãi với ngoại
phiên để giữ gìn phên giậu cho nhà nước. An Nam Quốc Vương, người họ Lê của
nước ngươi, ở nơi cõi Nam xa xôi, đời đời thần phục, đức nặng lòng trung, luôn
kính vâng mệnh. Xét ra, sở dĩ được như thế là bởi có công của các đời ông cha
Phụ quốc chính là Trịnh Tráng ngươi, chung thủy khuông phò, công giúp rập được
ghi để lưu truyền, tỏ rõ lòng trung với nước. Đến đời Trịnh Tráng nhà ngươi,
công danh rực rỡ, dân chúng xiêu lòng, ngươi phò vua giúp dân, lo tròn phận sự,
trẫm đã biết rõ.
Mới rồi, trẫm đóng tại Việt
Tây (chỉ vùng Quảng Tây, Trung Quốc - ND) mưu việc khôi phục, sớm khuya lo
nghĩ, tính đã 5 năm. Nay, bề tôi cũ là những bậc danh thần ở vùng Xuyên Sở
(vùng phía Nam Trung Quốc - ND) đều lũ lượt tới giúp. Đại quân đi đến đâu, muôn
bếp khói tụ, thế quân lừng lẫy.
Cũng như những người phò tá
trước kia, Trịnh Tráng ngươi đã dâng biểu nạp cống, dẫu chân có mỏi cũng không
dám để thiếu, trẫm rất khen ngợi. Đành vẫn có kẻ gièm pha, trẫm vẫn không chấp
nhất. Vậy, đặc biệt ban ân điển riêng, tấn phong ngươi làm An Nam Phó Quốc
Vương, ban cho sắc và ấn, người hãy kính nhận lấy.
Ôi, triều đình đặt phiên
trấn ở cõi ngoài, cốt vỗ yên kẻ xa, mở rộng phên giậu. Khi yên ổn thì thấm
nhuần giáo hóa, khi đánh dẹp thì giúp thêm minh uy. Đã là cánh, là thành thì
trong ngoài như nhau. Ngươi nhận được mệnh ban tôn quý, phải gắng giữ trung
trinh, giúp đỡ họ Lê, giữ bền chức cống, làm phên giậu cõi Nam cho trẫm đời
đời. Hãy kính theo.”
Lời bàn: Nhà Minh đã bị đẩy xuống
vực thẳm của sự diệt vong, mọi cố gắng níu giữ đều trở nên vô ích. Nhưng... đến
chết mà nết vẫn không chừa, vẫn cố làm thêm một trò đại bịp, chỉ tổ mua cười
cho hậu thế mà thôi. Các sử gia thời Nguyễn, tác giả của bộ Khâm định
Việt sử thông giám cương mục, đã có lời phê rất chí lí như sau: “Một
nước không thể nào có đến hai vua (chỉ việc nhà Minh vừa phong cho Lê Duy Hựu
làm An Nam Quốc Vương lại còn phong cho Trịnh Tráng làm An Nam Phó Quốc Vương -
ND). Bấy giờ, nhà Minh chỉ còn như một nhúm tro tàn, chẳng qua chỉ giở trò ăn
xin để mong làm vui lòng người khác, tiện việc cho mình mà không biết rằng, như
thế là đã hết sức giúp cho chúa Kiệt (tức vua Kiệt, tên vua nổi tiếng tàn bạo
của Trung Quốc cuối đời Hạ - ND) để chúng có thể làm điều dữ. Khinh bỉ thay!
(Chính biên, quyển 32).
Nói cho ngay thì... đại bịp
lại gặp đại bịp. Một bên thì lợi dụng cầu phong mà ban sắc, để kiếm của cống
nạp, một bên thì muốn dùng tờ sắc phong đề lòe thiên hạ rồi nhân đó mà làm điều
càn quấy. Khéo góp thay!
