Cùng con trưởng thành - Chương 01 - Phần 2

Tôi
kéo bạn gái về nhà, trên đường đi tôi không ngừng khuyên ngăn cô ấy
nhưng cô ấy không hề lên tiếng. Về đến nhà cô ấy gào lên: “Anh chỉ
nghĩ đến bản thân anh, tại sao anh lại không nghĩ cho em? Em vừa mới
tốt nghiệp, còn trẻ, chưa kết hôn mà đã sinh con, như vậy em còn mặt
mũi nào để nhìn mọi người nữa đây? Em có thể không quan tâm đến
những điều này, nhưng lương của em ba cọc ba đồng, anh lại làm ăn thua
lỗ như thế, chúng ta lấy gì mà nuôi con?”.

Những
lời cô ấy nói như những mũi dao đâm vào tim tôi nhưng lời nào cũng
đều có lý. Nhưng niềm khát khao được làm cha bấy lâu nay cộng với
tình thương dành cho đứa trẻ trong bụng cô ấy khiến tôi không thể nào
để cho lý trí chiến thắng tình cảm. Tôi hứa với bạn gái sẽ đi đăng
ký kết hôn, tôi nhất định sẽ kiếm được tiền để nuôi con, tôi đường
đường là một nam tử hán, dù có khổ có mệt đến như thế nào đi nữa,
vì con tôi đều có thể chịu đựng được. Tôi khuyên ngăn nhiều, cuối
cùng bạn gái tôi cũng coi như miễn cưỡng đồng ý giữ lại đứa con.

Sau đó
trong một lần cãi vã, bạn gái tôi lại quyết tâm bỏ đứa bé, tôi đưa
cô ấy đến cổng bệnh viện rồi lại lôi cô ấy về. Cứ như vậy vài lần,
con tôi lớn lên dần trong bụng mẹ, cuối cùng bác sĩ nói cái thai đã
quá to, không thể bỏ được nữa. Quãng thời gian đó tôi đã khóc rất
nhiều, nhiều lúc chỉ những xúc động rất nhỏ cũng khiến tôi rơi nước
mắt. Bạn gái tôi cuối cùng cũng hiểu cho tôi, cô ấy chịu đựng áp
lực và đưa ra quyết định cuối cùng: Dù khổ thế nào cũng sẽ sinh con!

Qua bao lần trắc trở cuối cùng chúng tôi
cũng “giữ” được con bên mình…

Trong
quãng thời gian mang thai, con chưa ra đời nhưng đã cùng chúng tôi nếm
trải bao đau khổ mất mát: Ông ngoại qua đời, con ở trong bụng mẹ đã
phải cảm nhận nỗi đau mất người thân; công việc của văn phòng tư vấn
gặp khó khăn, qua những lời than của mẹ, con cũng cảm nhận được cha
gây dựng sự nghiệp khó khăn như thế nào; cho đến khi mẹ và bà nội
về quê, con chưa ra đời đã phải chịu sự vất vả của một chuyến đi xa…

Thế
sự bắt buộc, khi tôi quyết định đến Tây An lập nghiệp, vợ tôi (lúc
đó trong lòng tôi bạn gái đã trở thành vợ) đã mang thai đến tháng
thứ chín, chẳng mấy chốc con tôi sẽ chào đời. Nhưng lần này đến Tây
An chưa biết sẽ thế nào, tôi đành cắn răng để vợ và mẹ già gần bảy
mươi tuổi lên tàu biển trở về quê nhà Cát Lâm (mẹ tôi từ Cát Lâm đến
Yên Đài để chăm sóc con dâu chờ ngày sinh nở). Nhìn vợ bụng mang dạ
chửa, đi lại khó nhọc và mẹ già tuổi cao sức yếu, đi lại chậm
chạp, lại nghĩ đến cảnh hai người đi tàu xa sau đó lại xuống đi tàu hỏa,
rồi đi xe mới về đến Cát Lâm, nước mắt tôi lại lăn dài trên má…

Tôi
biết là mình quyết định như thế không chỉ có lỗi với vợ, với mẹ
mà còn có lỗi với cả đứa con còn nằm trong bụng mẹ. Con gái tôi có
thể bình an chào đời, có thể nói là một sự may mắn vô cùng. Và
cũng vì thế mà một người theo chủ nghĩa duy vật như tôi cũng phải
cảm ơn ông trời đã ban cho tôi một ân huệ lớn lao như vậy.

