Luận Anh Hùng - Phần IV - Chương 19 - phần 2

Để nước giàu binh mạnh, đương nhiên Cư Chính không thể để thói xấu đó tồn tại. Và như vậy, Cư Chính không còn là “đầy tớ của dân” mà trở thành “kẻ thù của dân”. Đây là áp lực lớn với các phủ, huyện địa phương và lê dân trăm họ cũng hết lời oán than. Ngay cả các đại thần chính phái trong triều khi nghe tin, cũng không đồng tình. Họ hiểu rõ, để phủ, huyện bỏ tiền túi ra nộp thuế, khác gì muốn lấy da hổ? Số tiền nợ thuế phải là lông dê lấy từ thân dê, do những người dân quê cắt xén trên thân một chú dê non. Họ cũng hiểu, mỗi tờ lệnh của đất nước phải được các quan lại thi hành, trong quá trình thi hành lại bị dưới bớt xén, trên vơ vét, gánh nặng trên vai dân chúng càng thêm nặng, thu nhập của quốc khố chắc gì đã thêm nhiều? Vì thế, họ mới hỏi: Kho bạc kinh thành và địa phương đã được chất đống như núi, sao còn phải tranh lợi với dân? Thế chẳng phải đã bức các quan lại địa phương phải gõ đầu dân đen, thậm chí là đánh đập cho đến chết? Thế rồi từ vấn đề về pháp chế là cần hay không cần có quy tắc nghiêm túc trong chuyện thu thuế của đất nước, được chuyển hóa dần thành vấn đề về đạo đức là cần hay không cần thể tình trăm họ, làm lợi cho dân, cần hay không cần xây dựng một xã hội như thời Nghiêu Thuấn. Một khi lập luận này được hình thành thì “đúng sai” sẽ bị đảo lộn, quan lại địa phương bê trễ không nộp thuế là quân tử, Trương Cư Chính bảo vệ chính sách pháp kỷ nghiêm túc trở thành tiểu nhân.

Vì người trước trọng nghĩa, kẻ sau là hám lợi, người trước thể tình dân chúng, kẻ sau bóc lột trăm họ. Nhưng vấn đề ở ba chỗ: Những điều phái phản đối nói lại hoàn toàn là sự thực, không thể nói họ sai lầm. Thương dân gắn bó với yêu nước, và đất nước hết thuốc chữa cũng là điều đương nhiên.

Sự việc thứ hai khiến Cư Chính “mất lòng dân” là “khảo thành pháp” mới do ông đưa ra. Thi cử, sử dụng, đề bạt và khảo sát, xưa nay vẫn là bộ phận quan trọng trong chế độ chính trị đất nước. Hai việc trước còn có phần dễ dàng, vì có chế độ khoa cử và tiến cử. Ngược lại khảo sát thành tích lại là việc quan trọng khiến người ta phải đau đầu, nó liên quan tới việc thăng nhiệm hoặc bãi miễn quan chức, và vô cùng lợi hại đối với mọi quan viên, đã không thể không lưu tâm lại không thể quá lưu tâm. Không lưu tâm, việc khảo sát thành tích là vô bổ; quá lưu tâm không tránh khỏi đắc tội với người khác, dẫn tới đấu tranh giữa các phe phái trong quan trường, làm cho cục diện không yên, đất nước rối loạn.

Hơn nữa, khi sự việc được tiến hành cụ thể, lại nẩy sinh hai vấn đề lớn: Một là, ai khảo sát. Hai là, khảo sát như thế nào. Xét từ mặt lý luận, hoàng đế là người có tư cách khảo sát quan viên nhất. Đây là việc nói thì dễ, làm thì khó. Chưa nói tới một hoàng đế trẻ con chừng mười tuổi như Vạn Lịch không làm được mà ngay như hoàng đế tinh anh như Đường Thái Tông Lý Thế Dân chắc gì đã nắm hết được chính tích cùng những biểu hiện của mọi quan viên trong triều? Lúc Trương Cư Chính còn tại chức, vương triều Đại Minh có hơn một ngàn một trăm huyện, có hơn hai vạn quan văn các cấp. Quan viên nhiều như vậy, ai là người biết được hết? Ngay như hoàng đế, cũng không thể nhận biết hết hai ngàn quan viên ở kinh thành.