43 - NHỜ TÀI VĂN CHƯƠNG, NGUYỄN HỮU
DẬT ĐƯỢC THOÁT NẠN
Nguyễn Hữu Dật là con của
Nguyễn Luật Văn, người làng Gia Miêu ngoại trang. Nguyễn Triều Văn là bề tôi
thân tín của chúa Nguyễn Hoàng và chúa Nguyễn Phúc Nguyên, bởi lẽ đó, ngay từ
lúc mới 15 tuổi, Nguyễn Hữu Dật đã được bổ làm Văn chức trong phủ chúa Nguyễn
Phúc Nguyên. Năm 16 tuổi (1623), vì nói lời can trái ý chúa, Nguyễn Hữu Dật bị
bãi chức ba năm. Từ tháng 6 năm 1626, Nguyễn Hữu Dật được phục chức và được
Chúa ngày một tin dùng. Ông làm quan trải thờ ba đời chúa là Nguyễn Phúc Nguyên
(1613 - 1635), Nguyễn Phúc La (1635 - 1648) và Nguyễn Phúc Tần (1648 - 1687).
Các con ông là Nguyễn Hữu Hào và Nguyễn Hữu Cảnh cũng là những bậc danh tướng
của thế kỉ XVII - XVIII.
Dưới thời trị vì của chúa
Nguyễn Phúc Tần, Nguyễn Hữu Dật có lúc được cử làm Kí lục châu Bố Chính (vùng
này nay thuộc Quảng Bình) và cũng chính thời gian này, Nguyễn Hữu Dật bị vu oan
và bị tống giam vào ngục. Sách Đại Nam thực lục (Tiền
biên, quyển 4) chép sự việc này như sau:
"Canh Dần, năm thứ hai
(tức năm 1650 - ND), mùa tháng 2, quan giữ chức Kí lục châu Bố Chính là Nguyễn
Hữu Dật từng sai tướng sĩ giả làm áo mũ của quân sĩ Bắc Hà (tức của chúa Trịnh
ở Đàng Ngoài - ND), định mưu làm cho quân sĩ của chúa Trịnh bị rối loạn.
(Nguyễn Hữu Dật) lại giả làm thư xin đầu hàng quân Trịnh, ước hẹn sẽ làm nội
ứng cho quân Trịnh (khi quân Trịnh đánh vào). Bấy giờ, quan Tham tướng là Tôn
Thất Tráng vì có hiềm khích riêng với Nguyễn Hữu Dật, bèn nhân đó gièm pha (với
chúa Nguyễn Phúc Tần) rằng:
- Hữu Dật đang toan tính mưu theo về với Bắc
Hà.
Chúa nghe vậy, liền sai bắt
trói Nguyễn Hữu Dật tống giam vào ngục. (Nguyễn) Hữu Dật bèn dựa theo cốt
chuyện của tập Anh liệt chí đời Minh (Trung Quốc - ND) mà làm
thành tập Hoa vân cáo thị để bày tỏ cái chí của mình. Làm
xong, (ông) nhờ người cai ngục dâng lên (Chúa). Chúa xem (hiểu ý) mà tha cho,
bổ ông làm Văn chức ở Chính Dinh, và vẫn ưu đãi như trước.”
Lời bàn: Phàm là tướng, nhất là
tướng của thời trận mạc triền miên, cốt cách của họ có thể thiếu mặt này mặt
nọ, song, quyết không thể thiếu dũng và mưu. Vô dũng, không thể ra trận, vô mưu
ắt sẽ bi đối phương lừa như lừa đứa trẻ con.
Vâng mệnh Chúa ra trấn giữ
chốn biên thùy là nơi ác liệt nhất, rõ là Nguyễn Hữu Dật cũng thuộc hàng dũng
tướng. Ấy là chưa kể trước đó ông đã bao phen xông pha trận mạc, cái dũng nào
phải chỉ gồm chừng đó đâu.
Trá hàng để đánh lừa đối
phương, khó có thể nói đó là diệu kế, nhưng, đó cũng là mưu. Xem suốt hành
trạng một đời cầm quân của ông, hậu thế cũng có thể xếp ông vào hàng những
tướng mưu lược. Tiếc thay, Nguyễn Hữu Dật lúc này đã phạm một lúc hai sai lầm
khó tha thứ. Một là mưu lớn, có can hệ đến vận mệnh của xứ Đàng Trong mà ông bỏ
qua việc bẩm xin mệnh Chúa. Hai là ông cũng chẳng bàn bạc gì với những người
cộng sự có trách nhiệm. Hóa ra, sự hiềm khích đôi khi vẫn có thể làm cho người
ta mất sáng suốt.