Tôi nên làm một
người cha như thế nào?

Thực
ra trước khi chính thức lên chức cha tôi đã nghiên cứu tìm hiểu về
giáo dục gia đình trong một khoảng thời gian khá dài.

Đầu
những năm chín mươi của thế kỷ XX, lúc đó tôi phụ trách “Chuyên mục tư
vấn tâm lý Đông Tử” của báo Thanh niên Hải Nam, giải đáp thắc
mắc của thanh thiếu niên, chuyên mục không những được các bạn nhỏ yêu
mến mà ngay cả các bậc phụ huynh cũng rất quan tâm. Các bạn nhỏ tâm
sự với tôi là các bạn không hài lòng về cha mẹ mình như thế nào,
các bạn thấy cô đơn và ấm ức ra sao, còn các bậc phụ huynh lại than
phiền vì con cái không nghe lời, không dễ dạy dỗ…

Một
thời gian sau khi phụ trách chuyên mục tư vấn tâm lý, tôi ngày càng cảm
thấy các bạn nhỏ không có niềm vui trong cuộc sống, còn các bậc phụ
huynh thì cảm thấy áp lực. Tôi đã tự hỏi tại sao trong giáo dục gia
đình lại tồn tại nhiều vấn đề như thế? Càng đi sâu vào tìm hiểu tôi
phát hiện ra được nhiều điều hơn, và tôi cũng viết nhiều hơn về đề
tài giáo dục trong gia đình. Đến khi con gái tôi chào đời, bản thân
trở thành phụ huynh, tôi mới thực sự cảm nhận được nỗi lòng của
những người làm cha làm mẹ.

Trước
khi có con, phạm vi nghiên cứu của tôi rất rộng, từ vấn đề giáo dục
rất vĩ mô đến một tình huống cụ thể về giáo dục gia đình nào đó
mà tôi sưu tầm được. Nhưng sau khi Y Y chào đời thì những bước trưởng
thành của con đương nhiên trở thành đề tài để tôi tìm hiểu và nghiên
cứu.

Thực
ra khi biết chính xác là vợ tôi đã mang thai, tôi luôn có suy nghĩ bản
thân phải cố gắng mang lại niềm vui, hạnh phúc cho con. Khoảng thời
gian đó, tôi thường nhớ lại và suy ngẫm về tuổi thơ của mình. Tôi
nhớ lại những thiếu thốn về vật chất, những trận đòn của cha mẹ,
và tôi nghĩ khi làm cha, điều đầu tiên mà tôi làm cho con gái đó là
không để cho con gái phải chịu đựng hai nỗi khổ này.

Tuy
vậy, mang đến cho con một cuộc sống vật chất đầy đủ hơn so với tôi
trước kia, không để con phải chịu những trận đòn đau, như vậy là đã
cho con hạnh phúc và niềm vui chưa?

Làm công tác tư vấn tâm lý cho thanh thiếu niên, tôi
vẫn thường nghe được những chia sẻ cũng như những u uất trong lòng của
các em qua đường dây nóng, qua những bức thư các em gửi hay trong những buổi
thuyết trình. Trong thư của một học sinh trung học, em tâm sự với tôi rằng
em ghét đi học, trường học giống như nhà tù, thậm chí em còn không
bằng một tù nhân. Một em khác bỏ nhà đi và gọi điện tâm sự với tôi:
“Ngày nào em cũng phải đối mặt với một đống bài tập làm mãi không
hết, em thực sự chán ghét đến tột đỉnh rồi”. Một “ông cụ non” than
thở với tôi vẻ bất đắc dĩ: “Sống thật chẳng có ý nghĩa gì, không được
vui chơi, không được làm những gì mình thích, cuộc sống hình như chỉ
có học hành, thi cử…”.

Nghe
những lời than thở như vậy từ miệng những đứa trẻ hồn nhiên ngây thơ,
thật khiến người lớn chúng ta đau lòng biết bao. Vốn dĩ các em phải
được có một tuổi thơ với những tháng ngày vui vẻ nhưng tại sao các
em lại phải lớn lên trong những lời than thở. Chỉ có một nguyên nhân
đó là áp lực học hành quá lớn.