Cho nên việc khảo sát quan văn, chỉ có thể nhờ vào người khác, khảo sát quan kinh thành phải dựa vào cấp trên của họ, khảo sát quan viên địa phương phải dựa vào các quan kinh thành. Nhưng các quan kinh thành lại không ưu việt, hơn hẳn các quan viên địa phương như sách vở từng nói. Các quan kinh thành, lương bổng đã thấp lại không có khoản thu thường lệ, nên hầu hết phải dựa vào sự “hiếu kính” từ các quan lại địa phương. Đốc phủ các tỉnh, mỗi lần có lễ phẩm dâng lên lục bộ thượng thư, giá trị của lễ vật tương đương mười lần lương bổng cả năm của các vị. Người bị khảo sát chính là “cha mẹ lo bề ăn mặc” của người đi khảo sát, vậy tính chính xác và tính tin cậy, liệu có bị thay đổi nhiều không?

Ngoài tiền vàng ra còn có tình người. Nếu là người cùng huyện cùng tỉnh còn có “hương nghị”, nếu là trúng tuyển cùng năm còn có “niên nghị”, nếu là sui gia của các con, còn có “nhân nghị”. Thực tế thì các quan kinh thành và các quan địa phương luôn có những mối quan hệ đó. Hoặc là môn sinh, hoặc là chỗ quen biết cũ, hoặc là mới biết, từng người đều có phe phái, đều có chỗ dựa. Đối với người cùng phe phái, người có quan hệ, nếu không chiếu cố thì đừng mơ tới chuyện còn tồn tại ở chốn quan trường. Thế là kết quả của khảo sát lần nữa lại bị thay đổi.

Khảo sát thế nào cũng là vấn đề rất lớn. Khảo sát chính tích thời Minh chia làm ba cấp, gọi là xứng chức, bình thường và không xứng chức. Cụ thể có tham, khốc, phù phiếm, không đủ (không đủ tài lực), lão, bệnh, bãi (tức là phế, nhu nhược vô năng), bất cẩn. Lão bệnh nên từ chức nghỉ ngơi, là phù phiếm và không đủ nên giáng chức điều đi nơi khác, là bãi (phế) và bất cẩn nên đổi cho chức danh nhàn rỗi, là tham và khốc nên cách chức làm dân. Một chế độ như vậy được xem là cẩn thận tỉ mỉ, nhưng thực tế lại là hàm hồ sơ lược. Như một viên quan nào đó, sau ba năm nhận chức chưa làm được gì, nhưng cũng không có sai sót lớn thì được bình là bình thường, chưa đủ, cũng có thể được bình là ổn định, không phù phiếm. Còn như muốn biết một người được bình như thế nào, cần phải xem quan hệ của anh ta với người khác như thế nào, công sức anh ta bỏ ra bợ đỡ cấp trên, lấy lòng quan kinh thành là bao nhiêu.

Việc khảo sát chính tích làm như thế này rất khó có được sự công bằng và công tâm. Nhưng sự ổn định của đại cục quan trọng hơn nhiều so với tiền đồ của một số người. Vì muốn duy trì sự ổn định của triều cục, một số người ưu tú phải chịu thiệt thòi một chút, cũng là sự hy sinh cần thiết. Hơn nữa, công việc khảo sát chính tích được tiến hành chặt chẽ không buông lỏng, còn phải xem nhu cầu chính trị để thường xuyên có sự điều chỉnh. Nếu triều đình cảm thấy không khí trầm lắng, việc làm hiệu suất thấp, cần phải chấn hưng tinh thần, bỏ cũ lấy mới, thì tiêu chuẩn sẽ chặt chẽ hơn. Ngược lại, khi thấy chính cục lung lay, lòng người dao động, nguy cơ từ bốn phía, cần phải ổn định lòng dân, vỗ về trăm quan, thì tiêu chuẩn sẽ nới lỏng ra một chút. Vì vậy tiêu chuẩn của khảo sát là trừu tượng mơ hồ, để có thể phù hợp với nhu cầu tiến thoái của nền chính trị.

