Giấc mơ Trung Quốc - Chương 04 - Phần 01
Chương IV: DÙNG TÍNH CÁCH TRUNG HOA XÂY DỰNG “VƯƠNG ĐẠO TRUNG QUỐC”
Ngày 28 tháng 11
năm 1924, khi dự buổi mít tinh hoan nghênh của 5 đoàn thể Hội nghị Thương nghiệp
Kobe ở Nhật Bản, Tôn Trung Sơn đọc “Diễn văn trước các đoàn thể Hội nghị Thương
nghiệp Kobe”, trong đó ông nói: “Văn hóa phương Đông là Vương đạo[1], văn hóa
phương Tây là Bá đạo; nói vương đạo là chủ trương nhân nghĩa đạo đức, nói bá đạo
là chủ trương công lợi cường quyền. Nói nhân nghĩa đạo đức là dùng chính nghĩa
công lý để cảm hóa người; nói công lợi cường quyền là dùng súng ống phương Tây
để áp bức con người”.
Bản chất văn hóa của
“Vương đạo” là nhân nghĩa đạo đức. Tức là theo nguyên tắc “Kỷ sở bất dục, vật
thi ư nhân [Điều mình không muốn thì chớ đem lại cho người khác]”, kiên trì
thái độ bình đẳng, công bằng, thành tín, rộng lượng, vận dụng sức mạnh nhân
nghĩa đạo đức để cảm hóa người ta, chứ không phải là áp bức người; yêu cầu mọi
người có đạo đức chứ không phải yêu cầu mọi người sợ uy quyền, là dùng lý để
thuyết phục người ta chứ không phải dùng sức mạnh trị người ta. Trong thế kỷ
XXI, cái “Trung Quốc vương đạo” chúng ta cần xây dựng là một nước Trung Quốc lớn
mạnh không làm bá quyền, không áp bức người khác, đạo đức cao thượng, đáng thân
mật đáng kính nể.
[1] Vương đạo: “đạo của người làm vua” trong triết học
chính trị phong kiến Trung Quốc, ý nói chính sách dùng nhân nghĩa trị thiên hạ
của vua chúa phong kiến Trung Quốc. Ngược lại là Bá đạo: chính sách dùng vũ lực,
cường quyền để trị thiên hạ; bá đạo còn có nghĩa là ngang ngược xấc láo.
I. Sức thu hút của “Tính cách Trung Hoa”
Mỗi quốc gia đều có
tính cách của mình; nó thể hiện tính chất quốc gia. Trung Quốc có tính cách của
mình, thể hiện tính chất quốc gia Trung Quốc.
Yêu hòa bình mà
không lạm dụng vũ lực: Nỗi kinh ngạc của các học giả Anh, Mỹ
Nhà triết học Anh
Bertrand Russell từng nói: “Ham muốn thống trị kẻ khác (của người Trung Quốc)
rõ ràng yếu hơn nhiều so với người da trắng. Nếu trên thế giới có một dân tộc
“kiêu hãnh tới mức không chịu đánh nhau”, thì dân tộc đó là Trung Quốc. Thái độ
bẩm sinh của người Trung Quốc là khoan dung và hữu hảo, dùng lễ đối xử với người
khác và mong muốn được đền đáp”. Russell cho rằng tính cách của người Trung Quốc
bất lợi cho chiến tranh, là kiểu tính cách hướng về hòa bình. Ông rất ngạc
nhiên về tinh thần khoan dung và nhẫn nại mãnh liệt trong tính cách của người
Trung Quốc.
Học giả Mỹ cận đại
Brzezinski nói: “Khi đế quốc Trung Hoa tới lúc cực thịnh, nó có thể kiêu ngạo
liếc nhìn toàn cầu, không cường quốc nào có khả năng thách thức địa vị đế quốc
của nó; giả thử Trung Quốc có dã tâm bành trướng thì cũng chẳng có quốc gia nào
đủ sức chống lại. Đế quốc Trung Hoa không quá ư cưỡng chế quyền uy trung ương
lên đầu các dị tộc hoặc các thuộc quốc ở xung quanh nó về địa lý”.
