Luận Anh Hùng - Phần II - Chương 06 - phần 2
Hình tượng Gia Cát Lượng bị méo mó ghê gớm. Nói chung, mọi người luôn cảm thấy Gia Cát Lượng sống rất thoải mái. Dù gặp bất kỳ chuyện gì thì hầu như Gia Cát Lượng đều biết trước kết quả. Có nhiều mưu kế hay, thậm chí còn viết thành lời, cho vào túi kín, khi gặp việc người chấp hành chỉ cần giở ra xem. Bản thân không chỉ cần ra trận giết giặc, cũng không phải lao tâm khổ tứ, chỉ cần quấn khăn lên tóc, phe phẩy chiếc quạt lông, pha bình trà hoa cúc, bầy bàn cờ vây, rồi “nói nói cười cười mà giặc mạnh đã tan thành mây khói”, thoải mái biết chừng nào.
Kỳ thực, Gia Cát Lượng cũng chịu rất nhiều áp lực tâm lý. Lưu Bị và Gia Cát Lượng, quân thần gặp nhau luôn là tấm gương để đời, được xem là vua nhân tôi trung, vua sáng tôi hiền. Nhất là câu chuyện “ba lần đến lều cỏ” nổi tiếng, đã hàng ngàn năm nay khiến cho những văn nhân rắp ranh ra làm quan lại muốn ra vẻ khệnh khạng kia, thèm muốn đến muốn chết. Thực ra thì giữa hai người luôn có nghi kỵ và đề phòng. Quan hệ vua tôi không phải là quan hệ bè bạn, người được tín nhiệm nhất cũng là người cần nghi ngờ nhất. Vì hai bên quan hệ lâu dài, đi lại thần tình, thấu hiểu ngọn ngành, người kia có bao nhiêu cân lạng, lòng dạ người này đã tính toán đủ. Đó là điều không thể đề phòng. Hãy nhớ lại câu chuyện gửi con ở thành Bạch Đế, bề ngoài như không có đề phòng gì cả, vô cùng tín nhiệm, kỳ thực đó là nghi kỵ, đề phòng rất kín kẽ. Lưu Bị nói với Gia Cát Lượng, ta giao phó đứa trẻ này cho ngươi. Nếu thấy nó còn được thì giúp nó, không được thì phế bỏ, lấy mà thay. Đó là nói vui! Lưu Thiện vô năng! Rõ ràng là vậy, sao còn phải xét phải dùng? Chính vì biết rõ, Gia Cát Lượng tài “gấp mười lần Tào Phi”, sợ con mình không được trọng dụng, nên không yên tâm, nên đã cố ý nói thật rõ, nói bằng hết. Gia Cát Lượng là người thông minh, đã tỏ thái độ: “Hạ thần dám đem hết sức phò tá, tỏ hết dạ trung trinh cho đến chết”, quyết một lòng giúp A Đẩu, tuổi bằng cậu học sinh cấp ba, mà trí tuệ bằng cậu học sinh cấp hai.
