Các Học Thuyết Tâm Lý Nhân Cách - Chương 19

Chương 19. MEDARD BOSS HỌC THUYẾT NHÂN
CÁCH HIỆN SINH

CÁC HỌC THUYẾT TÂM LÝ NHÂN CÁCH

1. Tiểu sử

Cuộc đời ông thật
khó có thể tin được ông đã đến với tâm lý liệu pháp như thế. Ông sinh ra tại
St. Gallen, Switzerland ngày 4 tháng 10, năm 1903, Medard Boss và lớn lên ở
Zurich, thời điểm nơi đó là trung tâm những hoạt động tâm lý của thế giới. Ông
tốt nghiệp học vị bác sĩ y khoa năm 1928, sau đó ông tiếp học ở Paris và
Vienna, chính bản thân ông đã được Freud tiến hành phân tích tâm lý.

Sau bốn năm làm
việc tại bệnh viện Burgholzli như một phụ tá cho Eugen Bleuler, ông tiếp tục
học tiếp ở Berlin và London, ông chịu ảnh hưởng bởi thầy dạy của mình và vài
người trong nhóm cận thân gồm Freud, Karen Horney và Kurt Goldstein. Bắt đầu
năm 1938, ông quen biết với Carl Jung, người đã cho ông thấy rằng khả năng của
phân tích tâm lý là không nhất thiết phải được công nhận bằng những giải thích
của Sigmund Freud.

Qua một thời gian,
Boss đọc thêm những công trình nghiên cứu của Binswanger và Martin Heidegger.
Mãi đến năm 1946 kết quả tình bạn giữa ông và Heidegger đã trở nên khắng khít,
ông trở thành nhà tâm lý học Hiện sinh kể từ đó. Vì những đóng góp của ông đối
với tâm lý học Hiện sinh quá lớn nên ông thường được coi là người cùng với
Ludwig Binswanger đã sáng lập ra nhánh tâm lý Hiện sinh.

2. Học thuyết của
Medard Boss

Khi Binswanger và
Boss đồng ý với nhau về những điều cơ bản nhất của tâm lý Hiện sinh, Boss có vẻ
thích thú với ý tưởng ban đầu của Heidegger nhiều hơn. Boss không thích lắm ý
tưởng của Binswanger về kiến tạo thế giới. Ông tin rằng ý tưởng con người về
thế giới này từ những kỳ vọng đã được tạo sẵn đã làm loãng đi những điểm cốt
lõi của tâm lý Hiện sinh là theo Boss, thế giới không phải là một đại lượng để
chúng ta có thể phân tích hay lý giải mà thế giới là một đại lượng sẽ tự trình
bày và chiếu sáng về tính năng hiện hữu dasein.

Ví dụ so sánh về ánh sáng có một vai trò quan trọng trong học thuyết
của Boss. Khái niệm hiện tượng, có nghĩa đen là tỏa sáng, đi ra từ bóng tối.
Boss đã quan sát và tin rằng hiện hữu tự thân nó là ánh sáng và sẽ đem mọi vật
đến cùng với ánh sáng.

Ý tưởng này đã có
một ảnh hưởng sâu sắc lên suy nghĩ và hiểu biết của Boss về những hiện tượng
tâm lý bệnh học, về cơ chế tự vệ, phong cách trị liệu, và cả cách ông phân tích
những giấc mơ. Theo ông, cơ chế tự vệ chính là quá trình không chiếu ánh sáng
về một vài khía cạnh nào đó của cuộc đời và là nguồn gốc bệnh tâm thần. Sử dụng
cơ chế tự vệ quá nhiều chính là lựa chọn sống trong tăm tối. Vì thế liệu pháp
chính là quá trình lật ngược lại xu hướng trói cột nhằm đưa đến sự mở cửa lòng
của chúng ta– vốn được chúng ta thường gọi là cảnh giới được khai sáng.

Một điểm quan trọng
trong liệu pháp là đề nghị thân chủ hãy buông thả những điều tiêu cực. Phần
lớn, chúng ta ghì quá chặt vào những khía cạnh trong đời sống và mong được kiểm
soát những khía cạnh ấy. Vì thế chúng ta cần có niềm tin nhiều hơn một chút,
tin tưởng vào số phận của mình nhiều hơn một ít, nhập cuộc và nhảy ùm vào cuộc
sống, thay vì cứ đứng trên bờ nhìn xuống xem nước sâu bao nhiêu. Ông khuyến
khích thay vì giữ cho ánh sáng hiện thân tập trung vào một điểm gò bó, tại sao
chúng ta không để ánh sáng hiện thân được tỏa sáng tự do.

3. Hiện sinh

Trong khi
Binswanger muốn sử dụng các khái niệm của Heidegger như thế giới vật chất, thế
giới xã hội, và thế giới nội tại, Boss có vẻ thích thú với ý tưởng hiện sinh
vốn bao gồm tất cả mọi điều chúng ta phải đương đầu trong cuộc sống. Ông đặc
biệt chú ý đến cách các cá nhân nhìn vào không gian và thời gian. Dù đấy không
phải là những đại lượng vật lý đo đạc được qua chiều dài (mét) hay thời gian
(giây, phút). Khái niệm thời gian và không gian mà ông nhắm đến, được hiểu
trong bối cảnh thế giới con người, không gian, thời gian trong lăng kính cá
nhân. Theo ông nhiều chuyện xảy ra trong quá khứ rất lâu nhưng vẫn còn in rất
đậm lên hiện tại. Nhiều người ở cách xa chúng ta rất nhiều nhưng lại gần gũi
hơn cả những người ngồi ngay trước mặt chúng ta.