Không
nơi đâu trên thế giới này, trẻ em lại phải chịu áp lực học hành lớn
như trẻ em Trung Quốc.

Tôi tin
chắc rằng các bậc phụ huynh đều có chung một suy nghĩ: trẻ em bây
giờ sống quá mệt mỏi. Nếu được hỏi về tuổi thơ của mình trôi qua như
thế nào, tôi tin rằng đa số các em sẽ trả lời tuổi thơ của mình trôi
qua cùng đề thi, các lớp học thêm, áp lực và điểm số…

Mặc
dù tư tưởng “đề cao giáo dục tố chất cho học sinh” đã được đưa ra
nhiều năm, mặc dù Bộ Giáo dục luôn kêu gọi “giảm áp lực cho học
sinh” nhưng áp lực học tập của các em không hề giảm, thậm chí ngày
một tăng lên. Bởi vì chế độ thi cử không thay đổi, điểm số vẫn là
điều quan trọng nhất đối với thầy cô và học sinh. Trải qua mười hai
năm học phổ thông, thứ duy nhất có thể đánh giá được các em thành
công hay thất bại là điểm số cao hay thấp, có đỗ được vào trường
đại học trọng điểm hay không? Thành tích cũng là thước đo khả năng
giảng dạy của các thầy cô giáo, hầu hết tại các trường phổ thông,
việc đánh giá năng lực của các thầy cô giáo đều dựa vào tỷ lệ lên
lớp và điểm trung bình của học sinh, lớp nào có học sinh thi đạt
điểm cao, thi đỗ vào những trường điểm thì giáo viên của lớp đó
được đánh giá là giáo viên dạy giỏi. Vì thế khi bước chân vào cổng
trường, học sinh bỗng nhiên trở thành một cái máy học, sự thông minh
vốn có của các em bị kìm hãm, sức sáng tạo của các em cũng bị
cướp đi một cách không thương tiếc.

Chịu
áp lực lớn của giáo dục đối phó, phần lớn các bậc phụ huynh đã
chọn cách trở thành “trợ thủ” của nhà trường. Cũng giống như giáo viên,
phụ huynh chỉ chăm chăm quan tâm đến thành tích của con cái, hàng ngày
câu hỏi nhiều nhất mà họ hỏi con mình là: “Hôm nay ở trường con học
gì?”, “Khi nào thì con thi?”, “Lần kiểm tra này con được bao nhiêu
điểm?”.

Điều
này khiến tôi nhớ đến khoảng thời gian đầu năm 2011, lúc đó tôi cùng
đoàn khảo sát của Bộ Giáo dục Trung Quốc có chuyến công tác đến
Israel. Trong chuyến công tác đó chúng tôi thấy các bậc phụ huynh
người Do Thái hỏi con cái của họ: “Hôm nay con có đặt câu hỏi không?
Con hỏi mấy câu?”. Họ cổ vũ con cái tích cực nêu ý kiến, tích cực
đặt câu hỏi cho giáo viên và phụ huynh. Một đứa trẻ không biết đặt
câu hỏi chỉ là một con mọt sách không hơn không kém, cũng giống như
một đất nước không nghe thấy những tiếng nói chất vấn từ nhân dân
thì đó là một đất nước không có tương lai, những câu hỏi sẽ khiến
đứa trẻ tiến bộ và chất vấn sẽ khiến đất nước phát triển.

Giáo dục
Trung Quốc về căn bản vẫn chưa cải thiện được hiện trạng giáo dục
nhồi nhét, học sinh học thụ động, nhưng phương pháp giáo dục của
người Do Thái lại chú trọng giáo dục gợi mở, khiến học sinh chủ
động tiếp thu kiến thức. Sự khác biệt quyết định kết quả cuối
cùng!

Một
nền giáo dục như vậy liệu có thể mang đến cho chúng ta điều gì?