Qua đó có thể thấy
Trung Quốc là một quốc gia không xâm lược các nước nhược tiểu, lại cũng là một
quốc gia không đe dọa các nước xung quanh. Không những không coi các nước nhược
tiểu là kẻ địch, không động một tý là dùng chiến tranh đối xử với họ, hơn nữa
còn dùng thái độ khiêm nhường để hòa giải mâu thuẫn, dùng đạo nghĩa và lợi ích
để tiến hành vỗ về an ủi, thậm chí nhiều lần kết thân với đối thủ, biến kẻ địch
thành thân thích. Thí dụ hoàng đế Khang Hy đời nhà Thanh gả con gái mình cho
Cát Nhĩ Đan thủ lĩnh Mông Cổ từng gây ra phản loạn. Mãi cho tới khi Cát Nhĩ Đan
lật lọng thất thường, cuối cùng Khang Hy bất đắc dĩ mới phải tiêu diệt hắn.
Dân tộc Trung Hoa
dùng lòng yêu mình để yêu người, tuân theo nguyên tắc chiến lược người không đụng
đến ta thì ta không đụng đến người, là một dân tộc nhân ái, dân tộc lương thiện
yêu hòa bình mà không lạm dụng vũ lực. Đúng như Tôn Trung Sơn từng nói: “Dân tộc
Trung Hoa ta hòa bình, tôn trọng pháp luật, đó là bẩm tính, trừ phi bất đắc dĩ
xuất phát từ nhu cầu tự vệ thì quyết không chịu dễ dàng gây chiến tranh”.
Quốc lực lớn mạnh
mà không chinh phục: quan sát của Matteo Ricci
Người Trung Quốc
khác hẳn người châu Âu, vì Trung Quốc là quốc gia tuy quốc lực lớn mạnh nhưng
không có tham vọng chinh phục. Đây là kết luận của nhà truyền giáo người Ý
Matteo Ricci[2] cách đây 400 năm, sau khi ông đã sinh sống khảo sát ở Trung Quốc
trong 30 năm.
[2] Matteo Ricci: nhà truyền đạo Thiên Chúa, 1552-1610,
tên chữ Hán là Lợi Mã Đậu (Li Ma-T’eou), 1582 đến Trung Quốc, 1601 tới Bắc
Kinh, quen nhiều học giả ở đây, có công giới thiệu khoa học tự nhiên phương Tây
cho Trung Quốc.
Thời xưa trong số
những người châu Âu từng đến Trung Quốc có hai người nổi tiếng nhất, đó là
Marco Polo đời nhà Nguyên và Matteo Ricci đời nhà Minh. Tháng 8 năm 1582 Matteo
Ricci đến Macau, sau đó đến Triệu Khánh, Thiều Châu, Nam Xương, Nam Kinh, Bắc
Kinh; tháng 5 năm 1610 tạ thế và an táng tại Bắc Kinh.
Theo quan điểm của
Matteo Ricci thì Trung Quốc là một quốc gia kỳ lạ khác với châu Âu. Cương vực
Trung Quốc rộng lớn vô biên, dân đông không đếm xuể, vật sản nhiều loại, cực kỳ
phong phú. Tại vương quốc trung ương này cho dù họ có lục quân và hải quân
trang bị tốt, có thể dễ dàng chinh phục các nước lân cận, nhưng bất kể quốc
vương hay là nhân dân của ông lại đều chưa từng nghĩ tới việc tiến hành một cuộc
chiến tranh xâm lược. Họ hoàn toàn thỏa mãn với những thứ họ có và hoàn toàn
không hăng hái muốn chinh phục. Về mặt này họ khác hẳn người châu Âu. Người
châu Âu thường bất mãn với chính phủ mình, thèm muốn có những thứ người nước
khác được hưởng thụ. Các quốc gia phương Tây đã bị ý tưởng xưng bá thế giới
hành hạ làm cho sức cùng lực kiệt, thậm chí họ chẳng thể được như người Trung
Quốc đã làm trong thời gian dài lâu tới mấy nghìn năm là giữ gìn được di sản tổ
tiên để lại. Matteo Ricci là một người châu Âu, thế mà ông thực thà vạch ra được
“tính cách hòa bình” không tha thiết chinh phục của người Trung Quốc từ vua cho
đến dân, điều đó thể hiện phẩm cách không kiêng dè người thân ở châu Âu của
ông.
