Luận Anh Hùng - Phần IV - Chương 18 - phần 1

II.
Con người không hợp thời

Khác với hai lần bãi quan trước, lần này,
rất ít người đồng tình với hành động của Hải Thụy. Lý lẽ rất đơn giản: Hai lần
trước, Hải Thụy phản đối cá nhân (là Hồ Tôn Hiến, Yên Mậu Khanh hoặc hoàng đế
Gia Tĩnh), nhưng lần này, Hải Thụy phản đối cả giới quan trường. Đối thủ của
Hải Thụy lần này, bất kể là ai, cũng luôn có hai hậu thuẫn rất kiên cường: Một
là truyền thống quan trường thâm căn cố đế, rất khó thay đổi, hai là tập đoàn
quan văn đông đảo, một thế lực cũ ăn sâu bám rễ lâu đời, rất khó xóa bỏ. Hải
Thụy lại chỉ có một mình. Vũ khí của Hải Thụy chỉ là mấy điều đạo đức trống
rỗng, từ lâu người ta đã bỏ trên gác cao hoặc coi đó là vật trang trí. Vốn
liếng của Hải Thụy chỉ là tiếng tăm, không sợ chết, một khi đắc tội với toàn
thể quan liêu, thì vốn liếng đó chẳng đáng một xu. Cho nên, việc Hải Thụy phát
lệnh tấn toàn bộ quan liêu chỉ như trứng chọi đá, không sứt đầu mẻ trán mới là
lạ!

Hiển nhiên, Hải Thụy hoàn toàn xa lạ với giới
quan trường. Đây là lần thứ ba đấu tranh với bọn chúng, lần này Hải Thụy hoàn
toàn bị cô lập, ngay cả những người trước đây từng ủng hộ Hải Thụy và những
người có tiếng tăm khác đều đứng sang phía địch. Vậy, vì sao Hải Thụy lại chỉ
có một mình, vì sao Hải Thụy không thể sống chung với họ?

Xem ra, chúng ta cần phải nói lại từ đầu.

Hải Thụy, tự Nhữ Hiền, một tự khác là Quốc
Khai, hiệu là Cương Phong, sinh vào tháng mười hai năm Chính Đức thứ chín (năm
1515), tổ tiên ở Phúc Kiến. Giữa những năm Hồng Vũ, Hải Đáp Nhi - ông nội của
Hải Thụy đã từ Quảng Châu theo quân đến Hải Nam, về sau định cư ở huyện Quỳnh
Sơn. Có học giả cho rằng, Hải Đáp Nhi đều là người dân tộc thiểu số, thậm chí
có khả năng là người nước ngoài. Vì, từ đời Nguyên có mấy người tên là Hải Đáp
Nhi là người tộc Hồi. Ở Ba Tư, vào thế kỷ XIV có trưởng quan địa phương tên là
Hải Đáp Nhi. Dù nói thế nào thì họ Hải tên Đáp Nhi luôn có phần quái dị. Không
biết thứ tính khí quái dị trong con người Hải Thụy có can hệ gì với nhân tố di
truyền đặc biệt đó hay không?