Con
cái đều than thở với cha mẹ: “Dậy sớm nhất để đi học là con, về
nhà muộn nhất cũng là con, chơi ít nhất là con, ngủ muộn nhất là
con, mệt nhất là con, cái gì cũng là con… là con… là con”. Có những
đứa trẻ do không chịu đựng được áp lực đã tìm đến những cách giải
quyết cực đoan, truyền thông liên tục đưa tin về các trường hợp học
sinh tiểu học và trung học tự sát. Những tiếng kêu xé lòng khiến
chúng ta không khỏi đau đớn, ngày càng có nhiều đứa trẻ vô tình bị
cướp mất tuổi thơ, giống như những nụ hoa mới chớm chưa kịp tỏa hương
khoe sắc thì đã bị người ta dùng thuốc kích thích cho tàn nhanh vậy…

Đáng sợ là chúng ta chẳng mấy quan tâm đến vấn
đề này. Phụ huynh của các học sinh tiểu học và trung học bây giờ
chủ yếu là những người thuộc thế hệ 7X, hễ nói đến con cái, họ
đều có chung quan điểm là trẻ con thời nay được sống đầy đủ về vật
chất và tinh thần: không lo ăn, lo mặc, cần cái gì có cái đó, là
mặt trời nhỏ của cha mẹ, tiểu hoàng đế của ông bà, được nâng niu chăm
sóc tựa như cầm một bình pha lê trên tay chỉ sợ rơi vỡ, có đàn piano
để chơi, có bút màu cao cấp để vẽ, có gia sư kèm cặp… Thời đại
chúng tôi thì lấy đâu ra những thứ này.

Mà
xét cho cùng, ý kiến của các bậc phu huynh cũng không sai, nhưng chúng
ta đã bỏ qua một thứ, đó là niềm vui, những đứa trẻ bây giờ thiếu niềm
vui. Khi còn nhỏ, chúng ta được trèo cây tìm tổ chim, xuống sông bắt
cá, chạy nhảy nô đùa giữa cánh đồng, lăn lộn ở bãi bùn, chơi trốn
tìm, chơi ném bao cát, chơi nhảy dây, bắn bi… Trẻ con bây giờ không
được tận hưởng những niềm vui này nữa.

Nếu
như lấy tuổi thơ của chúng ta đổi lấy tuổi thơ của trẻ em bây giờ,
chúng ta có đồng ý không?

Tuổi
thơ của chúng ta là những trận đòn đau, không có sự thương yêu ân cần
của cha mẹ, không có đồ chơi, không có những bộ phim hoạt hình hấp
dẫn, không có truyện tranh, không có đồ ăn vặt, nhưng tại sao mỗi khi
nhớ lại thời thơ ấu, trong lòng vẫn cảm thấy vô cùng vui vẻ?

Giữa đời
sống tinh thần vui vẻ và cuộc sống vật chất đầy đủ nhưng đời sống tinh
thần thiếu thốn, chắc hẳn không ai chọn cuộc sống vật chất đầy đủ
nhưng khổ sở về tinh thần. Nhưng tại sao chúng ta lại để con cái phải
chịu đựng những tổn thương tinh thần đó?

Khi tụ
tập cùng bạn bè, nhắc lại chuyện thời thơ ấu, mọi người ai nấy đều
rạng rỡ, những chuyện vui nhiều không kể xiết. Nhưng những đứa trẻ
bây giờ, cả ngày chạy sô giữa nhà và trường học, phần lớn thời gian
chúng bị nhốt trong những không gian nhỏ hẹp bí bách để học, học và
học. Đến khi chúng trưởng thành, ngồi tụ tập lại, nhắc lại chuyện
thời ấu thơ, chúng sẽ nói những chuyện gì? Ký ức toàn một màu xám
xịt, có thể tìm được điều gì đáng để nói?

Cứ
nghĩ đến những điều này, lòng tôi lại thấy tê tái. Vì thế, tôi quyết
tâm mang lại niềm vui cho con gái, khiến con vui vẻ học hành, khỏe
mạnh trưởng thành, thuận lợi thành tài! Tôi phải cho con một tuổi thơ
hạnh phúc, tôi phải làm một người cha tốt - người cha có thể làm
mọi điều để con lớn lên trong niềm vui.

Con đường đi đến
thành công của con sẽ như thế nào?

Sự phát
triển của trẻ không thể tách rời việc “học”.

Từ
lúc bi bô học nói đến lúc lẫm chẫm học đi, con gái đã bắt đầu biết
quan sát thế giới xung quanh bằng đôi mắt hiếu kỳ, và điều này đã
khiến tôi suy nghĩ, làm thế nào để con nhận thức được việc “học”?
Mục đích cuối cùng của việc giáo dục con cái là gì?

Những
suy nghĩ trên của tôi bắt nguồn từ hiện trạng giáo dục hiện nay.