Nhưng Trương Cư Chính lại cho là không thể hàm hồ. Cư Chính làm việc cần mẫn, thiên về lý, luôn tự mình đối chiếu các con số thống kê, thậm chí còn soạn ra các biểu mẫu khai báo, quy định thời hạn báo cáo, rất nhiều những chi tiết nhìn qua là nhớ. Khảo sát quan viên là việc lớn biết chừng nào? Đương nhiên, không thể qua loa, càng không thể ấp úng mù tịt. Vì vậy Cư Chính quy định, các quan lại địa phương phải có những câu trả lời về chính tích của mình, các cơ quan trung ương, khoa, bộ phải ghi chép lại theo tháng, năm, còn quy định các hạng mục cụ thể, như thu nộp các loại thuế thiếu, khả năng truy bắt lũ cướp, phỉ... phải có con số cụ thể, ngày giờ đạt được các hạng mục đó. Như huyện lệnh huyện A thu hồi toàn bộ số thuế nợ, thời hạn không quá nửa năm; huyện lệnh huyện B chỉ thu được một nửa, với thời gian là một năm; huyện lệnh C không thu được đồng nào, tự nhiên A là thượng đẳng, B là trung đẳng và C là hạ đẳng. Vì có đáp án đã ghi chép, có con số để so sánh, nên huyện C không phục cũng hết đường nói.

Rõ ràng, cách nói cách nghĩ của Cư Chính giống hệt cung cách của Hải Thụy. Sau khi nhận chức tuần phủ Ứng Thiên, Hải Thụy cảm thấy xót xa về cách khảo sát quan viên “toàn những câu có nhiều ý, rất ít những vấn đề cụ thể, hiện thực, lời lẽ không rõ ràng”, nên đã quy định ra “Khảo ngữ sách thí”, nội dung gồm: Tài thức, trị dân, trị binh, giáo hóa, ngục tụng, quân điền, khai khẩn, tích cốc, trong mỗi hạng mục có nhiều mục nhỏ, để các quan phụ trách khảo tích cứ từng mục từng mục điền vào, không lẫn lộn. Và cũng không thể lẫn lộn được. Vì ngoài hạng mục “tài thức” ra, các hạng mục khác đều rất cụ thể, làm được thì làm, không làm được thì không làm; làm đúng hay sai đã có sự thực và con số làm chứng. Nếu chính tích các hạng mục đều ở mức bình thường thì không thể bình hạng mục tài thức thuộc loại trên.

Cung cách làm việc của Hải Thụy và Trương Cư Chính thể hiện đầy đủ tác phong quan viên phái thực tế và biện pháp khảo tích khác trước. Nhưng tác phong và cách làm này vừa ngược lại với chính sách cơ bản của đất nước, vừa trái với lề thói truyền thống của giới quan trường. Kể từ ngày hoàng đế Hồng Vũ dựng nước, vương triều Đại Minh chưa hề nghĩ phải làm gì để nước giàu dân mạnh. Trọng tâm và xuất phát điểm của mọi chế độ chính trị kinh tế là để vương triều được ổn định, chính quyền vững mạnh và nhất là đảm bảo cho ngôi vị hoàng đế không dao động, đại quyền tồn tại mãi mãi. Vì vậy cần phải duy trì nền kinh tế tiểu nông ở mức thấp - tương ứng với đó, việc quản lý của chính phủ phải đơn giản, qua loa và ở mức thấp; còn như hiệu suất hành chính quá cao là không đúng, vì lúc đó địa phương cơ sở sẽ lo sợ, sẽ bị chê trách là “dân không còn đường sống”, khiến hoàng đế cũng thấy bị uy hiếp và bị chê trách là “mưu đồ không chính đáng”. Hải Thụy đã để lại phiền hà như ở loại thứ nhất; Trương Cư Chính phạm phải điều cấm kỵ như ở loại thứ hai.

Rõ ràng, thất bại của Hải Thụy và Trương Cư Chính là ở chỗ, họ muốn đưa toàn bộ đất nước vào quỹ đạo chính trị được bản thân họ thiết kế. Điều đó giống như là cưỡng chế hoặc thuyết phục con người phải giảm béo vì sắc đẹp, tất nhiên sẽ tự chuốc lấy sự nhàm chán. Thế là, trong bọn họ một bị bãi miễn khi còn sống, một bị thanh toán sau khi đã chết. Vì lý do đó, một thuộc hạ cũ của Trương Cư Chính là Thẩm Thời Hành sau khi nhận chức thủ phụ, đã ra sức sửa đổi cách làm của họ, mọi thứ đều ngược lại. Nhưng có một điều thú vị là, Thẩm Thời Hành cũng chẳng hay ho gì. Sau khi đã hành động ngược lại hoàn toàn với hai người kia, năm Vạn Lịch thứ mười chín (năm 1591), Thẩm Thời Hành hết cách lấy lại thăng bằng cho hoàng đế và các triều thần, phải từ chức và trước đó còn mang tiếng là “hai mặt”. Những tin tức được tiết lộ qua đó thật là đáng để suy ngẫm.