Người Ý Matteo
Ricci ở xa tít tận chân trời đã thể nghiệm được tính cách Trung Quốc ngay trên
đất Trung Quốc, ở gần Trung Quốc có cựu Thủ tướng Malaysia Mahathir Mohamad thì
từ tầm nhìn của “người hàng xóm” nói về lĩnh hội của mình: “Giao thương giữa
Malaysia với Trung Quốc đã có lịch sử hơn 1.000 năm, ở Malaysia có rất nhiều
người Trung Quốc, xưa nay chúng tôi chưa bao giờ bị Trung Quốc chinh phục. Thế
nhưng người châu Âu từ ngoài xa 8.000 dặm Anh lại chinh phục chúng tôi. Cho nên
thái độ của Trung Quốc khác châu Âu. Trung Quốc đến đây vì buôn bán, người châu
Âu đến đây không vì buôn bán mà vì chiến tranh. Cuối cùng họ chinh phục bạn
hàng của mình. Bởi vậy chúng tôi không e ngại Trung Quốc mà e ngại người châu
Âu”.
Trung Quốc hùng mạnh
mấy nghìn năm mà các quốc gia nhược tiểu ở xung quanh như An Nam[3], Miến Điện[4],
Thái Lan vẫn có thể giữ được độc lập. Về sau gió Âu thổi tới phương Đông, An
Nam bị Pháp tiêu diệt, Miến Điện bị Anh tiêu diệt, Cao Ly bị Nhật tiêu diệt.
Chính sách “Giúp kẻ nhỏ yếu và kẻ gặp khó khăn”[5] của Trung Quốc hình thành sự
tương phản rõ rệt với chính sách “cá lớn nuốt cá bé” của phương Tây.
Quốc lực lớn mạnh
mà không chinh phục - theo sự khảo chứng của Tôn Trung Sơn tính cách này của
Trung Quốc hình thành từ đời Hán. Thời nhà Hán nói chung các nhà ngôn luận lớn
đều cực lực phản đối chủ nghĩa đế quốc, trong đó nổi tiếng nhất là “bàn luận việc
bỏ quận Châu Nhai” [ tức sự kiện “Khí Châu Nhai Nghị”][6] phản đối Trung Quốc mở
rộng lãnh thổ, chủ trương không thể cùng Man Di phía Nam tranh giành đất đai. Bởi
vậy, vào thời nhà Hán Trung Quốc chủ trương không chiến tranh với người nước
ngoài; tư tưởng hòa bình của Trung Quốc ở thời nhà Hán đã thể hiện rất đầy đủ.
Đến đời Tống, Trung Quốc không những không xâm lược nước khác mà ngược lại bị
người khác xâm lược, cuối cùng nhà Tống bị Mông Cổ tiêu diệt. Sau khi mất nhà Tống,
tới triều Minh mới phục quốc. Sau khi triều Minh phục quốc thì không xâm lăng
nước ngoài nữa.
[3] An Nam: tên
cũ do triều đại nhà Đường Trung Quốc đặt cho Việt Nam.
[4] Miến Điện:
tên cũ của Myanma.
[5] Nguyên văn
chữ Hán: Tế nhược phù khuynh.
[6] Khí Châu
Nhai Nghị: “Bàn việc bỏ quận Châu Nhai”. Năm 112 tr. CN. Hán Vũ Đế chinh phục
nước Nam Việt (thuộc Quảng Đông, đảo Hải Nam), lập 9 quận trên đảo Hải Nam,
trong đó có quận Châu Nhai. Nhưng quận này thường xuyên nổi lên chống nhà Hán;
quân nhà Hán bất lực không đàn áp nổi. Năm 46 tr. CN, Hán Nguyên Đế trưng cầu ý
kiến quần thần giải quyết vấn đề này. Quan Giả Quyên Chi đề nghị bỏ quận Châu
Nhai, nhà vua chấp nhận và hạ chiếu chính thức bỏ quận Châu Nhai.