Ngày
nay, rất nhiều bậc phụ huynh cho rằng, “học” có nghĩa là cho con đi
học trước tuổi, học tiểu học, trung học, học xong trung học thì thi
đại học. “Học” có nghĩa là trên lớp ngoan ngoãn ngồi nghe thầy cô
giảng bài, về nhà chăm chỉ làm bài tập, đạt điểm cao khi kiểm tra hay
thi cử…

Tuy nhiên mục đích cuối cùng của việc giáo dục
con cái chính là mong muốn con “có tiền đồ”. Nhưng làm thế nào để
“có tiền đồ” đây? Tất nhiên là khi đi học phải chịu khó học hành,
có thành tích học tập tốt, sau đó thi đỗ một trường đại học có
tiếng, sau này làm quan to, kiếm nhiều tiền, có danh tiếng.

Chịu
sự ảnh hưởng của tư tưởng trên nên các bậc phụ huynh rất kỳ vọng
vào việc giáo dục của nhà trường.

Vì
thế mà ngay từ ngày đầu tiên đi học, ngày này qua ngày khác, năm này
qua năm khác, bọn trẻ phải học dưới sự chỉ huy của những chiếc
thước, hơn nữa mục tiêu chỉ có một: thi đỗ đại học, nội dung chỉ có
một: những kiến thức trong sách vở thuộc phạm vi thi, phương pháp
cũng chỉ có một: chăm chỉ chịu khó học thuộc lòng…

Một
nền giáo dục như vậy thì “học mà chơi, chơi mà học” hay “giáo dục
theo đối tượng” chỉ là những khẩu hiệu, thực chất nó giống với kiểu
giáo dục mà chúng ta đang phê phán: “giáo dục để thi cử”.

Có một bức tranh có nội dung như thế này: Ô đầu
tiên vẽ đầu của nhiều đứa trẻ, đứa tròn đứa vuông, đứa gầy đứa
béo, chú thích “bắt đầu đi học”, ô thứ hai vẫn là đầu của những đứa
trẻ đó, nhưng không còn sự khác biệt nào nữa, tất cả dường như được
đúc ra từ một khuôn, hình dạng khuôn mặt giống nhau, đứa nào đứa nấy
trên mũi đều xuất hiện thêm cặp kính, chú thích “khi tốt nghiệp”.
Chỉ một bức tranh như vậy đã phản ánh được hết bản chất giáo dục
trong nhà trường hiện nay.

Việc
giáo dục theo phương thức thống nhất mang tính dây chuyền này, cộng với
phương pháp giáo dục, quan niệm giáo dục cổ hủ của một số thầy cô
giáo, áp lực tâm lý, áp lực bài vở đã giết chết bao nhiêu phần bản
tính nhanh nhẹn, hoạt bát, tư duy nhạy bén của trẻ…

Nhiều
người khen tôi thông minh, nếu không bỏ học giữa chừng, có khi có thể
thi đỗ một trường đại học danh tiếng, thậm chí có thể học lên thạc
sĩ, tiến sĩ. Mặc dù tôi không có cơ hội học tập bài bản ở trường
chính quy, nhưng tôi may mắn khi chỉ học trong trường có sáu năm, vì
thế những gì là thiên phú của bản thân mới không bị nền giáo dục để
thi cử bóp chết. Vì không đi trên cầu độc mộc, nên đường dưới chân tôi
thênh thang hơn.

Dường
như tôi đã có được câu trả lời cho vấn đề mà mình đang tìm hiểu: học
là quá trình tích lũy kiến thức, học vì muốn có năng lực sinh tồn
tốt hơn. Mục đích cuối cùng của giáo dục là giúp trẻ có thể độc
lập trong tương lai, có thái độ tích cực lạc quan, kiên cường trong
cuộc sống, có một trái tim biết cảm nhận niềm vui và lúc nào cũng
đầy ắp tình thương…

Vậy thì nên cho con học thế nào?

Học
hành khổ sở hay là vui học, học tập linh hoạt? Hiện thực muốn chúng
ta phải học hành khổ sở nhưng học sinh và phụ huynh lại muốn vui học,
học tập linh hoạt. Nhìn vào thể chế giáo dục ngày nay, liệu việc
vui học, học tập linh hoạt có khả quan không? Giống như việc học bơi,
không xuống nước thì vĩnh viễn sẽ không biết bơi, vì thế chúng ta
phải “xuống nước” thử xem sao.