Thẩm Thời Hành là viên quan được Trương Cư Chính cất nhắc, là thủ phụ trong chín năm sau khi Trương Cư Chính qua đời. Lần thứ ba Hải Thụy được phục chức, có thể là do Thời Hành sắp xếp. Vì vậy, Thời Hành mới có thư gửi Hải Thụy. Thẩm Thời Hành, người huyện Ngô, Tô Châu, so với các vị: Hải Thụy người Quỳnh Sơn, Hải Nam; Trương Cư Chính người Giang Lăng, Hồ Bắc; Cao Củng người Tân Trịnh, Hà Nam thì có phần khôn khéo giảo hoạt hơn một chút, và cũng vui vẻ nho nhã hơn một chút; về tính cách không khác mấy với Từ Giai người cùng quê Tùng Giang, Hoa Đình (nay là Thượng Hải). Vì vậy dư luận nhất trí công nhận ba vị thủ phụ Cao Củng, Trương Cư Chính và Thẩm Thời Hành: Cao Củng độc đoán, Trương Cư Chính bá đạo, Thẩm Thời Hành khiêm tốn hòa nhã. Thêm vào đó, Thẩm Thời Hành giữ nghiêm phận quân thần với Vạn Lịch, không coi mình là thầy của vua, vì vậy trong thời gian nhận chức thủ phụ, Thời Hành luôn được Vạn Lịch tôn trọng và tín nhiệm, cũng được gọi là “tiên sinh”, không phải là “khanh”. Sau khi Thẩm Thời Hành rời chức dưỡng lão, Vạn Lịch luôn quan tâm và quyến luyến Thẩm Thời Hành, thường cử người đến gia đình thăm hỏi, tặng lễ vật. Thẩm Thời Hành có hai mươi ba năm nghỉ ngơi yên vui, tại quê hương yên tĩnh và qua đời lúc tám mươi tuổi ngay tại dinh thự của mình, có một kết cục tốt đẹp hơn Hải Thụy, Trương Cư Chính và Cao Củng.

Thẩm Thời Hành thông minh, biết làm người, lòng dạ cũng không tồi. Thời Hành tự tư một chút, nhát gan một chút, giỏi mẹo một chút, không làm những việc xả thân vì người và cũng không làm những việc hại người lợi mình. Với những việc không tổn hại đến lợi ích của mình, Thẩm Thời Hành cũng có thể nói vài câu đạo lý, hoặc ngấm ngầm giúp đỡ, thể hiện tình cảm chính nghĩa. Trương Cư Chính đưa Thẩm Thời Hành vào nội các, bồi dưỡng thành người kế tục, và cũng mong muốn có người lưu tâm đến mình sau khi đã qua đời. Về điểm này, Thẩm Thời Hành không làm được và cũng không thể làm được. Sau khi gia sản Trương Cư Chính bị tịch thu, Vạn Lịch không chỉ tức giận mà còn tức giận hơn trước nhiều. Lúc đó nói đỡ cho Trương Cư Chính khác gì tự đưa cổ mình vào máy chém, đương nhiên Thẩm Thời Hành không làm. Nhưng khi có người dâng sớ xin xử Trương Cư Chính tội đại nghịch bất đạo, phải mở quan tài băm xác, Thẩm Thời Hành hết sức bất mãn với thái độ “giậu đổ bìm leo” đó. Thế là Thẩm Thời Hành đã nói với Vạn Lịch, bằng lời lẽ mù mờ, rằng sớ tấu đã vu cáo hãm hại người khác mưu phản, chỉ sợ nay mai lại kéo theo những lời gièm khác, đó không phải là không khí cần có một triều đại sáng sủa. Điều đó đã đánh trúng vào lòng dạ Vạn Lịch: Vạn Lịch sợ nhất là bị người khác nói mình là hôn quân nên đã đồng ý không truy cứu tiếp. Thẩm Thời Hành đã từ bốn lạng loại bỏ ngàn cân, cứu được Trương Cư Chính, loại bỏ nốt tệ nạn vu cáo, đây chính là điểm thông minh của Thẩm Thời Hành.