Một số người châu Âu cũng hiểu rằng nếu Trung Quốc
là một quốc gia hăng hái đi chinh phục nước khác thì lịch sử châu Âu đã phải viết
lại. Paul Braken giáo sư đại học Yale (Mỹ) nói: “Mọi người đã quên mất là trước
đây 500 năm Trung Quốc là siêu cường duy nhất trên thế giới. Khi nhiều người
châu Âu còn ở nhà tường đất thì Trung Quốc đã là quốc gia kinh tế và quân sự
hùng mạnh nhất trên trái đất. 100 năm trước khi châu Âu bắt đầu thống trị châu
Á và châu Mỹ, Trung Quốc đã có hải quân lớn mạnh và giỏi nhất thế giới. Nếu
không phải là sự ngẫu nhiên của lịch sử thì có thể ngày nay châu Âu nói tiếng
Trung Quốc”.
Tài nguyên thiếu mà không bành trướng: So sánh với
Âu - Mỹ
Mọi người hay dùng từ “đất đai rộng lớn, sản vật
phong phú” để hình dung Trung Quốc; trên thực tế vì đông dân nên Trung Quốc rất
căng thẳng về tài nguyên. Điều đó dẫn tới cạnh tranh kịch liệt, mâu thuẫn gay gắt
hơn. Phương Tây có thói quen chiến lược là xuất khẩu mâu thuẫn, qua xâm lược
bành trướng ra bên ngoài để chuyển hóa mâu thuẫn nội bộ thành mâu thuẫn bên
ngoài nhằm hòa hoãn khủng hoảng trong nước. Nhưng đặc điểm của Trung Quốc là dù
tài nguyên căng thẳng đến đâu cũng thà chịu đấu tranh nội bộ dù trời long đất lở
chứ không gây chiến tranh chiếm đất bên ngoài. Trung Quốc không có thuộc địa.
Do các nguyên nhân về khí hậu và địa mạo (lắm núi và
sa mạc), xét theo tiêu chuẩn quốc tế, tỷ lệ đất canh tác được so với tổng diện
tích lãnh thổ của Trung Quốc là rất nhỏ. Trung Quốc là quốc gia loài người định
cư từ rất xa xưa nhưng tới cuối thế kỷ XX diện tích đất trồng trọt chỉ chiếm có
10% tổng diện tích lãnh thổ, ở châu Âu tỷ lệ này là trên một phần tư. Bình quân
diện tích đất canh tác của mỗi người lao động nông nghiệp Trung Quốc chỉ có một
phần ba hec ta, còn ở Mỹ là 99 hec ta. Trong 1.000 năm qua số dân Trung Quốc từ
55 triệu tăng lên tới 1,3 tỷ người, tăng gần gấp 22 lần. So với châu Âu và Mỹ,
Trung Quốc trước nay đều phải chịu một sức ép dân số đối với đất đai vô cùng nặng
nề. Trong thiên niên kỷ trước đây, so với người châu Âu hồi trung thế kỷ hoặc
hiện đại, người Trung Quốc ăn rất ít thực phẩm thịt, người lớn không ăn sữa, hầu
như không tồn tại các sản phẩm chế biến từ sữa. Sự phụ thuộc vào tiêu dùng
lương thực thì có liên quan với nạn thiếu đất, bởi lẽ protein và nhiệt lượng hấp
thu từ lương thực (chứ không phải từ thực phẩm động vật), càng ít có nhu cầu đất
đai. Nhưng trong tình hình đó người Trung Quốc vẫn không bành trướng ra khai
thác ở nước ngoài. Tài nguyên dù căng thẳng tới đâu cũng không đi xâm lược và
cướp đoạt đất đai và tài nguyên của người khác. Xưa nay Trung Quốc chưa từng xảy
ra cái gọi là chiến tranh tài nguyên với các nước khác. Trung Quốc là anh chàng
đàn ông khoẻ mạnh dù chết đói cũng không cướp thức ăn của kẻ khác.