Theo những
hiểu biết của tôi về tâm lý trẻ em, trong giai đoạn ở trường mẫu
giáo, nhiệm vụ chủ yếu của trẻ là chơi, chơi một cách vui vẻ, thoải
mái, như vậy có thể phát triển tâm lý và trí tuệ của trẻ. Sau khi
đi học thì phải học mà chơi, chơi mà học. Vì thế tôi muốn con gái
“chơi mà học”, vui vẻ học tập. “Chơi mà học” không phải vừa học vừa
chơi mà là khi chơi phải chơi hết mình, không được nghĩ đến việc học,
và ngược lại khi học phải tập trung, không được nghĩ đến việc chơi;
“học mà chơi” có nghĩa là tìm thấy niềm vui trong học tập, coi việc
học là một việc vui vẻ.

Vì
thế, tôi đã rất tâm huyết khi lên kế hoạch cho tương lai của con, tôi
gọi nó là “Ba khúc ca vui trưởng thành”, chơi ở tiểu học, vui ở trung
học và đi qua đại học.

Việc
phân chia làm ba giai đoạn như trên căn cứ vào đặc điểm tâm sinh lý ở
từng giai đoạn phát triển của trẻ, cộng với những kiến thức trẻ đã
tích lũy được ở từng giai đoạn cũng như việc bồi dưỡng năng lực để
quyết định.

Đầu tiên, về “chơi ở tiểu học”.

Tại
sao lại nhấn mạnh việc “chơi” ở tiểu học?

Thứ
nhất, chơi là bản tính tự nhiên và là quyền lợi của trẻ độ tuổi
tiểu học. Những đứa trẻ ở độ tuổi tiểu học đều rất muốn được
chơi, muốn tìm được niềm vui trong những trò chơi. Chơi đùa cũng giống
như ăn cơm hay mặc quần áo, đều là những nhu cầu cơ bản của trẻ. Vì
thế chúng ta không nên cướp mất quyền được chơi của chúng, phải cho
trẻ thời gian và không gian chơi. Từ ngày Y Y biết chơi đùa, tôi đã coi
việc chơi của con là điều tất yếu, là “bài tập” bắt buộc hàng ngày
của con. Chỉ cần con vui là tôi không tiếc thời gian cho con chơi. Sau
khi con đi học, tôi vẫn tìm cách để con vẫn có thời gian chơi, kiên
trì để con “chơi ở tiểu học”.

Thứ hai, chơi cũng là một phương thức học của trẻ
tiểu học. Chơi không chỉ là một phần cuộc sống của trẻ, chơi cũng
là một phần trong việc học tập của trẻ. Tôi cho rằng chơi mà học là
một phương pháp học rất hiệu quả và mang lại nhiều niềm vui. Suốt
những năm học tiểu học, phần lớn thời gian Y Y đều vừa chơi vừa học,
hoặc là học dưới hình thức những trò chơi, và thực tế chứng minh
việc học của con không hề bị ảnh hưởng mà ngược lại con vui vẻ,
không có áp lực trong suốt quãng thời gian học tiểu học.

Ở giai
đoạn tiểu học nhấn mạnh việc “chơi” không có nghĩa là để mặc trẻ muốn
chơi thế nào thì chơi, mà cần phải đúng “độ”. Phải biết cách dẫn dắt,
khiến con ngoài niềm vui ra còn có thêm năng lực và kiến thức.

Tiếp theo là “vui ở trung học”.

Trẻ có thể có được niềm vui khi chơi, nhưng niềm vui cũng có
thể đến từ nhiều thứ khác ngoài chơi đùa như lao động, học tập. “Vui”
mà tôi nói đến ở đây là niềm vui trong học tập.

Chúng ta đều biết chơi đùa có thể mang lại cho
trẻ niềm vui, nhưng rất nhiều người lại không để ý rằng việc học
cũng mang lại niềm vui, và niềm vui trong học tập thì cao hơn một bậc
so với niềm vui bình thường. Hiểu một cách đơn giản là coi việc học
như một niềm vui, trong quá trình vui học, có thể tiếp thu được kiến
thức và kỹ năng, từ đó có được niềm vui thành công.