Ông cũng đặc biệt
chú ý đến cách chúng ta liên hệ với chính con người của mình. Ông cho rằng việc
chúng ta mở rộng cơ thể của mình ra với thế giới thể hiện qua quá trình chấp
nhận mình và người khác, một khái niệm mà ông gọi là giãi bày chính mình.

Ông chia sẻ chung
quan điểm với Binswanger rằng quan hệ giữa người với người là một quá trình
liên đới rất quan trọng. Chúng ta không sinh ra là những cơ thể có thể đóng cửa
lòng mình và nhốt chặt tâm tư của chúng ta mãi mãi. Chúng ta nên sống và chia
sẻ thế giới này, chúng ta cần tỏa ánh sáng đến nhau. Sự hiện diện của con người
là một sự hiện diện cần được chia sẻ.

Những người tin
theo Boss, quan tâm đến tâm trạng hay sự hòa nhập tâm hồn. Boss tin rằng trong
khi chúng ta liên tục chiếu sáng thế giới, chúng ta có lúc tỏa sáng một khía
cạnh nào đó nhiều hơn ở những lĩnh vực khác, hoặc chúng ta chiếu sáng với một
gam màu khác. Tuy nhiên, chẳng có sự khác biệt nào trong cách chúng ta chiếu
sáng với những tâm trạng nhất định nào đó.

Chẳng hạn khi ta
giận dữ, chúng ta sẽ có những lối hòa nhập rất riêng, bằng cách chúng ta bày ra
những tư tưởng giận dữ, những hành vi nóng nảy, mặt đỏ bừng, bức xúc… Nhưng khi
chúng ta vui vẻ lối hòa nhập cũng phản ánh đúng như tâm trạng của chúng ta với
những cử chỉ thân thiện, đáng yêu, tươi tắn như mặt trời buổi sớm. Khi ta đói,
mắt ta chỉ nhìn thấy thức ăn. Khi bạn lo lắng, ánh mắt sợ sệt sẽ nói lên tất cả
sự thật.

4. Những giấc mơ

Boss đã nghiên cứu
những giấc mơ nhiều hơn bất cứ một nhà tâm lý hiện sinh nào và đánh giá vai trò
của chúng rất cao trong quá trình liệu pháp. Tuy nhiên khác với Freud và Jung,
ông đề nghị họ kể về những giấc mơ của mình. Mọi vấn đề đều không thể giấu mình
đằng sau những biểu tượng và thường có những kênh phát sóng các sự kiện tiềm
ẩn. Vì thế, những giấc mơ cho chúng ta thấy cách chúng ta tỏa sáng qua cuộc đời
của mình. Nếu chúng ta cảm thấy mình bị trói buộc, sẽ nghe được tiếng dậm chân
trên nền gạch xi măng trong giấc mơ. Nếu ta tự do, ta sẽ nhìn thấy mình được
bay bổng. Nếu chúng ta cảm thấy mặc cảm, chúng ta sẽ nằm mơ nhìn thấy mình phạm
tội. Nếu lo lắng, ta sẽ nằm mơ thấy mình bị đuổi đi.

Boss đã làm việc
với thân chủ của mình là một thanh niên có những vấn đề về đời sống tính dục và
cảm thấy rất trầm uất. Tháng đầu tiên, thân chủ của ông chỉ nằm mơ thấy máy móc
– chẳng lạ gì đối với một kỹ sư và cũng chẳng có gì là hấp dẫn với người bình
thường. Sau một thời gian có những tiến bộ trong liệu pháp, những giấc mơ của
anh ta bắt đầu thay đổi. Anh bắt đầu năm mơ nhìn thấy cây cối nhiều hơn. Sau đó
anh ta nằm mơ nhìn thấy côn trùng và đã khiến anh ta sợ. Tiếp đó anh ta nằm mơ
thấy cóc nhái, rắn rết, chuột và thỏ rồi cả một con lợn nữa.

Sau hai năm theo
liệu pháp, anh ta bắt đầu năm mơ nhìn thấy phụ nữ. Người đàn ông này rất buồn
và cô đơn vì xung quanh đối xử với anh là thế giới của máy móc. Phải mất một
thời gian rất lâu sau anh ta mới có thể nằm mơ thấy được một giấc mơ có hơi ấm,
người phụ nữ. Giấc mơ về con lợn chẳng có ý nghĩa gì đặc biệt ở đây cả, chưa
phải là điều thầm kín có tính chất biểu tượng. Nhưng ánh sáng cuối cùng đã được
tỏa ra từ cuộc đời của anh sau quá trình phát triển chậm, đó là anh nằm mơ thấy
phụ nữ.

Tóm lại, chúng ta
có thể nhìn thấy ngay thuyết của Boss có tính năng căn bản của nền tảng của
thuyết Hiện sinh – những giá trị nội tại trong một khung thời gian đặc trưng
rất riêng của mỗi cá nhân.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3