Trần Thọ nói, Lưu Bị gửi con “lòng dạ ngay thẳng, quân thần thành thực chí công, nếp sống của muôn đời”, nói như vậy nếu không phải nịnh bợ thì cũng là mù tịt. Đúng như lời Tôn Thịnh, nếu gửi con cho người tốt, việc gì phải nói mấy câu vô bổ đó, nếu gửi con cho người xấu, hóa ra đã chỉ đường cho cho họ làm phản. “May sao Lưu Thiện lại yếu đuối ngu tối, không hay nghi ngờ, Gia Cát thì uy lược, đủ để kiểm soát tình hình, những kẻ khác ý, không làm được gì”. Nói như vậy chỉ đúng được một nửa. Lưu Bị gửi con thành công vì Gia Cát Lượng đã nhận lời và ông là người biết giữ lời, cẩn thận, tỉ mỉ, nên mới không xảy ra chuyện. Còn như nói Lưu Thiện không nghi kỵ, thù hằn là không đúng. Sau khi Gia Cát Lượng qua đời, dân chúng các nơi trong Thục đều tưởng nhớ, muốn dựng miếu thờ, Lưu Thiện không phê chuẩn, nói là “chưa hề có tiền lệ”. Rõ ràng trong thâm tâm, Lưu Thiện có thù sâu oán nặng với Gia Cát Lượng. Sự thực thì một hoàng đế dễ dàng ghen tị với một đại thần năng lực hơn mình, hơn nữa với một người đầu óc không thông tuệ, thì ghen tị, thù hận càng sâu đậm. Vì vậy, tất cả những kẻ kém cỏi đều giống nhau, chỉ cần có quyền lực, liền cảm thấy mình là nhất, rồi huyênh hoang. Một khi thấy cấp dưới mạnh hơn mình, liền tự hổ thẹn thành giận dữ, quyết tìm mọi cách để loại bỏ. Lưu Thiện cũng như vậy, chỉ vì có tâm giặc không có gan giặc, có gan giặc lại thiếu sức giặc, nên đành phải làm một chút gì đó sau lúc Gia Cát đã qua đời, để uy phong một chút, tỏ ra mình cũng là một nhân vật.
Cho dù Lưu Thiện thực bụng coi Gia Cát Lượng “như cha mình” thì cũng còn ý nghĩa gì. Thực ra thằng cha này quá ngốc. Không chỉ là ngốc mà còn vô lương tâm. Sau khi là tù binh, Lưu Thiện được đưa về Lạc Dương, được phong An Lạc huyện hầu. Một hôm, Tư Mã Chiêu mời Lưu Thiện ăn cơm, trong bữa ăn có ý cho biểu diễn bài ca nước Thục. Các cựu thần nước Thục ngồi nghe đều rơi lệ, chỉ có Lưu Thiện là không, chỉ lo ăn uống, “cười vui như không”. Tư Mã Chiêu ngậm ngùi nói, một người vô tình tới mức này sao (con người vô tình tới mức này)! Một hôm khác Tư Mã Chiêu hỏi Lưu Thiện: “Có nhớ nước Thục lắm không?”. Lưu Thiện trả lời luôn: “Ở đây vui lắm, không nhớ nước Thục”. Cựu thần Khích Chính nghe vậy đã nói với Lưu Thiện, lần sau có người hỏi thì nói là phần mộ tổ tiên đang ở xa tận Lũng, Thục, không ngày nào là không tưởng nhớ, sau đó thì nhắm mắt lại. Sau này Tư Mã Chiêu lại hỏi, Lưu Thiện đã nói và làm đúng như vậy. Tư Mã Chiêu nói, nghe như là lời của Khích Chính vậy! Lập tức Lưu Thiện mở mắt, vừa sợ vừa vui nói: Đoán đúng rồi, chính là ông ấy!”. Mọi người chung quanh đều không nhịn được cười. Đương nhiên, cũng có thể là để giữ mạng, Lưu Thiện đã vờ ngốc. Nhưng dù là vờ ngốc, Lưu Thiện cũng không có lương tâm. Trên thực tế, ngoài câu nói “ở đây vui lắm, không nhớ Thục”, Lưu Thiện không có cống hiến gì cho lịch sử Trung Quốc. Liệu có ý nghĩa gì khi phò tá loại người như vậy?
Vì thế, Gia Cát Lượng rất mệt. Vừa muốn lấy thiên hạ, vừa phải dỗ trẻ con, vừa sợ mấy ông già khác ý, vừa sợ nhỏ không vui, có thể không mệt sao? Trong thực tế, Gia Cát Lượng không giống quân sư mà giống quản gia. Từ việc lớn đến việc bé, Gia Cát Lượng đều phải để mắt tới, tự xem tự làm, tức là “tự mình làm”. Do tình thế ép buộc, do tính cẩn thận nên Gia Cát Lượng phải làm vậy. Nếu không làm như vậy, thì làm sao có thể nắm quyền lớn mà dân không nghi? Gia Cát Lượng rất sợ phạm phải sai lầm!