Hải Thụy từ bé đã nghèo khổ và bất hạnh.
Năm lên bốn tuổi, cha mất, còn lại mẹ, họ Tạ (khi đó hai mươi tám tuổi) hai mẹ
con, cô nhi quả phụ nương tựa vào nhau, dựa vào mấy mẫu ruộng cằn cỗi, vào nghề
may vá thêu thùa của mẹ làm kế sinh nhai. Hoàn cảnh sống của Hải Thụy rất tệ,
Hải Nam xưa nay vốn là vùng đất biên cương xa xôi heo hút của đất nước, Quỳnh
Sơn là vùng nghèo khổ. Văn nhân mặc khách coi đó là vùng đất đáng sợ, đời đời
các hoàng đế lại coi đó là nơi tốt nhất để trừng phạt, đầy đọa bọn phạm nhân.
Tể tướng Lý Đức Dụ đời Đường và bốn vị tể tướng hoặc phó tướng khác thời Tống
như Lý Cương, Triệu Đỉnh, Lý Quang và Hồ Thuyên đều bị lưu đầy ra đây, còn có
Tô Đông Pha nổi tiếng nữa. Cho dù mảnh đất lưu đày và cuộc sống lưu đày của họ
luôn được nhà văn nào đó miêu tả đầy thi vị thì tôi vẫn nghĩ chẳng có vị hôn
quân và gian thần nào lại có lòng tốt, sắp xếp cho địch thủ chính trị của mình
một nơi nghỉ ngơi dưỡng lão hay ho như vậy. Tuổi thơ của Hải Thụy đã trải qua
những ngày buồn tẻ và nghèo khó, đồng thời cũng rất bế tắc. Đâu có khí thế huy
hoàng nơi kinh đô; cảnh tượng phồn hoa nơi thành thị; văn nhân tụ hội nơi thành
cổ và những âm thanh dạt dào bên sóng nước. Vì vậy trên người Hải Thụy cũng
không có những thứ đối ứng với chúng, như phong thái ung dung cao quý cần có
của một vị quan cấp cao, gần như cũng không có cái gọi là khí linh tú, vị nhân
tình, ngược lại chỉ thấy có hẹp hòi, nhỏ nhen và lắm chuyện. Kẻ thù chính trị
công kích Hải Thụy là “không hiểu đại thể”, toàn là những lời không phải vu
cáo. Vì Hải Thụy từng quy định với thuộc hạ, phải giao lên một tờ công văn
chính thức, mới được nhận lại một tờ giấy công văn còn để trắng.

Cuộc sống gia đình của Hải Thụy cũng thật
bất hạnh. Có ba điều bất hạnh lớn trong con mắt người dân Trung Quốc: Tuổi thơ
mất cha, trung niên mất vợ, về già mất con, Hải Thụy đều có đủ. Hải Thụy kết
hôn ba lần, có hai người thiếp. Hai người vợ đầu đều vì bất hòa với mẹ chồng đã
phải ra đi, trong đó người vợ thứ hai mới về nhà chồng được chừng một tháng.
Người vợ thứ ba chết không được rõ ràng lúc Hải Thụy năm mươi lăm tuổi. Người
vợ thứ ba và một người thiếp, trước sau đã sinh được ba con trai, nhưng đều
chết yểu. Bất hiếu có ba điều, điều lớn nhất là không có con để nối dõi, huống
chi Hải Thụy lại là con một, nên còn là bất hạnh lớn.

Cứ thế mà tính, có thể người mẹ - Tạ lão
phu nhân là người sống lâu nhất cùng Hải Thụy. Tạ thị là người kiên cường,
trong điều kiện cực kỳ khó khăn đã nuôi dạy Hải Thụy nên người, có thể coi là
dốc hết tâm huyết, nếm đủ mùi gian khổ. Vừa là người mẹ nhân từ vừa là người
cha nghiêm khắc, bà từng truyền dạy kinh thư cho con, về sau lại chọn thầy vừa
nghiêm khắc vừa cẩn thận cho Hải Thụy. Hải Thụy cảm tạ và hiếu thuận với mẹ,
mỗi lần đến nhận chức ở Nam Bình, Thuần An, Hưng Quốc hay Tô Châu đều mời mẹ đi
cùng. Hải Thụy chịu ảnh hưởng từ mẹ rất lớn. Mỗi khi nói tới lòng lương thiện,
sự trung thành, cương nghị và chính trực của Hải Thụy, các sử gia luôn cho rằng
đó là bóng dáng của người mẹ.

Có điều, một bà lão góa chồng khi còn trẻ,
sống cùng đứa con lớn, thì ít nhiều về mặt tâm lý sẽ có một số vấn đề, quan hệ
với con dâu cũng không dễ dàng chút nào, và một người sống trong một gia đình
bất hạnh, thì quan hệ giữa người với người cũng không mấy thoải mái. Sử liệu
chứng minh, gia đình Hải Thụy bất hòa, không chỉ đã trở thành lời công kích bên
phía địch mà còn là nỗi bất bình trong thời luận, “nặng tình nghề nghiệp, mỏng
bề khuê các”. Đây là tám chữ lời bình trong văn tế Hải Thụy nghe đã thấy nặng
nề, nếu là lời nói của phía địch thù còn khó nghe hơn nữa. Người Trung Quốc rất
xem trọng sinh hoạt gia đình. Luân lý của gia đình cũng là luân lý của đất
nước. Mọi người tin rằng, một người hiếu kính với cha mẹ cũng sẽ trung thành
với vua với nước (không ai nghi ngờ lòng trung thành của Hải Thụy) và một người
có quan hệ vợ chồng không hay cũng sẽ không thể hòa thuận được với đồng liêu
(đây là điểm mà địch thủ công kích Hải Thụy nhiều nhất). Phần lớn người Trung
Quốc đều cho rằng, một người không biết thưởng thức mùi vị của thức ăn, nhất
định sẽ không thưởng thức nghệ thuật; một người thiếu tình nam nữ cũng nhất
định không thông hiểu được tình người. Vì vậy, địch thủ chính trị của Hải Thụy
thường bàn luận chuyện bất hòa của gia đình Hải Thụy với giọng điệu giễu cợt hả
hê, coi đó là chứng cứ cho việc ông không thể hợp tác suôn sẻ với ai.