Tôn Thất Tráng chỉ vì hiềm
khích riêng mà vu hãm, đẩy người trung chính vào chốn tù ngục, tội thật khó
dung tha. Khiếp thay cái lưỡi lắt léo của lũ tiểu nhân, nó có thể đẩy vị dũng
tướng đa mưu vào chỗ chết, nghĩa là có thể làm được việc mà binh hùng tướng
mạnh của đối phương không dễ gì làm được. Trách Nguyễn Hữu Dật cớ sao không lo
phòng bị từ trước ư? Thì cũng đúng vậy, nhưng ở đời, thử hỏi là còn có gì rẻ
rúng hơn, khi mà ta phải luôn luôn cảnh giác với đồng liêu và bè bạn của mình?
May sao, Chúa
sớm nhận ra, đâu là lời gièm pha, đâu là lời của bậc trung nghĩa. Sự hơn thua
cao thấp của đấng chăn dân, thường thì cũng ở chỗ tỉnh táo như thế đó thôi.
Khéo khen Nguyễn Hữu Dật có
tài văn chương. Bị tống giam mà vẫn ung dung tự tại, cảm khái mà viết nên lời
thống thiết, khiến cho Chúa phải nhận ra lỗi lầm của mình, cổ kim được vậy,
chẳng phải là nhiều đâu. Cũng khéo khen chúa Nguyễn Phúc Tần thông hiểu văn
học, chẳng vậy, có khi Nguyễn Hữu Dật không được tha mà còn mang tiếng xấu là
kẻ… đem đàn gảy tai trâu.
44 – NỖI ĐAU THỊ THỪA
Người con gái ấy tên là Thừa
nên sử chép là Thị Thừa, còn như họ của cô là gì thì không ai rõ. Thị Thừa quê
ở Nghệ An, có nhan sắc lại có tài hát xướng, và không hiểu vì sao, cô đã lưu
lạc vào Nam, trở thành con hát trong phủ chúa Nguyễn Phúc Tần. Lúc đầu, Thị
Thừa được Chúa yêu mến, nhưng rồi đột ngột, Chúa thay đổi hẳn tâm tính, Thị
Thừa vì thế mà bị chết oan. Sách Đại Nam thực lục (Tiền
biên, quyển 4) chép rằng:
"Nhâm Thìn, năm thứ tư
(tức năm 1652 - ND), Chúa chăm việc chính trị, không chuộng yến tiệc vui chơi
như trước nữa. Bấy giờ, có người con hát ở Nghệ An tên là Thừa, nhan sắc xinh
đẹp, được Chúa lấy vào phủ. Chúa đọc sách Quốc ngữ, tới chuyện
vua Ngô yêu nàng Tây Thi thì chợt tỉnh ngộ (việc mình yêu Thị Thừa là sai), lập
tức, sai Thị Thừa mang áo ngự đến cho Nguyễn Phúc Kiều, nhưng lại giấu để bức
thư ở trong áo, ngầm sai (Nguyễn Phúc) Kiều dìm nước để giết (Thị Thừa) đi.”
Lời bàn: Chúa chăm lo việc
chính trị không chuộng yến tiệc như trước nữa, đó là điều đáng khen. Cổ kim vẫn
cho hay, kẻ đắm mình trong yến tiệc, làm người thường còn khó nổi, huống chi là
làm Chúa thiên hạ. Vả chăng, nếu Chúa cứ đam mê tửu sắc, trăm họ cũng quyết
không để Chúa yên, bởi lẽ, có ai lại trao vận mệnh một cõi sơn hà cho kẻ suốt
đời chỉ biết có ăn chơi.
