Luận Anh Hùng - Phần I - Chương 01 - phần 1

Phần I: HẠNG VŨ

I. Quý tộc và lưu manh

Cuối cùng thì Hạng Vũ đã bị đánh bại, bại trong tay Lưu Bang.

Thắng làm vua thua làm giặc. Lưu Bang thắng trận khác gì chó mèo lên làm
hoàng đế, Hạng Vũ bại trận đành tự nhận là đen đủi, không những không thành bá
vương mà còn phải đi gặp Diêm vương.

Thực thê thảm và vô cùng uất ức.

Nghĩ lại thì thất bại cũng chẳng phải là điều gì đáng sợ đến nhường ấy!
“Thất bại vốn là chuyện thường của nhà binh!”. Vả lại, đời người xưa nay ai mà
chẳng phải chết? Chết đã chẳng tiếc thì bại có gì nhục. Có điều, bại không bởi
người khác, mà bại trong tay Lưu Bang, quả là khó hiểu.

Sao Hạng Vũ lại bại bởi Lưu Bang? Hạng Vũ là anh hùng, Lưu Bang là lưu
manh. Thân phận Hạng Vũ rất cao quý. Gia tộc của Vũ được coi là “danh tộc” thời
đó. Năm 209 trước Công nguyên (năm thứ nhất niên hiệu Tần Nhị Thế), Trần Thắng
khởi nghĩa, thiên hạ nơi nơi hưởng ứng, người người giương cao cờ, giáo, ùn ùn
kéo tới. Nhân dân Đông Dương (huyện Thiên Trường, tỉnh An Huy ngày nay) giết
huyện lệnh, muốn lập Trần Anh làm vương, Trần Anh lại có ý chạy sang với họ
Hạng. Họ Trần nói: “Ta dựa vào danh tộc, Tần tất bị diệt”. Trần Anh không dám
làm vương, chủ yếu là vì nhát gan, sợ phải xuất đầu lộ diện. Nhưng điều Trần
Anh nói là thực, họ Hạng là danh tộc, uy vọng cao, sức hiệu triệu mạnh. Đúng là
họ Hạng có một số điểm hơn người. Sử sách còn ghi, Hạng vốn là nước phong họ
Cát, đời sau của hoàng đế thời Tây Chu, đất này nay là huyện Hạng Thành, tỉnh
Hà Nam. Vào thời Xuân Thu, nước Lỗ diệt nước Hạng. Về sau Sở lại diệt Lỗ phong
đất Hạng cho tổ tiên Hạng Vũ, từ đó họ Hạng ra đời. Vì vậy, tổ tiên Hạng Vũ ở
Hạng Thành, Hà Nam, Viên Thế Khải, nhân vật nổi tiếng cuối triều Thanh đầu thời
kỳ Dân Quốc là đồng hương.

Họ Hạng được phong đất Hạng Thành, đời đời làm tướng của nước Sở. Đến thời
ông nội Hạng Vũ là Hạng Yên, vận nhà sa sút nhiều. Năm 224 trước Công Nguyên,
tức là năm thứ hai mươi ba thời Tần Thuỷ Hoàng, tướng Tần là Vương Giản tiến
đánh nước Sở, bắt sống Sở vương, Hạng Yên đành làm tướng của triều đình lưu
vong, khởi binh phản Tần ở Hoài Nam, kết quả binh bại thân vong. Hạng Vũ ra đời
ở Hạ Tương, tức huyện Túc Thiên tỉnh Giang Tô ngày nay. Sau này theo chú là
Hạng Lương trốn đến Ngô Trung, tức huyện Ngô, Giang Tô. Vì vậy Hạng Vũ là người
Giang Tô, coi như cùng quê với Lưu Bang, người huyện Bái.

[Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com – gác nhỏ cho người yêu
sách.]

Nhớ lại thuở nhỏ Hạng Vũ đã sống cuộc sống của quý tộc sa sút. Có điều, sa sút nhưng vẫn là quý tộc. Vì
vậy Hạng Vũ là người có tên có tự rõ ràng: Tên Tịch, tự Vũ và Tử Vũ. Lệ thường
của con cái quý tộc thời đó là vậy. Sau khi sinh được ba tháng đứa trẻ được
chọn ngày lành để cắt tóc, cha đặt tên cho, con trai năm hai mươi tuổi, con gái
năm mười lăm tuổi, được làm lễ đội mũ hoặc cài trâm, quan khách đặt tên. Có tên
là được sinh, có tự là đã thành người, người có quyền lợi, có nghĩa vụ. Con em
quý tộc mới được như vậy, con em bình dân thì không(1). Ngoài ra, người có tự còn được tôn trọng, con em bình dân luôn bị xem
thường. Hạng Vũ có tên có tự, mới là con quý tộc, được làm lễ đội mũ, được xã
hội xem trọng.