Còn một điểm nữa cũng đáng nói. Sau khi đã qua đời, Trương Cư Chính còn bị cả triều công kích, Thẩm Thời Hành là người kế nhiệm, ông đã không phủ nhận sai lầm để thoát thân, cũng không khuếch đại sai lầm làm vốn nắm quyền của riêng mình. Thẩm Thời Hành thực sự cầu thị, đánh giá công bằng tội của Trương Cư Chính, để sửa sai và điều chỉnh. Theo Thời Hành, Trương Cư Chính ngoài những vấn đề như quá tự tin, nghiêm khắc tỉ mỉ, thấy đúng thì không nhường, tác phong sinh hoạt chưa phải bàn, những sai lầm lớn khác, sai lầm cơ bản là chưa làm rõ được tính chất của đất nước, chưa hiểu rõ rằng để duy trì sinh mạng của đất nước phải dựa vào trung ương tập quyền và chủ nghĩa quan liêu. Nhìn bề ngoài, tưởng như trung ương tập quyền, chủ nghĩa quan liêu là hai thứ khác nhau. Nhưng nghĩ xem, vào thời buổi không có phương tiện hiện đại như điện báo, điện thoại... một văn kiện từ địa phương gửi trung ương phải mất cả tháng. Hoàng đế không ra khỏi cung, cách biệt với tình hình địa phương, quan lại kinh thành không có mặt ở hiện trường nên vị tất đã phán đoán chính xác. Thêm nữa, lời lẽ trong sớ tấu lại hoa mỹ, khiến người đọc không hiểu rõ nội dung, không nắm được điểm chính, thậm chí không hiểu đầu cua tai nheo ra sao, vì vậy khi có quyết sách và phán đoán, tránh sao khỏi sai lầm của chủ nghĩa quan liêu. Nhưng nếu không thỉnh thị với từng sự việc thì cũng chẳng có cách gì để thể hiện quyền ở trung ương cho nên, phản chủ nghĩa quan liêu là phản trung ương, tập quyền. Trung ương tập quyền đẻ ra chủ nghĩa quan liêu, nay dựa vào trung ương tập quyền để phản đối chủ nghĩa quan liêu, chẳng phải là ta có thù với ta, cùng là ta mà lại không chung sống được sao?

Rõ ràng, muốn duy trì trung ương tập quyền, cần phải ủng hộ chủ nghĩa quan liêu; và muốn ủng hộ chủ nghĩa quan liêu, cần phải duy trì hiện trạng, ủng hộ tập đoàn quan văn. Mục tiêu chính trị của đất nước vốn không cao, chỉ cần trăm họ không đói không rét, quan viên giữ yên vị trí, tức là thiên hạ thái bình, vận nước hưng thịnh, vậy cần năng lực mạnh, hiệu suất cao như vậy để làm gì? Ngược lại, chính lệnh cứ như sấm sét, khảo tích phải công bằng, đúng mức, chỉ tổ làm cho tập đoàn quan văn thấy sợ hãi và bất an, vậy thì nhiệm vụ tể tướng là phải giữ cho được một chính phủ năng lực thấp, hiệu suất thấp. Ở đây, ổn định là trên hết. Điều quan trọng nhất là không để tập đoàn quan văn chia rẽ. Dù chưa thể đồng tâm hiệp lực thì ít ra cũng là yên ổn vô sự. Cho nên, dù Từ Giai bị chửi là “tay điều đình trong nước”, Thẩm Thời Hành bị trách là “nghênh đón cả bốn phía”, nhưng cả hai con người thông minh tới từ Giang Nam đều cho rằng đó chính là chức phận cần phải thực hiện. Thủ phụ tuy không là tể tướng, nhưng cũng tương đương như tể tướng. Chức phận của tể tướng là những gì? Không phải là thu thuế, quản lý tài chính tốt (là việc của bộ Hộ), không phải là luyện quân lính bảo vệ biên cương (là việc của bộ Binh), không phải là thẩm lý án kiện, trừng trị tội phạm (là việc của bộ Hình), thậm chí cũng không phải là nhiệm mệnh quan lại, phân xử liêu thuộc (là việc của bộ Lại) hay sao? Tể tướng luôn phải cai quản những việc đó, nhưng điều quan trọng hơn, là “điều chỉnh âm dương”, giải quyết tốt mối quan hệ giữa quân và thần, thần và thần, thần và dân, phải giữ được “sinh thái cân bằng” trong lĩnh vực chính trị. Nói trắng ra, tể tướng phải là “người hòa giải công việc”, tức là phải lấy lòng cả tám mặt, lôi kéo cả tám mặt. Có thể lấy được lòng là tốt, chỉ sợ không được lòng người! Bi kịch của Thẩm Thời Hành là ra sức để lấy lòng tất cả nhưng đều phí công vô ích. Vì thế, Thẩm Thời Hành cảm thấy đau lòng và ấm ức.