Lúc nhỏ, Hải Thụy sống trong gia đình bất
hạnh và đơn điệu, nên thú vui duy nhất của Hải Thụy là công việc. Chỉ có làm
việc như điên như dại mới bù đắp nổi những khiếm khuyết trong tâm hồn Hải Thụy.
Đúng là Hải Thụy làm việc như điên. Chỉ cần có việc là Hải Thụy làm, không tiếc
sức lực, không ngại khó ngại khổ. Lúc làm tuần phủ Ứng Thiên, theo lệ mỗi tháng
có hai ngày là mùng hai và mười sáu nhận cáo trạng, mỗi lần phải xử lý hơn ba,
bốn ngàn án, chưa kể những án hàng ngày về nhân mạng, trộm cướp và tham ô. Đối
với những việc khác, không bao giờ Hải Thụy từ chối, luôn luôn tận tụy, gần như
không có ngày nghỉ. Tác phong đó sẽ không phù hợp với không khí nơi quan
trường, chỉ biết ăn chơi hưởng lạc. Sẽ không có ai muốn cộng tác với Hải Thụy,
con người khô cứng, chăm chỉ, làm việc như điên như dại, nhưng lại không biết
nể mặt, không thông hiểu nhân tình thế thái, chúng càng không muốn để Hải Thụy
là mẫu hình của bọn quan lại, vì chúng không thể làm được như Hải Thụy.

Nhưng Hải Thụy làm được.

Hải Thụy là người biết suy nghĩ. Theo ý Hải
Thụy, nhu cầu của con người không chỉ là lợi và nghĩa. Nếu muốn mưu cầu lợi,
thì chỉ cần làm nghề nông, công hay thương. Nghề nông, công, thương là nghề
kiếm lợi, lợi hậu hĩnh không đâu bằng. Nếu là sĩ là quan thì không thể cầu lợi,
chỉ có thể tận trung với nước, làm việc vì dân. Vì sĩ mưu cầu nghĩa. Trên đời
này, sở dĩ có sự phân biệt giữa sĩ, nông, công, thương, vì có sự phân biệt giữa
lợi và nghĩa. Nghĩa cao hơn lợi, nên sĩ cao hơn nông công thương. Một sĩ nhân
nếu cũng theo đuổi danh và lợi thì y sẽ không đủ tư cách là sĩ, cũng không đủ
tư cách là quân tử. Vì vậy, một người quân tử làm quan, chỉ có thể lợi nước,
lợi dân, lợi công, quyết không thể có tư lợi, như vậy, đương nhiên là rất cao
quý, rất vĩ đại, rất đáng được kính phục và noi theo. Nhưng nếu lấy đó là yêu
cầu phổ biến và cơ bản của mọi quan viên thì e là không thực tế và cũng chưa
hẳn đã đúng đắn.

Trước hết, phải thừa nhận quan hay sĩ đều
là người, người cần được sinh tồn, cần được sống những ngày tươi đẹp. Đó là lợi
và cũng là tư, không thể trách cứ điều tư lợi đó. Cho nên, một người nếu đạt
được chí công vô tư, công mà quên tư, hiển nhiên là người quân tử, là người cao
thượng. Thậm chí, nếu một người đạt được công tư đều lợi, người và ta đều lợi,
hoặc lợi tư để vì công, lợi ta không hại người, như vậy không phải là kẻ xấu.
Chúng ta có thể chia con người thành năm loại: 1. Chí công vô tư, luôn để người
lợi. 2. Công trước tư sau, người trước ta sau. 3. Công tư đều lợi, người ta đều
lợi. 4. Tư để vì công, lợi ta không hại người. 5. Hại công lợi tư, hại người
lợi ta. Trong đó, loại một là thánh nhân, loại hai là quân tử, loại ba là người
tốt, loại bốn không phải người xấu, chỉ có loại năm là người xấu. Thánh nhân
rất ít, quân tử và người xấu cũng không nhiều, nhiều nhất là số người trung
gian, ở giữa, đại thể là còn tốt và không tốt không xấu. Họ không phải là quân
tử cũng không là tiểu nhân, có thể gọi là người thường.