(1)
Xin xem thêm chương thứ hai trong “Chuyện phiếm về người Trung Quốc” (Tác giả).

Tổ tiên Lưu Bang là ông già họ Lưu, chẳng hiển hách gì. Lưu, tuy cũng là
nước cổ có họ là Cơ (nay là xã Yển Sư huyện Lạc Dương, tỉnh Hà Nam), người dựng
nước là Lưu Khang công, con của Chu Khuông vương, nhưng đến thời của Chu Trinh
Định vương thì hết phong, lập nước được hơn trăm năm, họ với Lưu Bang nối tám
cây sào cũng chẳng tới. Cha mẹ Lưu Bang vừa không phải trọng thần của triều
đình, cũng chẳng hiển đạt gì trong xã hội, nhiều khả năng tên cũng chẳng có.
Sách Sử ký nói, Lưu Bang có “cha là Thái công, mẹ là Lưu Ôn”, dịch thành tiếng
Hán hiện đại là ông Lưu, bà Lưu. Ông Lưu, bà Lưu đương nhiên không phải là tên,
rõ ràng họ là “loại vô danh”.

Bản thân Lưu Bang vốn cũng không có tên. Sử sách nói Lưu Bang: “Lúc nhỏ gọi
là Quý, lên ngôi mới đổi tên Bang”, rõ ràng “Bang” là tên thêm sau khi đã nổi
tiếng. Còn như “Quý”, không phải là tự mà là chỉ thứ tự. Người Trung Quốc xưa
nói theo thứ tự: bá, trọng, thúc, quý. Bá là thằng cả, trọng là thằng hai, thúc
là thằng ba, quý là thằng tư. Anh cả của Lưu Bang là Bá, anh hai là Trọng, không
nghe nói có Lưu Thúc là anh ba, vậy “Lưu Quý” có thể là anh ba anh tư gì đó, có
phần “không ra thể thống”. Hoặc gọi thẳng là “Lưu Tiểu”, giống như “gọi đứa trẻ
chăn trâu là Vương Nhị Tiểu” vậy!

Việc sinh Lưu Bang cũng rất đáng nghi. Sử ký nói, một lần, bà Lưu nằm ngủ
bên hồ, trong mơ có gặp một vị thần. Khi đó sấm vang chớp rền, trời đất mù mịt.
Ông Lưu chạy đến xem, thấy có rồng đang cuộn trên người vợ. Về tới nhà thì bà
Lưu mang thai và sinh ra Lưu Bang. Đây chính là thủ đoạn bọn đế vương lập nước
thường dùng, mục đích để chứng minh, mệnh của mình liên can tới trời, thần trao
cho quyền làm vua”, xứng là “chân mệnh thiên tử”. Từ xưa đã có người chơi trò
này, như Hữu Tể nuốt cây bo bo để sinh ra Hạ Vũ. Giản Địch nuốt trứng én sinh
ra Thương Khiết, Khương Nguyên giẫm vào vết chân người khổng lồ sinh ra Chu
Tắc... đều là dựng chuyện “dã hợp”, thần thánh hóa tổ tiên ba đời nhà Hạ,
Thương, Chu, tôi đã vạch rõ điều này trong cuốn Đàn ông và đàn bà Trung Quốc.
Nếu có hứng thú, các vị hãy tìm đọc cuốn đó.