Phòng ngự tự vệ mà không tấn công trước: Đánh giá của người Nhật
Làm một nước văn minh, làm người thầy đề cao nhân
nghĩa; người không xâm phạm ta, ta không xâm phạm người, không tấn công trước;
phản kích tự vệ có lý, có lợi, có kiềm chế; lấy ân báo oán, không trả thù.
Trung Quốc chưa bao giờ tấn công trước, đây lại là một đặc điểm của tính cách
Trung Quốc.
Daisaku Ikeda, một nhân sĩ tôn giáo, nhà văn hóa và
nhà hoạt động xã hội nổi tiếng Nhật Bản từng nói: “Về bản chất, người Trung Quốc
theo chủ nghĩa thận trọng, mong muốn nước mình được hòa bình yên ổn. Trên thực
tế, chỉ cần không xâm phạm trước Trung Quốc thì người Trung Quốc không bao giờ
tấn công kẻ khác trước. Trong lịch sử cận đại, các cuộc chiến tranh Thuốc phiện,
chiến tranh Trung Quốc - Nhật Bản, chiến tranh Triều Tiên và các cuộc chiến
tranh có liên quan đến Trung Quốc cho tới nay, dù là loại chiến tranh nào đều
có thể gọi là chiến tranh tự vệ. Trong quan hệ quốc tế cận đại, Trung Quốc chưa
có tiền lệ “tấn công trước””.
Katō Shūichi nhà sử học văn minh Nhật khi trả lời phỏng
vấn của Đài Truyền hình Trung ương từng nói: “Trong xử lý quan hệ với nước
ngoài, Nhật Bản có tính công kích tương đối mạnh, khi cảm thấy có nguy cơ thì
thường ra tay trước. Nhật luôn dựa vào sức mạnh quân sự, trong thời gian rất ngắn
đột nhiên có hành động quân sự một cách bùng nổ, có tính cực đoan, tính giật cục.
Trung Quốc tương đối bình tĩnh, khó thấy nơi nào Trung Quốc sử dụng vũ lực trước
tiên.”
Văn minh quân sự Trung Quốc từng làm thế giới cảm động.
Sau thắng lợi chiến tranh chống Nhật, Trung Quốc từ bỏ khoản bồi thường chiến
tranh của Nhật; thi hành chính sách giáo dục, cải tạo và cuối cùng phóng thích
các phạm nhân chiến tranh Nhật; nuôi dưỡng trẻ con mồ côi do quân Nhật xâm lược
bỏ lại, thể hiện tấm lòng lấy ân trả oán. Trong chiến tranh chống Mỹ giúp Triều,
Trung Quốc thực hành chính sách nhân đạo với tù binh chiến tranh. Tù binh Mỹ
nói: “Trung Quốc là quốc gia văn minh nhất thế giới”. Thân nhân tù binh Mỹ viết
thư ca ngợi chính sách ưu đãi tù binh của quân đội Trung Quốc “như người mẹ”.
Trong cuộc chiến tranh phản kích tự vệ với Ấn Độ, trong tình hình thắng lớn,
quân đội Trung Quốc không thừa thắng truy kích mà dứt khoát rút về tuyến kiểm
soát thực tế vốn có để tỏ thành ý hòa bình. Không những thả toàn bộ tù binh mà
Trung Quốc còn chủ động trả lại rất nhiều vũ khí trang bị cho phía Ấn Độ. Trong
lịch sử chiến tranh thế giới chưa từng có tiền lệ như vậy.
Bao dung văn minh mà không xung đột: Cảm nhận của
người Do Thái
Nền văn minh Trung Quốc có tấm lòng rộng mở, trong bầu
không khí văn minh Trung Hoa không có sự đụng độ, đối kháng giữa các nền văn minh
mà chỉ có cái bắt tay văn minh, cái ôm nhau văn minh, sự bao dung văn minh, sự
hòa hợp văn minh, cứu trợ văn minh.
Thủ tướng Israel Ehud Olmert từng nói: “Chúng tôi có
tình cảm yêu mến sâu sắc với nhân dân Trung Quốc và cảm ơn họ khôn xiết về việc
người Do Thái ở Thượng Hải và Cáp Nhĩ Tân được đối xử ấm áp và hữu hảo trong thế
kỷ XX và trong thời gian Thế chiến II”.