Nhiều năm trở lại đây, tôi vẫn lên án “khổ học”, đề xướng quan
niệm “giáo dục vui vẻ”. Tôi đưa ra quan điểm “vui ở trung học” là muốn
con gái tôi khác với những đứa trẻ được “rèn đúc” trong môi trường
giáo dục thông thường, con gái tôi sẽ không phải khổ sở trong những
tập đề thi, mà khi con đã nắm được phương pháp học căn bản, con sẽ
học được cách học linh hoạt, học vui vẻ, từ đó con trưởng thành hơn,
tiếp thu được những kiến thức văn hóa cần thiết trong quá trình phát
triển mà không phải chịu nhiều áp lực.

“Vui ở trung học” được quyết
định bởi sự phát triển của trẻ và đặc điểm học tập của trẻ ở tuổi
trung học. Bài vở ở trường trung học nhiều hơn ở tiểu học rất
nhiều, lượng kiến thức cũng lớn, đề cập đến nhiều lĩnh vực, độ
khó cũng tăng lên, yêu cầu về năng lực cũng cao hơn ở tiểu học. Vì
thế bậc trung học yêu cầu người học phải đầu tư nhiều thời gian và
sức lực hơn để có thể nắm vững được những kiến thức ở bậc trung
học. Hơn thế nữa ở tuổi thứ 10 trở đi, “chơi” đã không còn đủ sức
thu hút toàn bộ hứng thú của trẻ, sự chú ý của trẻ đổi hướng sang
những lĩnh vực khác rộng hơn, trong đó bao gồm việc khám phá thế
giới qua sách vở, niềm vui trong học tập, niềm vui trong việc tìm
kiếm tri thức.

Căn cứ vào những đặc điểm trên, tôi rất tự tin
quyết định để Y Y “vui ở trung học”. Tất nhiên, muốn con coi việc học
là niềm vui không có nghĩa là không cho con thời gian để chơi. Tôi nói
với con cho dù con đã vào trung học, thời gian chơi ít hơn so với hồi
tiểu học, nhưng con vẫn là đứa trẻ có thời gian chơi nhiều nhất Trung
Quốc. Y Y đã nắm được phương pháp học khoa học, hơn nữa con lại rất
hứng thú với việc học tập, ý thức và khả năng tự học rất cao, cho
dù việc học ở bậc trung học vất vả hơn nhiều nhưng đối với con đó
không phải là áp lực quá lớn.

Qua mười sáu năm, con gái đã “chơi ở tiểu học”, rồi nhẹ nhàng
“vui ở trung học” và bước vào cổng trường đại học.

“Đi qua đại học” là một mục tiêu cơ bản mà tôi đã hoạch định
cho cuộc sống sinh viên của con gái. Trong trường đại học là quãng
thời gian quan trọng để rèn giũa một con người, ở giai đoạn này sinh
viên không chỉ học kiến thức văn hóa mà còn cần chú trọng bồi dưỡng
năng lực, tố chất của bản thân ở mọi phương diện. Ví dụ phải học
cách tiếp xúc với nhiều loại người khác nhau, từ đó xử lý tốt các
mối quan hệ với bạn cùng phòng, với những người xung quanh, phải tăng
cường bồi dưỡng tố chất tâm lý tốt, phải có sự bình tĩnh khi đối
diện với những sự việc hàng ngày, phải rèn luyện khả năng tổ chức,
sắp xếp, lãnh đạo của bản thân, tích cực tham gia các đoàn hội, các
hoạt động đoàn thể, cần nhận thức rõ bản thân mình, xác định được
mình là ai, có quy hoạch sơ bộ cho tương lai, kế hoạch cho cuộc sống
trong trường đại học cũng phải được hoạch định rõ ràng…

Trong quá trình “đi” này, con cũng sẽ có những niềm vui. Trước
tiên vì con rất yêu cuộc sống sinh viên, mỗi ngày con đều sống và học
hết mình, trân trọng từng ngày trong trường đại học; tiếp đó, con
rất tích cực, có ý chí khi làm hay quyết định một việc gì đó.

Khi con gái bước từng bước vững chắc qua ba gia đoạn, tôi tin
rằng con sẽ trưởng thành trong niềm vui, con sẽ vững vàng bước đi trên
con đường đời của bản thân mình.

Báo cáo nội dung xấu