Thánh hiền xưa đã làm điều đó, đời sau hẳn sẽ chẳng ngại làm theo, dù sao
cũng chẳng có kẻ nào ngờ nghệch đến mức nghiên cứu để chứng thực. Nhưng không
bốc phét thì vẫn hơn. Một khi đã bốc phét thì sẽ lộ dấu vết, bởi thế mới có
người ngờ rằng, thằng nhóc nhà bà Lưu hẳn là đứa “con hoang”. Sử ký nói tướng
mạo Lưu Bang thật kỳ lạ: “sống mũi cao, dáng mặt rồng”, để chứng minh Lưu Bang
là “rồng thực”, nhưng ngược lại, thấy rõ Lưu Bang khác hẳn với cha, anh! Giống
ai vậy? Chỉ có ông Lưu là biết rõ điều này. Vậy ông Lưu đã thấy những gì năm
đó, dám khẳng định đó không phải là “rồng”. Sử liệu chứng minh, ông Lưu chẳng
thích thú chút nào với chú nhóc lai lịch không rõ ràng này và cũng chưa bao giờ
coi đó là “giống rồng”, thường mắng nó là đồ “vô lại”. Nếu như ông Lưu đã thấy
rồng thật, thì e là đã không có thái độ đó.

Đã không coi Lưu Bang là con của mình nên ông Lưu không mấy quan tâm, giáo
dục Lưu Bang không hết trách nhiệm. Ngoài việc mắng Lưu Bang là đồ “vô lại”,
không chăm chỉ bằng Lưu Nhị ra, những việc khác, ông Lưu không quan tâm. Thế là
từ bé, Lưu Bang đã tham ăn biếng làm, du thủ du thực, phung phí tiền bạc của cả
nhà, ngay như Thái sử đương triều, khi nói tới Lưu Bang đã phải thừa nhận, đây
là kẻ “thích rượu thích gái”, “không lao động sản xuất như mọi người”. Suốt
ngày lêu lổng khắp nơi, hoặc cùng lũ bạn gái trai chẳng ra gì, ăn ăn uống uống,
chòng ghẹo tình tứ, hệt một lũ lưu manh côn đồ. Về sau, Lưu Bang cũng kiếm được
chân công sai “đình trưởng Tứ Thuỷ”. Nhà Tần có chế độ, mười dặm là đình, mười
đình là hương, đình trưởng cao hơn thôn trưởng nửa bậc, thấp hơn hương trưởng
nửa bậc, tương đương một cán bộ cơ sở, một đại đội trưởng sản xuất công xã, hơn
nữa mới chỉ được “thử việc”. Chức vụ này không phải là quan, là kẻ giúp việc,
gọi là “lại” thậm chí là “tiểu lại”, quyền ít việc nhiều, lợi ít phiền nhiều.
Con em nhà có sĩ diện đều không làm, con em nhà nông thực thà chất phác cũng
không muốn làm, thích hợp nhất với nó là Lưu Bang, một kẻ lưu manh côn đồ. Sau
khi làm đình trưởng, ngoài việc phát minh ra chiếc mũ làm bằng cật tre, đội vào
lấy oai, Lưu Bang chẳng có dáng vẻ gì của quan lại, vẫn với bộ mặt nhăn nhở
cười cợt, rượu chè trai gái, vẫn cứ uống rượu ghi nợ ở các quán cơm. Bà Lưu
luôn đau lòng về thằng con của mình, cứ phải đi trả nợ, trả gấp bội tiền rượu cho
con. Từ đây, trong làng ngoài xóm, Lưu Bang được coi là “vui vẻ độ lượng”, được
một số người quý mến.

Vì vậy, ít nhiều Lưu Bang cũng có điểm tương đồng với Hạng Vũ. Lúc nhỏ,
Hạng Vũ và Lưu Bang đều không phải là những đứa trẻ ngoan biết vâng lời, giữ
phép tắc. Điều khác biệt là ở chỗ: Hạng Vũ con nhà quyền quý, Lưu Bang là kẻ
côn đồ. Sử ký nói, Hạng Vũ “học tập không thành, đi học kiếm cũng không thành”.
Hạng Lương là chú Hạng Vũ, lấy làm phiền muộn, bởi quý tộc rất coi trọng việc
giáo dục con cái. Hạng Vũ nói, học chữ là để ghi chép tên tuổi người khác, có
tác dụng gì đâu? Học kiếm cũng chỉ thắng được một vài người, không đáng phải
học. Muốn học, phải học thứ chiến thắng được ngàn vạn người. Hạng Lương nghe
thấy có lý, liền cho Hạng Vũ học binh pháp. Hạng Vũ mừng rỡ vô cùng, có điều
bởi không chăm chỉ, không đào sâu suy nghĩ. Thế là, ngay cả binh pháp, Hạng Vũ
cũng chưa học xong.