Trong lịch sử từng có một số người Do Thái đến Trung
Quốc, lập phường hội của họ tại các nơi như Khai Phong. Các đoàn thể của người
Do Thái trên thế giới đều rất có sức ngưng tụ, đó là do sự phân biệt đối xử và
sức ép lớn đến từ bên ngoài khiến người Do Thái vì để sống còn và phát triển mà
không thể không lập đoàn thể. Nhưng ở Trung Quốc thì lại xuất hiện ngoại lệ độc
đáo, cũng chỉ ở Trung Quốc, do không phải chịu bất cứ sức ép từ bên ngoài và sự
kỳ thị mà các đoàn thể người Do Thái thực hiện được việc hòa nhập với nền văn
hóa Trung Quốc. Hồi thế kỷ XIX khi người phương Tây đến Trung Quốc thấy các
đoàn thể Do Thái từ lâu đã thực hiện hòa nhập với văn hóa Trung Quốc, hai nền
văn hóa này đã khó tách ra khỏi nhau, họ cảm thấy ngạc nhiên và khó tin. Tính
cách văn minh phương Tây gây ra sự xung đột giữa các nền văn minh khác nhau,
nhưng tính cách văn minh Trung Quốc thì thực hiện sự hòa nhập các nền văn minh.
Từ thời viễn cổ cho tới thời kỳ lập triều đại nhà
Thanh, người Trung Quốc luôn luôn giữ quan hệ khăng khít với các nước xung
quanh, không hề kỳ thị thương nhân và giáo sĩ nước ngoài. Tấm Bia Cảnh giáo ở
Tây An nói lên việc các nhà truyền giáo nước ngoài hồi thế kỷ 7 sau công nguyên
đã tiến hành truyền bá Phúc Âm tại vùng này. Phật giáo truyền vào Trung Quốc thời
nhà Hán, nhân dân rất nhiệt tình hoan nghênh tôn giáo mới này. Sau đó Phật giáo
ngày một phồn thịnh, nay đã là một trong ba tôn giáo lớn chủ yếu ở Trung Quốc.
Không những giáo sĩ mà các thương nhân cũng được phép tự do du lịch dọc ngang
trong nội bộ đế quốc Trung Hoa. Thậm chí mãi cho đến cuối đời nhà Minh, Trung
Quốc còn chưa có chút dấu hiệu bài ngoại nào cả. Một trăm năm trước, Tôn Trung
Sơn từng kêu gọi người Mỹ như sau: “người Trung Quốc về bản tính không phải là
dân tộc bế quan tỏa cảng, không phải là dân tộc bài ngoại”.
Về sau vì sao lại xuất hiện hiện tượng “bài ngoại”.
Đó là do phương Tây dùng tàu chiến súng lớn xâm lược và cướp bóc Trung Quốc,
người Trung Quốc chỉ có thể vùng lên chống lại. Nói đúng ra đây không phải là
“bài ngoại” mà là “kháng ngoại”.
Vương đạo lập quốc mà không bá đạo: khái quát của
Tôn Trung Sơn
Tính cách của Trung Quốc là tính cách vương đạo chứ
không phải bá đạo; Trung Quốc dựa vương đạo để dựng nước chứ không dựa bá đạo để
dựng nước. Vương đạo là tôn chỉ quốc gia của Trung Quốc cũng là đạo đức quốc
gia của Trung Quốc.