Tình cảm của người thường cũng tức là tình
cảm thường thấy của con người, trong đó bao hàm cả những người đã biến đổi hoàn
cảnh, nâng cao địa vị, tăng thêm của cải... Vì vậy, dù là người tốt nói chung,
cũng không tránh khỏi có một chút quyền thuật, một chút mẹo vặt, một chút thủ
thuật, một chút tính toán. Đương nhiên, cứ theo nguyên tắc lượng biến thành
chất của đạo đức thì chút quyền thuật cũng có thể biến thành quỷ kế lớn, chút
mẹo vặt cũng có thể biến thành âm mưu lớn, chút thủ thuật cũng có thể biến
thành tội ác lớn, chút tính toán cũng có thể biến thành dã tâm lớn, nhất là lúc
con người đó đã có được một số quyền lực nhất định, lại càng là như vậy. Chúng
ta không thể không đề phòng, nhưng chỉ có thể dựa vào thể chế và chế độ để đề
phòng và ngăn ngừa, bao gồm việc hạn chế quyền lực, trừng trị hủ bại, nâng
lương để bồi dưỡng sự thanh liêm... Vì xu lợi tránh hại là việc thường tình của
con người. Bạn không thể yêu cầu mọi người luôn phải quên sống quên chết, gò ép
bản thân vì việc công, quên mình làm lợi cho người, chỉ có thể nhân thế mà được
lợi, chỉ có thể xuất phát từ tình thương của con người xu lợi tránh hại, thông
hiểu được lợi hại, ràng buộc bởi hình pháp, để con người hiểu được, tham ô là
có tội, lấy quyền mưu cầu riêng là hành vi đáng sợ sẽ dẫn tới khuynh gia bại
sản, thân bại danh liệt, ít ra cũng là cuộc mua bán không có lợi, để con người
hiểu được, cũng chẳng có cách gì để tìm sự may mắn, để mưu cầu tư lợi, dù muốn
lao vào một cuộc lầm lỡ lớn trong thiên hạ. Điều đó chỉ có thể dựa vào chế độ,
không dựa vào đạo đức.

Đạo đức luôn luôn là cần thiết. Người được
là người, vì có đạo đức. Không có đạo đức, người sẽ biến thành thú; chỉ có đạo
đức, người mới thành thần. Người không thể biến thành thú, cũng không biến được
thành thần. Cho nên người không thể không có đạo đức, cũng không thể chỉ nói
đến đạo đức. Đạo đức chân chính cao thượng chỉ là lý tưởng. Loại cảnh giới đó
đáng để phải truy tìm, cũng nên truy tìm, nhưng luôn tìm mà không được, truy mà
không kịp, không có ít người không đạt được trình độ đó. Vì vậy cái gọi là đạo
đức cao thượng, cần phải đề xướng, cũng chỉ có thể đề xướng, không thể yêu cầu
khắt khe. Đã không có cách gì để yêu cầu khắt khe từng người phải có đạo đức
cao thượng, nên cũng không thể dựa vào việc đề xướng đạo đức cao thượng để xóa
bỏ hành vi phi đạo đức, hành vi phạm tội trong đời sống chính trị xã hội, chỉ có
thể dựa vào chế độ và luật pháp để phòng ngừa. Chúng ta thường nói “phản hư
xướng liêm” (phản đối hủ bại, để xướng thanh liêm), tức là đã ý thức được đầy
đủ, liêm khiết phải dựa vào việc đề xướng đạo đức, hủ bại cần phải dựa vào pháp
luật để loại bỏ.

