Luận Anh Hùng - Phần III - Chương 14 - phần 2
Bùi Viên chơi nước cờ hiểm. Bài tính như ý của Bùi Viên như sau: Mình binh gián không thành, nay có thể mượn quân của Từ Kính Nghiệp. Nay mượn quân của Từ Kính Nghiệp, buộc Võ Tắc Thiên phải hạ màn, sau lại dùng quân của Võ Tắc Thiên ép Từ Kính Nghiệp phải nhận sai. Chỉ cần thái hậu thoái vị, hoàng đế lên triều, hành động quân sự của Từ Kính Nghiệp sẽ là ra quân vô danh, nếu cứ kiên trì tiếp tục sẽ là mưu phản. Lúc đó không nói là “không đánh cũng tan”, và dù có đánh thì cũng dễ dàng hơn nhiều. Và bất luận là quân không đổ máu vẫn bình được phản loạn hay là không động can qua vẫn thu được triều chính. Bùi Viêm luôn là anh hùng cái thế, danh thần ngàn thu. Huống chi, cách nói của Bùi Viêm không phải là không có lý. Từ Kính Nghiệp không có bụng phản Đường thì ngược lại, y sẽ ra quân dưới cờ hiệu hồi phục Đường thất. Vậy, nếu hoàng đế trở lại triều chính, lẽ nào Từ Kính Nghiệp lại không cuốn cờ, yên trống, phủ phục xưng thần?
Rất tiếc, không dễ gì gạt được Võ Tắc Thiên. Bà không thay đổi sắc mặt còn cười thầm trong bụng: Trẻ tuổi lại dám giở ngón này với bà già! Không đánh cũng tan? Thiên hạ làm gì có phản tặc không đánh cũng tan! Đại quân ra trận, chắc gì đã bình được! Bùi Viêm ngươi đầu óc tỉnh táo, kinh nghiệm chính trị phong phú, lẽ nào không hiểu được điều đó? Lẽ nào không thấy được mục đích thực của Từ Kính Nghiệp là “cùng chỉ sơn hà, sẽ thưởng tước vị” sao? Dù ta có hoàn trả chính quyền cho hoàng đế, Từ Kính Nghiệp lại sẽ mượn cớ “hoàn chính là giả”... để tiếp tục hưng binh làm loạn. Xem ra, gọi là “không đánh cũng tan” là giả, muốn bà già này hạ màn mới là thật. Chẳng trách ngươi chẳng hứng thú gì với việc đánh lại phản tặc. Đối với loại ngươi này, Võ Tắc Thiên xưa nay chưa bao giờ nhẹ tay. Bùi Viêm và Từ Kính Nghiệp chẳng phải nam bắc cùng hô ứng, một bên hát một bên hò sao? Vậy được, dù ngươi là kẻ phụ họa, là kẻ nội ứng, hoặc giậu đổ bìm leo, đục nước béo cò, bà già nay cứ giết ngươi trước, tránh họa ở kề bên, có tránh cũng chẳng kịp. Cho nên, không một chút do dự, Võ Tắc Thiên đã đưa Bùi Viêm lên đoạn đầu đài. Sau khi bình định phản loạn Dương Châu, Võ Tắc Thiên cho chém Trình Vụ Đỉnh trước ba quân.
Án phản của Bùi Viêm đã chấn động cả triều dã. Không mấy người tin Bùi Viêm mưu phản là thật. Vì ai cũng hiểu Bùi Viêm bị bắt, theo lệ còn phải khám nhà. Nhưng thật lạ, đường đường là tướng phủ, mà trong nhà sạch trơn, không có một thứ gì! Trình Vụ Đỉnh lại càng oan uổng. Một đời là công thần, là danh tướng Đại Đường, Trình Vụ Đỉnh không những không mưu phản mà luôn anh dũng tác chiến bảo vệ biên cương, quân thù nghe tên đã khiếp vía, không dám xâm phạm. Sau khi Trình Vụ Đỉnh bị hại, tướng sĩ ngoài biên ải đau đớn, khóc lóc, bên Đột Quyết thì vui sướng nhảy múa, bày tiệc chúc mừng. Võ Tắc Thiên giết Trình Vụ Đỉnh, thực chất là một việc khiến người thân đau lòng, kẻ thù khoái trá!