Nhưng, để tỏ là chăm lo việc
chính trị, không chuộng yến tiệc như trước nữa, Chúa đã đang tâm sai Nguyễn
Phúc Kiều giết chết Thị Thừa, ấy là phạm tội ác không thể tha. Chúa đọc Quốc
ngữ mà chợt tỉnh ngộ, nhưng buồn thay, Thị Thừa nào phải là Tây Thi,
chưa từng thấy nàng để tâm hay can thiệp vào công việc của Chúa cả. Riêng
chuyện này, Chúa sợ Thị Thừa cũng sẽ như Tây Thi, nhưng xem ra, Chúa lại chưa
thể sánh được với vua Ngô thuở nào.
Sách Phủ biên tạp lục của
Lê Quý Đôn nói Thị Thừa bị Nguyễn Phúc Kiều đánh thuốc độc chết chứ không phải
là dìm nước, nhưng, chết cách nào thì Thị Thừa cũng là người bị giết oan.
Chúa đọc sách, hiểu chuyện
ngàn xưa mà chẳng hiểu chuyện mình. Mới hay, đọc sách mà không cất công suy ngẫm
trước sau, thì thà cam phận làm kẻ dốt nát, cả đời không cầm lấy sách còn hơn.
45 - HOẠN QUAN HOÀNG NHÂN DŨNG BỊ
NGHIÊM TRỊ
Năm Nhâm Thìn (1652), triều
đình vua Lê Thần Tông và chúa Trịnh Tráng đã xử một vụ án khá lớn mà bị cáo là
Trịnh Lãm. Thực ra, bị cáo người họ Hoàng, họ và tên thật là Hoàng Nhân Dũng.
Bấy giờ, Hoàng Nhân Dũng là hoạn quan, chuyên lo phục dịch trong phủ chúa
Trịnh, được chúa Trịnh Tráng đặc biệt thương mến, cho đổi thành họ Trịnh và ban
cho chức tước lớn. Đáp lại, Hoàng Nhân Dũng đã... âm mưu nổi loạn. Việc bị phát
giác và Hoàng Nhân Dũng bị xử tử. Sách Đại Việt sử kí toàn thư (Bản
kỉ tục biên, quyển 18, tờ 42 - b) viết:
"Mùa xuân, tháng ba,
Hoàng Nhân Dũng mưu nổi loạn, bị giết.
Nhân Dũng vốn là một tên
hoạn quan được Chúa yêu, làm đến chức Chưởng tư lễ giám, hàm Thiếu bảo, tước
Quận công, được ban họ tên là Trịnh Lãm.
Bởi quyền cao, lộc nhiều,
(Hoàng Nhân Dũng) ngày càng kiêu căng, sống phóng túng. Hắn bí mật thông mưu
với Trần Nhân Liễn, lén lút nuôi kẻ có tài yêu thuật là Tuyên Đức để hòng khởi
loạn. Việc ấy bị phát giác, Hoàng Nhân Dũng bị đưa xuống để triều thần xét tội.
Hắn bị chém đầu đem đi bêu, còn bọn Trần Nhân Liễn và Tuyên Đức đều bị tùng xẻo
và bêu cho thiên hạ thấy.”
Lời bàn: Hẳn nhiên, nhân cách
của vua Lê và chúa Trịnh là chẳng tốt đẹp gì. Cũng hẳn nhiên, nhân cách của
phần lớn quan lại trong triều đình lúc ấy là chẳng tốt đẹp gì. Nhưng ở đời,
không phải lúc nào người chống cái xấu cũng đều là người tốt. Ai bảo kẻ thù của
kẻ thù là bạn, thì cứ để mặc họ say sưa với những ý nghĩ ngây thơ và tội nghiệp
của họ. Cuộc đời không đơn giản như thế đâu.
Hoàng Nhân Dũng chấp nhận
kiếp... hoạn quan để được cúc cung tận tụy phục vụ trong phủ Chúa, đáp lại,
chúa Trịnh Tráng cũng đã tỏ ra rất rộng rãi với Hoàng Nhân Dũng. Võ tướng một
đời vào sống ra chết, văn quan từng đỗ đại khoa và một lòng phò vua giúp nước
đến tận lúc tóc bạc răng long, vẫn chưa chắc đã có quyền cao chức trọng, vậy mà
Hoàng Nhân Dũng...! Hóa ra, được lòng bề trên là được tất cả. Bằng cấp, tài
năng và công lớn, chưa dễ sánh với một câu nói làm mát dạ đấng chúa tể thiên
hạ. Chua xót thay!