Mọi chuyện trên đời đều như vậy cả. Một người sau khi trở thành nhân vật
tiếng tăm, thì ưu điểm thuở nhỏ của họ, đương nhiên vẫn là ưu điểm, nhưng
khuyết điểm của họ thường cũng biến thành ưu điểm. Lưu Bang, Hạng Vũ đều không
thích học hành, nhược điểm này tự nhiên biến thành biểu hiện của người “ôm ấp
chí lớn”. Đúng vậy, học thuật, học vấn chỉ là thuật, không phải là đường. Đường
không phải do học mà có. Người có học vấn nhiều đến mấy cũng chỉ có thể làm
quan. Người có đường, tuy học vấn ít, cũng có thể làm vua thiên hạ. Nói ngay
như Trần Thắng, học vấn có được là bao? Nhưng lại có “chí của chim hồng chim
hộc”, nên mới có lời kêu gọi “vương, hầu, tướng quân, thừa tướng, há phải có
dòng dõi mới làm nên sao?”. Trong lịch sử đã có học giả nào nói được câu đó?
Chưa. Kẻ có học vấn đều không dám tạo phản. Kẻ dám tạo phản, nếu có chút chữ
nghĩa, thì cùng lắm cũng chỉ là “anh tú tài thi trượt”. “Tro bụi chưa tan Sơn
Đông đã loạn, Lưu, Hạng vốn ít học hành”. Câu nói này rất hay.

Vì vậy, Lưu Bang, Hạng Vũ tuy là người ít học, nhưng lại có ý nghĩ như Trần
Thắng. Lúc Tần Thuỷ Hoàng du ngoạn ở núi Cối Kê, Hạng Lương cho Hạng Vũ đi xem,
ai ngờ Hạng Vũ vừa nhìn đã thốt thành lời: “Có thể cướp ngôi và thay thế hắn!”.
Hạng Lương sợ quá, vội đưa tay bịt miệng Hạng Vũ. Một lần Lưu Bang đi công cán
ngang qua Hàm Dương, nhìn thấy cảnh bài trí của Tần Thuỷ Hoàng, từng đã thở dài
nói: “Ôi! Đại trượng phu phải nên như thế chứ! “Lúc này nghĩ lại mới thấy, bấy
giờ tư tưởng những người thực “thoáng” mới có thể thốt ra những lời đáng bị
chặt đầu đó. Đương nhiên, Hạng Vũ đã thốt thành lời, Lưu Bang thì suy nghĩ và
láng báng trong miệng (qua đây, thấy rõ Hạng Vũ anh hùng hơn Lưu Bang). Dám
nghĩ như vậy, thực chẳng dễ dàng gì. Có thể là trước khi xây dựng thể chế
chuyên chính của tập đoàn trung ương, người người đã suy nghĩ nhiều về điều đó.
Hơn nữa, đã trải qua nhiều năm kẻ chiếm người đoạt, chính Tần Thuỷ Hoàng cũng
đã cướp giang sơn người khác. Vậy, lẽ nào hòa thượng sờ được, tôi lại không sờ
được? Doanh Chính, ngài có được ngôi vị hoàng đế, lẽ nào Lưu Bang, Hạng Vũ,
chúng tôi lại không được có? Rõ ràng, vấn đề là có làm được hay không, còn chỉ
nghĩ muốn làm hoàng đế thì không thành vấn đề. Vì vậy sau này khi Lưu Bang đã
lên làm hoàng đế, Khoái Thông mới nói: “Lúc đó số người mài dao muốn lên ngôi
như bệ hạ nhiều vô kể! Lưu Bang nghe xong rồi cười, biết Khoái Thông nói đúng
sự thực”.