Pháp chế và đạo đức có quan hệ bổ trợ lẫn
nhau. Pháp chế mang tính chất phòng ngừa, đạo đức có tính chất hướng dẫn. Pháp
chế quy định không cho làm những gì hoặc không cho làm như thế nào; đạo đức yêu
cầu chúng ta nên làm gì hoặc nên làm như thế nào. Không thể thiếu một trong hai
thứ đó, vì chúng có nhiệm vụ khác nhau. Ví như lúc có cháy, đạo đức cho chúng
ta hay, cần phải đến chữa chúng, pháp chế chỉ quy định không được phóng hỏa.
Người không đi chữa cháy không phạm pháp, cũng không hẳn là người vô đạo đức, vì
có rất nhiều nguyên nhân khiến người đó không đi chữa cháy, như người đó không
có khả năng. Chỉ có những người có khả năng, nhưng thấy chết mà không cứu, mới
là người vô đạo đức; chỉ có những người thấy chết mà không cứu, còn vui mừng
trước tai nạn của người khác, mới là kẻ thất đức; cũng chỉ có những người cháy
nhà mà hôi của, mới là người phạm tội. Rõ ràng đạo đức và pháp luật không thể
thay thế cho nhau, cũng không thể lạm dụng tùy tiện. Nếu chỉ có đạo đức không
có pháp luật, sẽ có người phóng hỏa để cướp của mà không bị trừng phạt; nếu chỉ
có pháp luật không có đạo đức, sẽ chẳng có cách gì để chê trách những kẻ vui
mừng trước hoạn nạn của người khác, lấy gì để kêu gọi nghĩa và dũng?

Nhưng học thuyết Nho gia chỉ thấy tác dụng
của đạo đức, hoàn toàn xem nhẹ ý nghĩa của pháp luật. Khổng Tử nói: “Đạo chi dĩ
chính, tề chi dĩ hình, dân miễn nhi vô sỉ. Đạo chi dĩ đức, tề chi dĩ lễ, hữu sỉ
thả cách”. Tức là nói, lấy pháp luật trị nước, nhiều lắm là đảm bảo mọi người
không dám phạm tội, nhưng không thể đảm bảo rằng mọi người không muốn phạm tội.
Lấy đức trị quốc, lấy lễ trị quốc, mới có thể đảm bảo người người không muốn
phạm tội, muốn làm người tốt. Nói như vậy, không phải không có lý, nhưng quá lý
tưởng hóa. Giáo dục đạo đức, đúng là có những tác dụng như vậy (người có đạo
đức sẽ không phạm tội). Nhưng không có gì để đảm bảo sẽ có hiệu quả, tức là
không có gì đảm bảo, người người đều có đạo đức. Vì vậy, đức trị hay lễ trị,
đều chẳng có cách gì để ngăn ngừa tội phạm phát sinh.

Các bậc đế vương qua các thời đại chỉ cần
có chút trí tuệ, là rõ ngay đạo lý này. Đối sách của họ là, vừa hô hào đạo đức
Nho gia, vừa dùng chế độ Pháp gia để phòng ngừa. Vì vậy, triều đại nào cũng có
hình luật và pháp điển, hơn nữa hễ sử dụng là vô cùng khủng khiếp, như lăng
trì, chém ngang lưng... Đương nhiên, Hoàng đế Chu Nguyên Chương - người sáng
lập vương triều Minh cũng không phải ngoại lệ, Chu Nguyên Chương cũng định ra
hàng loạt pháp lệnh, hành động nhằm hô hào liêm khiết, chống lại hủ bại. Nhưng
những pháp luật, hành động đó đều được xác lập trên cơ sở quan niệm đạo đức xã
hội trống rỗng, vừa chưa hợp lý, vừa khó thực hành. Như lương bổng của quan lại
đều rất thấp, không nuôi nổi một gia đình nhiều nhân khẩu. Như vậy, nói sao
được “lương cao để dưỡng liêm”, mà thực tế là “bức con gái nhà lành đi làm đĩ”.
Rõ ràng là không thực tế, nếu yêu cầu các quan viên khác phải trồng thêm rau
như Hải Thụy, hoặc ngày sinh nhật mẹ chỉ
mua vài cân thịt, tất nhiên sẽ dẫn tới kết quả, quan viên câu kết, trên dưới
nắm tay nhau, lấy của công để tiêu riêng hoặc coi trăm họ như cá thịt. Cũng như
quy định mọi viên quan không được ra ngoài thành khi chưa được phê duyệt, thực
buồn cười làm sao! Làm vậy thì dân khỏi bị sách nhiễu, nhưng lại cắt mất sự
liên hệ giữa dân với quan, chủ nghĩa quan liêu sẽ ngày một nghiêm trọng hơn,
thực tế thì được không bằng mất. Lại như quy định, những quan viên tham ô từ
tám mươi quan trở lên, đều bị xử cực hình, lóc da nhét cỏ (lóc da phạm nhân rồi
nhét cỏ vào bụng), quả rất hoang đường. Tám mươi quan tiền là nhỏ nhặt, lóc da
nhét cỏ lại là nặng nề, thực không tương xứng, khiến mọi người có cảm giác hết
sức hoang đường. Nếu thực hành điều này, e mọi quan viên sẽ phải chết bằng hết,
còn lại một mình Hải Thụy. Đưa ra một pháp luật không có khả năng thực thi, thì
mọi người sẽ xem thường. Những pháp lệnh của triều Hồng Vũ, trong thời đại của
Hải Thụy mọi người đã quên sạch sành sanh từ lâu.