Thực tế, Bùi Viêm và Trình Vụ Đỉnh có phản hay không, chỉ có hai người và Võ Tắc Thiên là hiểu rõ nhất. Tức là: Nếu Võ Tắc Thiên không là hoàng đế, hoàn trả chính quyền cho Duệ Tông thì họ sẽ không phản, nếu Võ Tắc Thiên ngang nhiên xưng đế, Bùi Viêm và Trình Vụ Đỉnh tất sẽ phản. Có điều không ai muốn nói ra điều đó. Vì vậy, lúc có người khuyên Bùi Viêm nhận tội xin tha, có thể sẽ được miễn tội chết, Bùi Viêm chỉ cười và lắc đầu, nói: Tể tướng hạ ngục không hoàn toàn có lý, nói nhiều chỉ bằng thừa. Cũng vậy, khi các đại thần trong triều đảm bảo là Bùi Viêm không phản, khi nói “Nếu Bùi Viêm mưu phản thì chắc thần cũng mưu phản”, Võ Tắc Thiên cũng chỉ cười, rồi lắc đầu nói: Trẫm biết Bùi Viêm tất phản, còn khanh và những người khác sẽ không phản. Rõ ràng hai bên đều hiểu nhưng không nói ra.
Chưa bàn tới án mưu phản của Bùi Viêm có chứng cứ xác thực không, chỉ biết Bùi Viêm chết là bi kịch. Đối với Bùi Viêm là bi kịch, đối với Võ Tắc Thiên cũng là bi kịch. Bởi vì họ đều không “sai”, nhưng đều phải trả giá, là một tổn thất thê thảm, nặng nề. Bùi Viêm đã phải chết vì chủ trương của mình, đó là: Chỉ có đàn ông mới được làm hoàng đế và hoàng đế phải là con cháu Lý Thế Dân. Từ lễ giáo phong kiến, từ những điều Bùi Viêm được học, như vậy là đúng, là “chính nghĩa”, là “chính đạo”. Võ Tắc Thiên chủ trương: Kẻ mạnh là vua, chỉ những người có năng lực mới có thể làm hoàng đế, bất kể đó là đàn ông hay đàn bà, là họ Lý hay họ Võ. Về một góc độ khác, điều đó không sai, cũng là “chính nghĩa”, là “chính đạo”. Kết quả Bùi Viêm và Võ Tắc Thiên có sự xung đột về nhận thức, thế nào là “chính nghĩa”, “chính đạo” và cả hai bên đều phải trả giá: Bùi Viêm mất mạng, Võ Tắc Thiên mất danh thần, danh tướng, ngang như tự chặt đi tay trái, tay phải của mình.
Có điều, từ tận sâu thẳm đáy lòng, Võ Tắc Thiên cảm thấy cần phải cảm ơn Bùi Viêm.
Nếu nói, cuộc phản loạn ngắn ngủi của Từ Kính Nghiệp đã tăng thêm lòng tin của Võ Tắc Thiên, trên đời này không có việc gì là không làm được, thì cuộc chính biến không thành của Bùi Viêm đã nhắc nhở Võ Tắc Thiên luôn phải cẩn thận, không bao giờ được sơ suất để mất Kinh Châu. Đường đi không bằng phẳng, tiền đồ không thuận buồm xuôi gió, nguy cơ bốn phía, hiểm họa khắp nơi. Từ Kính Nghiệp phản loạn rõ ràng là không được lòng dân (đúng như Trần Tử Ngang - người thời đó, nói: “Dương Châu phản nghịch trong vòng năm tuần, cả nước lại yên, mọi việc đâu vào đấy”), còn việc mình lâm triều xưng chế cũng bị rất nhiều người phản đối (cũng đúng như trọng thần Lưu Y Chi từng nói: “Thái hậu đã phế hôn lập minh, còn lâm triều xưng chế! Chi bằng trả chính để yên lòng thiên hạ”). Xem ra, sự tàn sát, tra xét nghiệt ngã trong Lý Đường tông thất không phải là điều đáng sợ, mà lễ pháp truyền thống mới là kẻ thù ương bướng khó có thể chiến thắng. Nghĩ lại năm đó, trong hoàn cảnh phi thường, Tào Tháo đã làm được việc phi thường, là “ép thiên tử để lệnh chư hầu”, nay Võ mỗ, trong lúc bình thường muốn làm việc phi thường, cần có hành động phi thường. Hiển nhiên, đối với Võ Tắc Thiên, con đường đi tới đế vị là con đường được lát bằng xương bằng máu. Chiếc mũ trên đầu nữ hoàng cũng được dệt bằng máu tươi. Bà không thể chờ để ai đó va vào họng súng. Bà cần tạo ra sự khủng bố giết người để răn đe, người người đâu vào đấy, người người im thin thít.