Có điều, nếu cân nhắc kỹ những lời nói của Lưu Bang, Hạng Vũ, Trần Thắng,
sẽ thấy có những ý khác nhau. “Vương, hầu, tướng quân, thừa tướng, há phải có
dòng dõi mới làm nên sao”, đầy tính khiêu chiến, mà đối tượng khiêu chiến không
chỉ có vương triều Tần, còn có số mệnh. Câu nói mang tinh thần không an phận,
không tin ở ma quỷ, vì thế được đánh giá cao nhất trong ba thuyết. Ngày nay đọc
đến câu “Tráng sĩ không chết thì thôi, có chết thì cũng tiếng tăm lừng lẫy
chứ”, trong lòng chúng ta vẫn thấy rất kính trọng. Một người mượn lời Giả Nghị
nói: “Con nhà khố rách áo ôm, là dân manh lệ, đồ vong gia thất thố” có thể nói
ra những lời thực phi phàm, đáng để mọi người phải kính phục. Trần Thắng thất
bại vì quá thiếu văn hoá, đứng trước một thắng lợi quá đột ngột, hoàn toàn
không biết phải làm gì, tự cho là vận mệnh may mắn, mà không hiểu rằng, để có
được một thắng lợi cuối cùng thực sự không phải dễ. Kết quả là, làm vua được
sáu tháng thì đầu lìa khỏi cổ, thất bại thảm hại, đúng là “hưng vượng rất
nhanh, suy tàn rất chóng”. Nhưng người ấy trước số phận bất công, đã vùng lên
quyết đấu, thực giống như một ngôi sao băng lướt qua bầu trời sáng loáng. Tuy
là ngắn ngủi nhưng thật huy hoàng.

Lời Hạng Vũ thực khí khái, anh hùng, nói dứt khoát rõ ràng: “Có thể cướp
ngôi và thay thế hắn!”, khẩu khí giống như đang lấy một vật gì ở trong túi.
Trong con mắt Hạng Vũ “Thuỷ Hoàng đế” thống nhất toàn Trung Quốc kia chẳng có
gì là ghê gớm, chỉ đáng được gọi là “hắn”, có thể thay bất cứ lúc nào. Thực tự
tin và cũng thực tự đại. Tự tin khiến Hạng Vũ thành công, tự đại làm Hạng Vũ
thất bại. Có thể thấy rõ, lúc nói câu đó, Hạng Vũ chẳng suy nghĩ gì, không tính
đến hậu quả của nó! “Hắn” kia, sao có thể thay ngay được? Ngộ nhỡ thay không
được thì làm sao? Có lẽ chưa nghĩ đến điều đó. Hạng Vũ chỉ nghĩ là thay thế hắn
có thể làm được. Đây là điểm đáng yêu của Hạng Vũ và cũng là điều đáng buồn cho
Hạng Vũ.

Lời của Lưu Bang không khí thế bằng, chỉ như một kẻ lưu manh nhổ một bãi
nước bọt vào lũ quyền quý, giầu sang: “Ôi! Đại trượng phu phải như thế chứ”,
nói khác đi là, người tài ba muốn sống là phải sống như vậy, nhưng không được
như vậy thì làm sao? Có lẽ cũng chỉ thế mà thôi. Như vậy là không anh hùng một
chút nào, nhưng lại rất thực tế, Lưu Bang từ nhỏ đến lớn, từ yếu thành mạnh,
dần dần bước lên ngôi báu của hoàng đế. Về góc độ thẩm mỹ, đương nhiên chúng ta
tán thưởng Trần Thắng và Hạng Vũ, nhưng về thực tế, chúng ta không thể không
thừa nhận Lưu Bang mới là kẻ thành công.

Đúng vậy, Lưu Bang theo chủ nghĩa thực dụng, Hạng Vũ lại là người theo cảm
tính.

Ở phần sau chúng ta sẽ nói tỉ mỉ về chủ nghĩa thực dụng của Lưu Bang, nhưng
hiện giờ thực ra không quá khó để nhận ra điều đó. Khi Lưu Bang nói câu: “Đại
trượng phu phải như thế chứ”, mục đích đã rất rõ ràng, phải sống cuộc sống như
Tần Thủy Hoàng, cho ra con người. Như thế nào là ra con người, cũng chưa thật
rõ. Thực ra, cho đến lúc đã là hoàng đế, Lưu Bang vẫn chưa rõ hoàng đế là thế
nào, phải sống ra sao. Thừa tướng Tiêu Hà cho xây cung Vị Ương, lập cửa Đông,
cửa Bắc, xây kho vũ khí, kho thóc... Lưu Bang thấy vậy đã nổi nóng, nói: “Vì
chiến tranh thiên hạ khổ sở nhiều năm, việc thành bại còn chưa rõ, sao lại xây
dựng cung thất quá mức như vậy?”. Tận khi Tiêu Hà giải thích: “Thiên tử lấy bốn
biển làm nhà, không huy hoàng tráng lệ thì lấy đâu ra uy vọng”, Lưu Bang nghe
xong mới yên. Lại như ngày đầu mới được thiên hạ, cùng quần thần yến ẩm, Lưu
Bang vẫn như trong quán rượu huyện Bái ngày nào. Mọi người luôn ầm ĩ, lúc say
thì la hét đấm đá, chẳng ra thể thống gì cả. Tận khi Thúc Tôn Thông định ra lễ
nghi, mỗi lần trong cung mở tiệc, từ chư hầu, vương trở xuống, người người đều
phải nghiêm chỉnh, giữ lễ; Lưu Bang không giấu nổi vui mừng, mới nói: “Mẹ kiếp,
đến hôm nay ông đây mới hiểu làm hoàng đế sướng thật! Rõ ràng là trước đây chưa
hiểu gì”. Lời Lưu Bang trước đây, phải sống được như Tần Thuỷ Hoàng, chỉ là nói
muốn sống thật xa hoa, giống như A.Q, lúc ngủ trong miếu Thổ Cốc đã “mơ thấy
cách mạng thành công”, đều là sự thèm muốn được vinh hoa phú quý. Chỗ khác nhau
là, cảnh tượng lớn nhất mà A. Q nhìn thấy chẳng qua là cảnh bày vẽ phô trương
của cụ Triệu và ông Tiền, còn Lưu Bang đã nhìn thấy nghi trượng của hoàng đế,
vì vậy mục tiêu của Lưu Bang cao hơn một chút.