Song le, Chúa thương vì sự
đẹp lòng, thì Chúa ghét cũng bởi sự không đẹp lòng đó thôi. Một chút để mắt của
Chúa, đủ để Hoàng Nhân Dũng hưởng vinh hoa phú quý một đời, và một thoáng trừng
mắt của Chúa cũng đủ để Hoàng Nhân Dũng tan thây trong chốc lát. Biết nói sao
cho phải bây giờ, hỡi hồn thiêng hoạn quan Hoàng Nhân Dũng. Ở đời, có ai thương
kẻ phản trắc đâu!
46 - NỖI LÒNG TỐNG THỊ
Tống Thị (người đàn bà họ
Tống), chưa rõ tên là gì, chỉ biết bà là con gái của Cai cơ Tống Phước Thông,
vì thế, sử chép về bà chỉ gồm hai chữ gọn gàng là Tống Thị.
Tống Thị từng là vợ của
Nguyễn Phúc Kỳ, đã sinh hạ cho Nguyễn Phúc Kỳ những ba người con trai. Nguyễn
Phúc Kỳ là con trưởng của chúa Nguyễn Phúc Nguyên, bởi thế, chẳng những Tống
Thị mà cả gia đình Tống Phước Thông cũng mừng, họ khấp khởi chờ ngày Tống Thị
trở thành bà chúa. Chẳng dè, Nguyễn Phúc Kỳ mất, ngôi chúa hiển nhiên là phải
về tay Nguyễn Phúc Lan, Tống Thị và cả nhà thành ra thất vọng. Tống Phước Thông
trong cơn buồn bã, đã đem cả nhà ra cửa Eo (tức là cửa Thuận An) rồi lên thuyền
chạy ra Bắc, bỏ Tống Thị ở lại, khiến bà đã cô đơn lại càng thêm cô đơn.
Mùa xuân năm Kỉ Mão (1639),
Tống Thị vào yết kiến chúa Nguyễn Phúc Lan (lúc này đã 38 tuổi, ở ngôi chúa
được 4 năm). Sách Đại Nam thực lục (Tiền biên, quyển
3) chép rằng:
“Tống Thị xinh đẹp, khéo ứng
đối, từng nhân việc vào ra mắt mà đem tình trạng đau khổ của mình ra than vãn.
(Tống Thị) lại còn đem một chuỗi bách hoa (chuỗi ngọc nhiều màu, trông như trăm
thứ hoa - ND) dâng lên. Chúa thương tình, cho được ra vào cung phủ. Thị thần
cũng có người can nhưng Chúa không nghe.”
Tham vọng làm bà chúa của
Tống Thị lớn lắm, nếu như không phải là bà chúa với danh nghĩa chính phi, thì
Tống Thị cũng phải làm bà chúa với danh nghĩa là chủ của kho báu mới được. Điều
này khiến cho bá quan trong phủ Chúa rất căm phẫn, có người quyết chí phải giết
cho bằng được Tống Thị mới thôi. Cũng sách trên chép tiếp:
"Trước kia, Tống Thị đã
được vào hầu trong phủ Chúa. Nhờ khéo ăn khéo nói, Tống Thị thu được của cải
nhiều như núi. Quan Chưởng cơ là Tôn Thất Trung tính giết đi, Tống Thị sợ, bèn
nhân có cha là Tăng Phước Thông đang được Trịnh Tráng tin dùng, Tống Thị bí mật
gởi thư, lại đem một chuỗi bách hoa bằng trân châu, sai người tới biếu chúa
Trịnh, xin Trịnh Tráng cất quân. Tống Thị hứa đem gia tài giúp vào việc quân.
Tráng nhận thư, liền bàn việc xâm lấn miền Nam.”