Lao động mệt mỏi đã tổn hại sức lực của Gia Cát Lượng, áp lực nặng nề khiến Gia Cát Lượng mất ăn mất ngủ(5). Năm 234 Công nguyên, Gia Cát Lượng ngã bệnh và qua đời ở Ngũ Trượng Nguyên, trên đường Bắc phạt, hưởng thọ năm mươi tư tuổi, ít hơn Tào Tháo mười hai năm. Gia Cát Lượng vốn người rất khỏe. Trần Thọ nói Gia Cát Lượng “thân cao tám thước, dung mạo rất đẹp, người người khen ngợi”, là một trượng phu anh tuấn. Nếu không vì lao động quá sức, tâm lực hao mòn, sao có thể qua đời vào những năm tháng đầy sức sống như vậy?
Gia Cát Lượng đã thực hiện xong lời hứa: “cúc cung tận tuỵ cho đến lúc chết”. Thực tình thì Gia Cát Lượng vì mệt mà chết(6).
(5) Gia Cát Lượng từng dâng biểu lên Lưu Thiện nói: “Từ ngày nhận mệnh, ngủ không yên giấc, ăn không ngon miệng?”.
(6) Thục - Nguỵ giao chiến, đối đầu ở Ngũ Trượng Nguyên. Thục sứ đến doanh trại quân Nguỵ, Tư Mã Ý không hỏi việc quan, chỉ hỏi việc ăn uống nghỉ ngơi. Khi nghe nói Gia Cát Lượng tinh mơ đã dậy, tận khuya mới đi nằm, từ những việc như phạt quân hai mươi gậy cũng hỏi tới, liền đoán định luôn: “Lượng rồi sẽ chết!” (Tác giả).
Làm hoàng đế đương nhiên là tốt, có điều phải xem xem làm như thế nào, và muốn làm nhưng không làm nổi. Nếu làm như Lưu Hiệp (Hiến đế) thì thà đừng làm, nếu giống như Viên Thuật thì ngang như tìm đến cái chết.
Con người Viên Thiệu tỏ ra rất ngang bướng. Viên Thuật xuất thân thế tộc, môn đệ cao quý. Cao tổ phụ Viên An là Tư đồ thời Chương đế. Thúc thái tổ phụ Viên Thưởng là Tư không; Tổ phụ Viên Thang từng là Tư không, Tư đồ, Thái úy; cha là Viên Phùng làm Tư không; chú Viên Quỳ là Thái phó. Quan chế thời Đông Hán, Thái úy, Tư đồ, Tư không gọi là “tam công”, coi sóc mọi việc, địa vị cùng quyền hạn cao nhất trong trăm quan. Bốn đời tổ tiên nhà Viên Thuật, từ các cụ đến cha, đều có người nhận chức tam công, nên gọi là “tứ thế tam công”, là gia tộc hiển hách đầy quyền uy nơi chốn quan trường.
Viên Thuật huyết thống cao quý như vậy, nhưng tính tình lại khùng khùng điên điên, thường không coi ai ra gì, kể cả người anh là Viên Thiệu. Viên Thiệu, Viên Thuật đều là con của Viên Phùng. Viên Thiệu tuy lớn tuổi nhưng là con vợ bé, nên gọi là “thứ xuất”. Viên Thuật là em, nhưng là “đích xuất”, vì vậy tự cho mình là cao nhất. Thời kỳ quân phiệt cát cứ, anh em Viên Thiệu, Viên Thuật nắm binh quyền tự lấy làm oai, nhưng thực lực của Viên Thiệu chừng như mạnh hơn, uy vọng tương đối cao, nhân duyên cũng tốt hơn, vì vậy đa phần chư hầu hào kiệt đều dựa vào Viên Thiệu. Viên Thuật từ hổ thẹn thành giận dữ, lớn tiếng mắng bọn chư hầu không biết thế nào là phải trái, là đích thứ, không theo về người có huyết thống cao quý, lại theo kẻ nô tài nhà họ Viên! Còn viết thư cho Công Tôn Toản nói, Viên Thiệu là con của a hoàn, không phải giống nhà họ Viên. Điều đó không chỉ làm Viên Thiệu tức giận, còn tạo nên ảnh hưởng rất xấu, đó chính là nguyên nhân khiến sau này ViênThiệu thất bại.