Cái mà Hạng Vũ xem trọng lại không phải là vinh hoa phú quý, mà là sự
nghiệp anh hùng. Có nghĩa là, Hạng Vũ không xem trọng kết quả (như thế) mà xem
trọng quá trình (thay). Hạng Vũ không muốn sau thay sẽ thế nào, cũng không nghĩ
xem sau khi thay sẽ thế nào, mà chỉ muốn thay. Đúng vậy, với một anh hùng chân
chính thì thường chú ý tới việc chiến đấu hơn là thắng lợi. “Mã tư biên thảo
quyền mao động, điêu phán thanh thiên thùy nhãn khai” (Dịch: Nhơ cơ biên ải,
ngựa dựng lông. Ngẩng nhìn trời xanh, mắt mở trừng)(2). Không một người anh hùng nào lại muốn bỏ phí cuộc đời trong sự nhàn rỗi.
Đã có việc cần làm là làm ngay! Không kể đó là việc gì, cũng không hề nghĩ làm
xong việc đó sẽ thế nào!

(2)
Trích trong bài “Thủy văn thu phong” của Lưu Vũ Tích (Đường) tượng trưng cho
tinh thần phấn chấn, muốn làm những điều mình mong ước (BTV).

Đó là cách làm và lối suy nghĩ của những người hành động theo cảm tính.

Chuyện sau đây thể hiện rất rõ nhất tính cách này của Hạng Vũ. Trong thời
khắc cuối cùng của sinh tử tồn vong, Hạng Vũ nhớ đến cái gì, nghĩ đến một mỹ
nhân họ Ngu, nhớ đến con tuấn mã tên Chuy. Mọi người đều thuộc lầu câu chuyện
Bá Vương biệt Cơ rất hay: Đêm đã về khuya, bốn mặt là bài ca nước Sở, trong
trướng của nhà vua thắp lên một cây nến rất to, bên ngoài là những bó đuốc sáng
loáng, vị anh hùng của chúng ta uống cạn chén rượu, rồi đứng dậy cất lên lời ca
bi thảm: “Sức nhổ núi chừ, khí trùm đời. Thời vận không may chừ, Chuy không đi!
Ngựa không đi chừ, làm sao được. Ngu Cơ ơi Ngu Cơ, biết làm sao?”. Câu cuối
dịch ra là thế này: Tiểu Ngu ơi Tiểu Ngu, ta biết làm gì với nàng đây? Một vị
thống soái ba quân trải qua trăm trận, một vị anh hùng cái thế, uy trấn thiên
hạ, điều đau lòng nhất lúc này không phải công lao, sự thành bại của mình, mà
là tuấn mã và người đẹp yêu quý, chẳng có cách nào sắp xếp được. Hạng Vũ không
hề nghĩ làm gì để chuyển bại thành thắng, chuyển nguy thành an, không hề nghĩ
phải làm gì để thoát vòng vây, để nổi dậy lần nữa. Ngay từ đầu Hạng Vũ không để
ý tới thắng lợi cuối cùng!

Báo cáo nội dung xấu