Quân Trịnh
vào Nam (năm 1643) nhưng không thu được thắng lợi gì. Tống Thị cũng
may mà không bị chúa Nguyễn Phúc Lan trị tội. Tháng 4 năm Giáp Ngọ (1654), Tống
Thị lại phạm tội một lần nữa. Nguyên trước kia, khi Tống Thị làm chuyện chẳng
hay với chúa Nguyễn Phúc Lan (cũng vốn là em chồng của mình), quan Chưởng cơ
Tôn Thất Trung muốn giết đi. Tống Thị sợ quá, bèn tìm cách chiều chuộng Tôn
Thất Trung, rốt cuộc, hai người tư thông với nhau. Nghe lời Tống Thị, Tôn Thất
Trung tính làm chuyện phản nghịch. Cơ mưu bị bại lộ, Tôn Thất Trung bị tống
giam còn Tống Thị thì bị giết, tài sản bị tịch thu.
Lời bàn: Những gia đình có giáo
dục đàng hoàng chưa hẳn đã có được những đứa con tử tế, nhưng, những đứa con tử
tế bao giờ cũng là sản phẩm của một quá trình giáo dục đàng hoàng. Như Tống
Phước Thông, nếp nghĩ ấy, tâm địa ấy… đòi con ông đàng hoàng thì có khác gì đòi
loài cọp con phải nhân từ?
Một lần Tống Thị đẩy đưa với
em chồng, thôi thì cứ cho là khát khao chưa dứt, lầm lỡ dẫu nặng cũng có thể
tạm bỏ qua. Thêm một lần quan hệ bất chính với Tôn Thất Trung, thôi thì cứ cho
là vì sự sống còn của riêng thân mà dùng vũ khí tạo hóa ban cho để thoát nạn.
Đến như hai lần làm chuyện phản nghịch, thì Tống Thị hỡi, ngàn năm không ai
hiểu cho bà. Nỗi lòng Tống Thị, khó nói thay!
Một người đàn bà góa bụa,
từng sinh hạ những ba người con trai, thế mà từ chúa Nguyễn Phúc Lan tới võ
tướng cao cấp là Tôn Thất Trung phải xiêu lòng, cả đến chúa Trịnh xa tít ở Đàng
Ngoài cũng phải tin lời mà xuất chinh vất vả. Khiếp thay!
47 - BÀI THƠ THẦN NHÂN TẶNG HIỀN
VƯƠNG NGUYỄN PHÚC TẦN
Sách Đại Nam thực
lục (Tiền biên, quyển 4) chép rằng:
"Bấy giờ, Nam Bắc dụng
binh, Chúa bận tâm lo nghĩ, làm sao tìm được người hiền tài để ủy thác mọi việc
ở biên cương. (Một hôm) Chúa nằm mơ thấy có thần nhân đến, đưa cho bài thơ như
sau:
Tiên kết
nhân tâm thuận,
Hậu thi đức
hóa chiêu,
Chi diệp
kham tồi lạc,
Căn bản dã
nan dao.
Nghĩa là:
Trước là tập hợp lòng người,
sao cho hòa thuận,
Sau là thi hành đức hóa sao
cho rõ ràng,
Cành và lá có khi còn rơi
gãy,
Rễ và gốc kia khó mà lung
lay.
Chúa cho rằng, bài thơ ấy
(có chữ thuận và chữ chiêu) ứng với Thuận Nghĩa và
Chiêu Vũ. Bấy giờ, Nguyễn Hữu Tiến là Thuận Nghĩa Hầu, Nguyễn Hữu Dật là Chiêu
Vũ Hầu, cho nên, phàm là việc binh thì nên bàn trước với hai người này.
Tháng ba (năm Ất Mùi, 1655 -
ND), Chúa sai Nguyễn Hữu Dật đi tuần ở biên giới. Hữu Dật đến dinh Bố Chính,
nắm rõ tình hình. Khi về, Chúa triệu đến hỏi, Hữu Dật đáp:
- Thần có một kế, nếu theo thời có thể bắt
Trịnh Đào dễ như trở bàn tay.