Chỉ là kẻ ngông cuồng, tự đại, đầu óc đơn giản đến như vậy mà ngày nào cũng mơ làm hoàng đế. Trong tay Tôn Kiên có ngọc tỉ truyền quốc. Năm 189, thái giám Trương Nhượng cùng một số kẻ khác làm loạn, để rồi sau này ngọc tỉ rơi vào tay Tôn Kiên. Sau khi biết tin, Viên Thuật cho bắt phu nhân Tôn Kiên làm con tin và đoạt lấy. Có bảo bối lại hiểu nhầm mấy câu vè trong dân gian, Viên Thuật cảm thấy, làm hoàng đế Trung Quốc ngoài mình ra không phải ai khác. Mùa xuân năm 197, chờ đợi đã mỏi mòn, Viên Thuật đành chính thức xưng đế. Lúc này Tào Tháo đã nắm Hiến đế trong tay, dời đô về Hứa Xương, có thể “ép thiên tử lệnh chư hầu”, đâu có dễ để Viên Thuật hung hăng bắng nhắng? Tất nhiên, Tào Tháo cần phải loại bỏ thằng hề này. Và Viên Thuật đâu phải đối thủ của Tào Tháo? Kết quả là bại rồi lại bại. Năm 199, Viên Thuật binh bại như núi lở, chúng phản thân ly, cuối cùng tự thấy mình không thể là hoàng đế liền quyết định chuyển ngọc tỉ truyền quốc sang cho Viên Thiệu. Vì đây là bảo bối, Viên Thuật không nỡ vứt, cũng không thể tùy tiện đem cho người khác, chuyển sang cho anh là hợp lý (lúc này đã nhận Viên Thiệu là anh em), gì thì gì vẫn là người họ Viên. Nhưng ngay cả ý nghĩ đó, Viên Thuật cũng không được như ý, vì Tào Tháo đã phái Lưu Bị chờ sẵn ở Hạ Bì (thành phố Bì Châu, tỉnh Giang Tô ngày nay) chờ Viên Thuật đến nộp mạng. Không còn cách nào khác, Viên Thuật đành phải quay về Hoài Nam. Lúc chạy đến Giang Đình, cách Thọ Xuân (nay là huyện Thọ, An Huy) tám mươi dặm, Viên Thuật ngã bệnh, ô hô ai tai, làm hoàng đế được ba năm rưỡi, nhưng là giả, không ai công nhận.
Nghe nói Viên Thuật chết rất thảm. Lúc Viên Thuật chết, xung quanh không còn chút lương thực nào. Hỏi nhà bếp và được trả lời, còn ba mươi hộc lúa mạch (mười đấu là một hộc). Nhà bếp nấu và bưng lên, nhưng Viên Thuật không thể nuốt được. Bấy giờ là tháng sáu, trời nóng như thiêu như đốt, Viên Thuật muốn uống một chút mật ong nhưng cũng không có. Viên Thuật một mình trên giường, than thở hồi lâu, rồi đột nhiên kêu lên rất thảm. Viên Thuật ta, sao có thể rơi vào tình thế này? Gào xong thì ngã vật xuống đất, nôn ra hơn đấu máu và nhắm mắt.