Nhưng Hải Thụy lại rất nghiêm túc.

Hải Thụy cho rằng, Thái Tổ Hồng Vũ là vị
vua lập nên triều đại, là vua nên không nói chơi, vậy những pháp lệnh do Thái
Tổ quy định, tất sẽ phù hợp với lý tưởng của thánh nhân, vậy phải kiên quyết
chấp hành, giữ nguyên giá trị. Hải Thụy không hề nghĩ tới những khó khăn khi
chấp hành. Vì vậy, Hải Thụy làm việc hết sức, không một lời oán trách vì mấy
đồng lương bèo bọt, quyết tâm nổi lửa chống lại mọi sự hủ bại, giống như đấu sĩ
hết sức dũng cảm.

Thực tế thì Hải Thụy rất ngây thơ. Hải Thụy
không biết, chủ trương của Khổng Tử chỉ là một loại lý tưởng, ông cũng không
biết bản triều dựng nước đã qua hai trăm năm. Những chính lệnh tâm huyết của
hoàng đế Hồng Vũ, dù là lúc đó, cũng chỉ là một đống giấy. Đương nhiên, Hải
Thụy càng không biết, những tệ nạn trong giới quan trường không chỉ có tham ô,
mà còn có những việc quan trọng hơn, như chia bè chia phái, tranh chấp lẫn nhau.

Thực tế thì ngay từ đầu Hải Thụy đã bị cuốn
vào cuộc đấu tranh bè phái, có điều, Hải Thụy không hề biết. Hải Thụy vừa là
người bị hại trong đấu tranh và cũng là người được lợi trong đấu tranh. Mấy lần
thăng quan và bãi quan của Hải Thụy, trừ một lần vì đắc tội với hoàng đế, còn
lại đều liên can đến cuộc đấu tranh bè phái này. Lần thăng quan đầu tiên, từ
tri huyện Hưng Quốc điều lên là chủ sự bộ Hộ, vì Nghiêm Tung bị đổ và Hải Thụy
từng phản đối bè đảng của Nghiêm Tung, lần thăng quan thứ hai, vì được Từ Giai
tiến cử và Từ Giai phản Nghiêm, Hải Thụy lại bị bãi quan, vì Trương Cư Chính
chủ chính, mà Hải Thụy lại không cùng phe với Trương; lần thứ ba được phục hồi,
vì Trương Cư Chính đã mất và bị hỏi tội. Nhưng Hải Thụy không nghĩ tới sự liên
quan giữa thời cục biến đổi và sự thăng nhiệm của mình. Hải Thụy luôn nghĩ, đó
là kết quả đấu tranh giữa thiện và ác trong đạo đức: bản thân được trọng dụng
vì chính khí vượt trội, bản thân bị phế truất là tà ác chiếm thượng phong. Vì
vậy Hải Thụy dựa vào những suy nghĩ đơn giản của mình về Nhị nguyên luận thiện
ác, để phán đoán đúng sai, quyết định làm tiếp hay dừng: Là thiện thì nên ủng
hộ, là ác phải phản đối, bất kể đối phương thuộc phe phái nào, bất kể giữa mình
và họ có ân hay oán.

Vì vậy, khi vừa nhận chức tuần phủ Ứng
Thiên, Hải Thụy liền ra dao với Từ Giai.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3