Lúc này, Võ Tắc Thiên hiểu rằng mình đang làm một cuộc cách mạng vĩ đại, long trời lở đất. Vào thời cổ Trung Quốc, “cách mạng” có nghĩa là “thay triều đổi đại”, tức là “biến cách thiên mệnh”, như Ân cách mệnh Hạ, Chu cách mệnh Ân... Cho nên sách “Chu Dịch” nói: “Thang, Vũ cách mệnh là thuận ý trời, hợp lòng người”. Có điều, Thương Thang cách mệnh cũng hay, Châu Vũ cách mệnh cũng tốt, nhưng cuộc cách mệnh của Võ Tắc Thiên lại không hề giống vậy. Chuyện trước xảy ra lúc vương triều cũ đã tàn tạ, chuyện sau xảy ra lúc vương triều mới còn đang hưng thịnh; chuyện trước là đàn ông một gia tộc thay thế đàn ông một gia tộc khác, chuyện sau là người đàn bà muốn cướp thiên hạ của đàn ông; chuyện trước là thông qua vũ trang cướp chính quyền, chuyện sau là làm chính biến nơi cung đình. Rõ ràng khó khăn của Võ Tắc sẽ càng nhiều và có “thuận ý trời hợp lòng người” hay không cũng là vấn đề lớn. Nhưng Võ Tắc Thiên là người đàn bà có nữ tính vĩ đại, không sợ trời không sợ đất, không tin ma không sợ thua, ngay cả trăng sao nhật nguyệt cũng coi như không (chữ Chiếu gồm ba chữ nhật, nguyệt, không). Nếu Thượng đế không cho bà cách mệnh, bà sẽ cách luôn cả mệnh của Thượng đế. Nếu ông trời không cho bà bầu không khí cách mệnh, bà sẽ tự tạo ra. Nếu mọi người đều không tán thành bà cách mệnh, bà sẽ làm cho mọi người không dám mở miệng. Tóm lại, bà sẽ tạo ra một bầu không khí chính trị, để mọi người đều hiểu rằng, chống lại bà là việc làm vô ích.
Và với lý lẽ hùng hồn, Võ Tắc Thiên đã thực hiện cách cai trị bằng hệ thống khủng bố, đặc vụ. Bộ phận hạt nhân của nền chính trị và cách thống trị này là chế độ cáo mật, tập đoàn khốc lại và án oan, giả, sai. Tạo ra án oan, sai, giả, vu cáo hãm hại địch thủ chính trị, những người mình không thích là mưu phản. Đây là kỹ xảo một số nhà chuyên chế độc tài quen dùng. Lưu Bang đã dùng, Tào Tháo đã dùng, đương nhiên Võ Tắc Thiên cũng có thể dùng. Võ Tắc Thiên khác ở chỗ, công khai và phổ biến, khích lệ việc cáo mật, sử dụng bọn quan lại tàn ác (khốc lại), tạo ra vô số những án oan, sai, giả. Có lẽ rất ít người làm được như Võ Tắc Thiên, khích lệ công khai việc cáo mật. Võ Tắc Thiên quy định, không ai được phép ngăn cản người cáo mật. Dù người đó là tiều phu hay nông dân, đều có thể đến kinh thành gặp hoàng đế, nói ra những điều cần nói. Họ được quan phủ lo xe ngựa, dọc đường được đãi ngộ ở mức quan ngũ phẩm, sau khi vào kinh được ở khách sạn của các quan, cơm nước theo chế độ nhà quan, hơn nữa, còn có thể được Võ Tắc Thiên đến gặp mặt và ban thưởng. Điều quan trọng là: Khi phát hiện không đúng, cũng không sao, không hề bị xử lý.