Chúa hỏi kế gì, Hữu Dật đáp:
- Bao năm nay dụng binh mà quân ta chưa từng
tiến ra Bắc. Nay, thần xin chia quân làm ha đạo. Thượng đạo thì tiến lên trước,
đánh vào Tất Đồng. Trung đạo thì tiếp ngay sau để làm thanh ứng. Trịnh Đào ở
đất Hà Trung, nhận tin này thì thế nào cũng đoán chắc là ta chỉ đánh vào Tất
Đồng mà thôi, cho nên sẽ không bỏ thành lũy mà đi cứu viện. Ta nhân đó, cho
quân hạ đạo tiến đến Hoành Sơn để đánh úp Lê Hữu Đức rồi thừa thế mà cướp lấy
dinh Hà Trung. Đó là kế điệu hổ xuất sơn, dẫn xà nhập huyệt (nghĩa
là lôi con cọp ra khỏi rừng, đưa con rắn vào hang - ND), đánh một trận mà đã có
thể toàn thắng.
Chúa mừng nói:
- Khanh bàn việc binh, mầu nhiệm như thần, dù
là Tử Phòng (tức là Trương Lương, danh tướng của nhà Hán, Trung Quốc - ND) hay
Bá Ôn (tức Lưu Cơ, người đã giúp Minh Thái Tổ thống nhất Trung Quốc - ND) cũng
không thể hơn được.
(Nguyễn) Hữu Dật lại xin đặt
các hỏa đài làm hiệu ở các cửa biển Quảng Bình, để tiện việc báo tin biên cương
cho chóng và xin dựng kho Trường Dục để chứa lương thực. Ngoài ra, ông còn xin
hạ lệnh cho sĩ tốt các dinh ở Quảng Bình và Bố Chính, lo chỉnh đốn quân nhu để
đợi lúc cần đến thì xuất ra. Chúa đồng ý tất cả và cử Nguyễn Hữu Tiến làm Tiết
chế, Nguyễn Hữu Dật làm Đốc chiến.”
Lời bàn: Có những điều, ta tập
trung suy nghĩ hết ngày này sang ngày nọ vẫn chẳng ra, vậy mà bất chợt trong
mơ, ta bỗng tìm được lời giải rất sâu sắc. Kẻ hậu học này cũng từng có, mà
không phải một lần đâu, chỉ khác ở chỗ tự mình thấy mình đang nghĩ và tự mình
tìm ra, mừng quá mà tỉnh giấc, chớ chưa may mắn được thần nhân nào mách bảo hay
thân hành đem lời đáp đến tận nơi cho mình cả. Có lẽ là tại mình không phải
Chúa.
Bài thơ có được trong mơ của
Chúa rằng hay thì chẳng phải là hay, nhưng cái tâm của người làm Chúa thiên hạ
kí tải trong những câu có vần nói trên, quả là đáng kính lắm. Người như vậy,
không thể nói là không có đức được, chẳng thể vì Chúa là người cầm đầu một
trong những thế lực nội chiến mà bỏ qua lời này.
Thuận Nghĩa Hầu không thể
gọi tắt là thuận, Chiêu Vũ Hầu cũng không thể gọi tắt là chiêu, uốn
lời văn theo ý riêng của mình như thế là gượng. Nhưng, thà vì thịnh tình, gượng
ép lời văn cho hợp với sự đời trôi chảy, còn hơn là lấy cái uy của Chúa để bắt
ép sự đời, bất chấp gượng gạo, miễn sao cho hợp với sự trôi chảy của lời văn!
Nguyễn Hữu Dật được Chúa tin
dùng, và Chúa đặt niềm tin như vậy là đúng địa chỉ, nhưng trong phút mơ màng,
kẻ hậu học này cũng có thấy Chúa đến, dặn phải viết thêm câu này: Ta chỉ làm
theo mơ khi nào tỉnh táo ta thấy rõ giấc mơ ấy đúng, còn như ngôi vị ở đời là
ngôi vị thật, kẻ nào bắt chước ta, ngồi trên ngôi vị mà lúc nào cũng như mơ, ta
quyết lôi cổ về âm phủ để nghiêm trị chứ chẳng thể tha.
Xin kính chép thêm lời
Chúa... trong mơ, và xin miễn bàn thêm.