Phải nói là Thẩm Thời Hành đã gắng công hết sức. Năm Vạn Lịch thứ mười ba (năm 1585), Thẩm Thời Hành tấu xin hoàng đế bệ hạ bãi bỏ cách thức khảo sát của Trương Cư Chính, cho rằng biện pháp đó là không hợp lý, không công bằng. Việc có thu được đủ thuế hay không, không tùy thuộc vào năng lực và sự cố gắng của các quan; liệu bọn giặc phỉ có đến cướp vào lúc thu thuế, còn nhiều nguyên nhân khách quan khác. Nếu lấy đó làm giá trị để bình giá khảo sát, chỉ dẫn tới các quan viên cơ sở làm giả báo giả, bức họ phải vu cáo người lương thiện thành đạo tặc, đó không phải là không khí của thánh triều, vậy cứ nên làm như cũ, mơ hồ mê muội tiến hành khảo sát là tốt nhất. Trong việc “kinh sát” hai năm sau đó, Thẩm Thời Hành đã giơ cao tay, tung lưới vây mở ra một mặt, quan viên lớn bé ai nấy đều được yên vị, chỉ có ba mươi ba người bị bãi miễn hoặc giáng chức, và họ đều thuộc bộ môn không quan trọng. Việc Thẩm Thời Hành làm được coi là biểu hiện chấp hành chế độ khảo tích nghiêm túc. Thế là, Thẩm Thời Hành được dân chúng hoan hô, long nhan hoàng đế bệ hạ cũng ngời ngời, tỏ ý hài lòng.

Nhưng bốn năm sau đó, uy vọng của Thẩm Thời Hành đã hạ xuống tới mức thấp nhất. Nguyên nhân cơ bản là Thẩm Thời Hành chỉ nhìn thấy mặt yêu cầu được ổn định của tập đoàn quan văn, chưa nhìn thấy mặt yêu cầu có biến động của họ. Điều này giống như lúc đánh bài. Nếu chỉ cứ rửa bài không, thì không thể xuất hiện người thắng mới, và cuộc chơi sẽ bị ngừng lại. Như vậy thì, cái gọi là sự đoàn kết ổn định vĩnh viễn, về cơ bản là không thể. Rồi sẽ có người xuất hiện, sinh sự đúng sai, mượn gió bẻ măng, hòng lấy hạt dẻ trong lửa, khuấy nước bắt cá, và tốt nhất là vứt bỏ nhà cái tể tướng hoặc thủ phụ là nhà cái (cứ coi hoàng đế là ông chủ của sòng bạc, bất luận ai thắng ai thua, ông chủ luôn có “tiền hồ”, cho nên có hoàng đế còn khích lệ trò chơi này), tự nhiên người ta xông vào người đứng đầu. Huống chi lúc đó, phần tử gây rối lại có miệng lưỡi rất hay(4). Thẩm Thời Hành đành phải xin lui. May sao có sự ủng hộ của Vạn Lịch, việc xin lui của Thẩm Thời Hành không mất nhiều sĩ diện.

(4) Đề mục này chính là vấn đề lập tự của nhà vua, trong cuốn sách này không triển khai. Độc giả có hứng thú, xin tham khảo hai cuốn “Mười lăm năm Vạn Lịch” của Hoàng Nhân Vũ và “Đầu và cuối của ba vụ án” của Ôn Công Nghĩa (Tác giả).

Hải Thụy, Trương Cư Chính, Thẩm Thời Hành, ba người có tính cách, quan điểm, tác phong khác nhau, nhưng đều thất bại bởi cùng một đối tượng - tập đoàn quan văn hoặc quan trường, còn ba người họ lại luôn muốn cải thiện hoặc ủng hộ quan trường. Hải Thụy lấy mình làm nguyên tắc, muốn lấy đạo đức để loại bỏ tệ hại, kết quả là tiếng oán than khắp nơi; Trương Cư Chính muốn cách tân, lấy pháp lệnh để thúc đẩy tinh thần kết quả là nhiều người chống lại; Thời Hành lại thỏa hiệp vỗ về, mong điều hòa và duy trì đoàn kết, kết quả bạn bè phản lại, người thân xa rời. Họ đều thất bại, “thương thay vô bổ, hao tổn tinh thần”. Rõ ràng, đất nước đã hết thuốc chữa!

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3