Đây là vụ buôn bán không mất vốn, chỉ có lời, nên ai cũng muốn làm. Chỉ với hai việc, đến kinh thành bằng tiền công, dọc đường được hưởng chế độ quan ngũ phẩm, đã thật đáng giá. Thế là, cáo mật từ bốn phương như ong bay tới, các đại thần trong triều luôn thấy bất an. Hàng ngày, Võ Tắc Thiên luôn đọc những thư cáo mật, luôn thấy thích thú, luôn vui vẻ nên không thấy mệt, thư cáo mật giúp Võ Tắc Thiên có được nhiều manh mối, khiến bà có thể nhìn thấy mọi động tĩnh trong triều cũng như trong xã hội. Điều đó, làm cho bà lúc nào cũng sung sướng, cười vui ngoài sức tưởng tượng. Không bao giờ bà quên, vì tình báo không sắc bén, nên bọn Từ Kính Nghiệp từng có nhiều âm mưu quỷ kế mà triều đình không hề hay biết, tận khi bọn họ tập kết mười vạn binh mã công thành cướp đất, ai nấy mới kinh hoàng thất sắc, vội vàng chống đỡ. Võ Tắc Thiên cũng không hề quên, chính nhờ có người cáo mật Bùi Viêm, dự mưu binh biến, nên Bùi Viêm mới phải chết trong chiếc nôi của mình. Đối với một nhà độc tài thì cáo mật là việc rất hay.
Vì vậy, Võ Tắc Thiên quyết định trọng thưởng những người cáo mật và chọn được một loạt quan lại tàn ác trong số những người cáo mật. Sở dĩ phải chọn số đó trong những người cáo mật vì sợ họ không chịu làm những lá thư bức cung. Không có thư bức cung thì không thể biến thư cáo mật thành án, không thể đưa phái phản đối vào chỗ chết. Sau khi đã nếm vị ngọt ngào của thư cáo mật, Võ Tắc Thiên thấy không thỏa mãn nếu chỉ bằng thủ đoạn này để có được tình báo. Võ Tắc Thiên còn muốn, thông qua cách xử lý tất cả số thư cáo mật, để biến tất cả thành án oan, có như vậy, phái phản đối mới ngã hết; và cho thêm một đạp nữa, để chúng sẽ mãi mãi không gượng dậy nổi. Chỉ khi nào, từng bản án “nghe qua đã kinh người” được tiết lộ ra ngoài mới có thể chứng minh được lập chế độ cáo mật là hoàn toàn cần thiết và rất kịp thời. Vậy cần thiết phải có lũ quan tàn ác. Loại người này xuất thân ra sao, có đọc sách không, có học vấn, có hiểu pháp luật không, đều không quan trọng. Điều quan trọng là, phải biết nhìn sắc mặt của Võ Tắc Thiên, phải là kẻ ti tiện và độc ác.
Rõ ràng, chế độ cáo mật, tập đoàn khốc lại, án oan sai giả, ba thứ này phải thành một chuỗi liên hoàn. Có người đứng ra cáo mật, liền có tình báo và manh mối, và cũng sẽ có cớ có lý do để trị người; có người bổ sung vào khốc lại, lời tố cáo của kẻ mật báo mới có thể “coi là thật” và mới có thể tạo thành án oan sai giả, mới có thể lu loa thành “đất nước đang bị uy hiếp”, từ đó chế độ cáo mật, tập đoàn khốc lại mới được coi là hợp lý, hợp pháp. Dĩ nhiên, sự an toàn của đất nước đang bị uy hiếp nghiêm trọng, nên càng phải khích lệ cáo mật, trọng dụng khốc lại. Như vậy, tính chất ác độc, không khí khủng bố cũng được hình thành một cách tự nhiên. Thực ra thì đất nước đâu có bị uy hiếp đến thế. Có thể là, thần kinh Võ Tắc Thiên quá mẫn cảm hoặc chỉ là cái cớ để Võ Tắc Thiên giết người lập uy.
Và dù, những thủ đoạn đó cực kỳ ti tiện vô sỉ, bẩn thỉu hạ lưu, nhưng lại rất có tác dụng. Thời gian đó, không hề có ai dám bàn tán về công việc Võ Tắc Thiên làm, có chăng chỉ là những lời ca tụng công đức, những lời bợ đỡ lấy lòng, những lá thư màu xanh tốt lành và những tờ biểu xin bà lên ngôi đã tới tấp bay về cung bay đến bệ rồng như tuyết rơi. Sau mấy lần vờ vĩnh chối từ, thì vào ngày mùng chín tháng chín năm Thiên Thụ thứ nhất (năm 690) người đàn bà có dã tâm lớn nhất trong lịch sử Trung Quốc đã được toại nguyện, được đội lên đầu chiếc mũ hoàng đế dệt bằng máu. Năm này Võ Tắc Thiên sáu mươi bảy tuổi.