Lẽ ra Viên Thuật đã phải nghĩ, mình sẽ có kết cục như thế này. Ngay từ khi hắn có ý xưng đế, rất nhiều người đã khuyên Viên Thuật không nên manh động làm bừa. Người thân hơn như Bái tướng Trần Khuê không tán thành, mấy thuộc hạ như DiêmTượng và anh em Trương Phạm, Trương Thừa cũng không tán thành, Tôn Sách từ Giang Đông có thư tới phản đối. Diêm Tượng nói, năm đó Chu Văn vương có tới “hai phần ba thiên hạ” mà vẫn thần phục nhà Ân. Nay ngài không bằng Chu Văn Vương, Hán đế cũng không phải Ân Trụ vương, sao có thể lấy mà thay? Trương Thừa đại diện cho Trương Phạm cũng nói, lấy được thiên hạ hay không là “ở đức không ở đông”. Nếu mọi người theo về, thiên hạ ủng hộ, thì có là một thất phu, cũng có thể thành vương đạo bá nghiệp. Đâu có phải, cứ là con nhà quyền quý mới làm được hoàng đế. Tiếc rằng, những lời trung khó nghe đó, Viên Thuật đều bỏ ngoài tai. Rõ ràng Viên Thuật đã tối mắt vì lợi.
Chỗ ngu xuẩn nhất của Viên Thuật, khi mọi người đều đang muốn làm hoàng đế, nhưng đều không dám lộ mặt thì Viên Thuật đã nôn nóng, vội giơ đầu chịu báng. Nên nhớ, một trong những truyền thống văn hóa Trung Quốc là “bắn con chim ra trước”, “thanh rui lộ ra ngoài dễ bị mục”. Nhất là trong đám quần hùng cát cứ, thế lực ngang nhau, đích ngắm của mọi người sẽ là đầu kẻ ra trước. Bọn Viên Thiệu hiểu được điều đó, nên dù có ham muốn đến mấy, họ cũng cố nhịn. Tào Tháo càng sáng suốt hơn. Tôn Quyền khuyên Tháo xưng đế, Tháo đã nhìn thấu mưu mô củaTôn Quyền, thằng nhóc này muốn đẩy ta lên chảo lửa đây! Viên Thuật đã không hiểu. Thuật cho rằng mình cứ xông lên sẽ chiếm được thế mạnh, liệu mọi người còn làm được gì! Vì vậy Thuật vội vã tuyên bố mình là hoàng đế. Nào ngờ xưng hiệu hoàng đế không phải thương hiệu, Thuật cũng không phải là Viagra, kết quả không chỉ tự ném mình vào lửa mà còn chơi với lửa nên đã bị lửa thiêu.
Trong thực tế, có làm được hoàng đế hay không, không liên quan gì tới việc giành trước giành sau, mà quan hệ tới thực lực và điều kiện lúc đó. Và dù điều kiện có thuận lợi, cũng phải làm cho khéo, phải vờ từ chối, nhường nhịn, sau ba lần như vậy, mới giả bộ thuận theo ý trời, lòng dân mà nhận, tuy trong bụng còn đầy ấm ức. Đương nhiên đó là điều giả dối. Nhưng người Trung Quốc luôn làm như vậy. Nếu không giả dối như vậy, e sẽ bị coi là đồ vô sỉ. Viên Thuật không có điều kiện và thực lực, lại không tuân theo trình tự các thao tác đã định, nên Thuật không chỉ là kẻ thù của Tháo và những người khác, mà còn là kẻ thù của nền văn hóa Trung Quốc. Thêm vào đó, Thuật “bản tính kiêu ngạo, cho mình là nhất”, “không lo phép tắc”, “xa xỉ vô độ”, ngang nhiên vơ vét, coi dân như cá thịt, nên càng mất lòng dân. Dưới sự cai trị của Thiệu, Giang Hoài rỗng không, nhân dân phải ăn thịt lẫn nhau. Còn Thuật, ngày ngày sơn hào hải vị, binh sĩ dưới quyền thì người người chết vì đói, chết vì lạnh. Một loại vô liêm sỉ như vậy không thất bại mới là lạ!