Nói về đạo đức quốc gia Trung Quốc dùng vương đạo để
dựng nước, trong bài “Chủ nghĩa Tam Dân” của Tôn Trung Sơn năm 1924 có trình
bày cặn kẽ: “Nói tới đạo đức vốn có của Trung Quốc cho đến nay người Trung Quốc
chưa thể quên, trước hết là trung hiếu, thứ hai là nhân ái, thứ ba là tín
nghĩa, sau nữa là hòa bình. Rất nhiều người nước ngoài làm ăn tại Trung Quốc
thường hay ca ngợi người Trung Quốc, họ bảo người Trung Quốc nói một câu còn giữ
chữ tín hơn cả bản hợp đồng người nước ngoài lập ra. Còn nói về chữ “nghĩa”, ở
thời đại rất cường thịnh Trung Quốc cũng không đi tiêu diệt nước ngoài. Thí dụ
Cao Ly thời xưa trên danh nghĩa là phiên thuộc của Trung Quốc, thực ra là một
nước độc lập. Trung Quốc cường thịnh mấy nghìn năm mà Cao Ly vẫn tồn tại; Nhật
Bản mới mạnh lên chưa đầy 20 năm đã diệt Cao Ly rồi. Trung Quốc mấy nghìn năm
tha thiết yêu hòa bình đều xuất phát từ bẩm tính. Nói về cá nhân thì trọng
khiêm nhường, nói về chính trị thì “kẻ nhân ái có thể thống nhất thiên hạ”[7],
khác hẳn người nước ngoài. Vì thế đạo đức cổ xưa của Trung Quốc như trung hiếu,
nhân ái, tín nghĩa cố nhiên là hơn hẳn người nước ngoài; nói tới đạo đức hòa
bình thì lại càng cao hơn người nước ngoài. Loại đạo đức đặc biệt tốt ấy là
tinh thần dân tộc ta. Sau này chúng ta không những phải gìn giữ mà còn phải
phát huy tinh thần đó”.
[7] Nguyên văn
chữ Hán: Bất thị sát nhân giả năng nhất chi, là một danh ngôn của Mạnh Tử
Con đường đúng đắn của loài người là Vương đạo: Tính
cách Trung Hoa nhất định sẽ đi ra thế giới
Lịch sử thế giới cận đại là lịch sử của sự đối lập
chiến lược văn hóa giữa các nước lớn, của sự cạnh tranh giữa văn hóa phương
Đông với văn hóa phương Tây, là lịch sử so sánh và xung đột giữa văn hóa vương
đạo với văn hóa bá đạo.
Ngày 28 tháng 11 năm 1924, trong bài “Diễn thuyết
trước các đoàn thể của hội nghị Thương nghiệp Kobe” tại Nhật Bản, Tôn Trung Sơn
nêu ra một vấn đề như sau: Nếu so sánh văn hóa bá đạo với văn hóa vương đạo, rốt
cuộc loại văn hóa nào có ích cho chính nghĩa và nhân đạo? Loại nào có lợi cho
dân tộc và quốc gia? Câu trả lời của Tôn Trung Sơn trong bài nói trên là: Trào
lưu văn hóa thế giới là văn hóa công lợi cường quyền của phương Tây sẽ phải phục
tùng văn hóa nhân nghĩa đạo đức của phương Đông. Đó tức là bá đạo phải phục
tùng vương đạo; văn hóa thế giới ngày càng hướng tới phía tươi sáng. Trong bài
diễn thuyết đó Tôn Trung Sơn có nhắc nhở nước Nhật một câu: “Gần đây châu Á học
văn hóa võ công của châu Âu, nước Nhật học hoàn hảo nhất. Dân tộc Nhật Bản các
bạn đã học được văn hóa bá đạo của Âu - Mỹ, lại có bản chất của văn hóa vương đạo
châu Á, từ nay trở đi đối với tiền đồ văn hóa thế giới, rốt cuộc là làm chó săn
chim mồi cho bá đạo phương Tây hay là làm tướng sĩ bảo vệ vương đạo phương
Đông, việc này quốc dân Nhật Bản các bạn nên thận trọng suy xét lựa chọn”.
Trong sách “Triển vọng thế kỷ XXI”, sử gia người Anh
Toynbee dự báo: “Thống nhất thế giới là con đường tránh để loài người tự sát tập
thể. Dự đoán sự thống nhất thế giới sẽ được thực hiện trong hòa bình. Về điểm
này trong số các dân tộc hiện nay thì dân tộc có sự chuẩn bị đầy đủ nhất là dân
tộc Trung Hoa; hai nghìn năm qua họ đã trau dồi được một phương pháp tư duy độc
đáo”.