16. Lúc nửa đêm - Phần 2
“chị đến nhà anh ta, chị gặp mẹ anh ta và chị quỳ trước mặt bà,
như khi người ta hành lễ thờ chúa, thờ thần, chị đã quỳ như vậy, chị gọi bà ta
là mẹ, chị cầu khẩn bà cho phép chị lấy con trai của bà. Và rồi bà ta nói, bà
ta nói gì đó mà chị không tài nào nhớ được, nhưng những điều kinh khủng thì sẽ
vẫn vô cùng kinh khủng, dù nó có thế nào và dù nó có bị nỗi sợ hãi lấn át làm
quên đi” – Sam ngừng một lát, chị khóc như một trận mưa, âm ỉ và kéo dài – “sau
đó chị nhận ra mọi thứ xung quanh chị bị bao phủ bởi những mảng màu trắng đục.
Chị thấy mình điên dại và chị có thể nhìn thật rõ, chị biết mình đang làm gì,
đang ở đâu nhưng đôi chân vẫn tiến về phía trước. Chị hành hạ chính mình, và
khi chị lên giường đi ngủ, chị cầu nguyện rất lâu rằng chị sẽ không phải thức dậy
vào ngày mai, dù đôi lần chị khóc trong giấc mơ và chị cầu xin đấng toàn năng
hãy buông tha cho chị, chị muốn được quay lại cuộc sống bình thường, được bỏ
quên và chạy trốn khỏi đây, khỏi tất cả những ai chị từng quen biết. Và Người,
chắc là đã nghe thấy chị” – Sam thì thầm, nhưng chị không nhìn vào tôi, chị
đang nói với chính mình – “và chị ở đây. Tuổi mười lăm của chị, rồi mười sáu,
mười bảy. Nhưng mà, em này, nó cũng ở đây. Chính giữa nơi này, chị có thể cảm
nhận được” – Sam nhìn vào mắt tôi và không nói gì thêm nữa, chị đứng dậy, bỏ đi
trước cả khi tôi kịp ngoái đầu lại dõi theo hình bóng chị bị ánh sáng xô nghiêng.
Tôi không gặp lại Sam cho đến khi chị ra trường. Lễ tốt nghiệp của
khối Lớn diễn ra vào mùa hè, giữa độ tháng Năm. Tôi nghe nói, Sam sẽ được chuyển
tới một ngôi trường lớn hơn, nằm ở phía đông và gần bờ biển. Chị chào tôi khi
khối Lớn diễu hành khắp sân trường, tôi đứng đầu hàng của lớp nên chúng tôi có
thể thấy nhau ngay. Khuôn mặt Sam vẫn chẳng thay đổi gì so với buổi chiều hôm
đó, đôi mắt chị vẫn có cái vẻ của một vết rạn vừa mới khóc xong, làn da tái nhợt
nhạt hẳn đi dưới ánh nắng chói chang của một ngày chính hạ, và tôi tự hỏi có
khi nào ở đó có cả một sức nặng, một lực đè đang nghiến lên đôi vai đang giương
ngang của chị hay không. Tôi mỉm cười đáp lại. Chúng tôi không bao giờ gặp lại
nhau. Sau hôm đó, tôi bắt đầu nói chuyện lại với Tang. Ban đầu tôi kể cho cô
chuyện đã xảy ra với Sam, tôi nói có lẽ, biết đâu, nếu Tang cũng có một chuyện
gì để kể cho tôi nghe, một chuyện gì mà chỉ mình cô biết. Tang không nhìn thẳng
vào tôi, đôi mắt cô lảng tránh bám lấy những đụn mây di cư nhàn tản trên bầu trời.
Cô dựa người bên bậu cửa sổ phòng học, trên tay cô cầm lon nước quả mà cô yêu
thích nhất, một lon Tree Top vị táo rừng. Kim phút như bị bẻ làm đôi, khoảng thời
gian lưng chừng giữa sự đợi chờ dai dẳng đầy khấp khởi và tiếng chuông báo hiệu
hết giờ, Tang hoàn toàn im lặng. Khi tiếng chuông vang lên, Tang ngồi xuống ghế
của cô, thu dọn sách vở và đặt lon nước lên mặt bàn đã trống. Cô bắt đầu nói, bằng
cái giọng dịu dàng và hồi hộp mà tôi đã quen nghe mỗi khi cô kể một chuyện cười,
nhưng lần này và chỉ lần này, tiết tấu trong câu chuyện của cô vô cùng chậm
rãi.
Tang lớn lên trong một gia đình gốc Trung Hoa gia giáo. Bố cô làm ở
bộ ngoại giao, mẹ cô là giáo viên tiểu học. Tang đã được định sẵn khi lớn lên,
tức là khi cô đã đủ trưởng thành, cô sẽ được gả đi lấy chồng, một người đàn ông
già trong dòng họ. Cô được nuôi dưỡng như một con búp bê mắt đen, nhưng đồng thời
chính cô cũng đã từ lâu nuôi trong lòng một con thú khác. Cô lớn lên như một
bông hoa dại giữa chốn rừng xanh, nơi âm u hiểm trở đầy gai góc, nơi hổ và những
con rắn bẹt đầu xấu xí luồn lách náu mình giữa các rặng tre. Cô cắt tóc ngắn, xỏ
khuyên trên tai và trên mũi, mặc những bộ quần áo lạ lùng và đi theo những người
bạn nổi loạn của mình đến tận hang cùng ngõ hẻm. Cô nói với bố mẹ rằng cô muốn
trở thành một đứa con rơi, một đứa trẻ dù yếu đuối nhưng vì lòng tự tôn vẫn muốn
giữ lấy thanh danh cho riêng mình, mặc dù cô hãy còn quá bé để hiểu được thế
nào là thanh danh và ngày nay người ta phải đánh đổi thanh danh để giữ được mạng
sống. Cô nói, nếu ngay cả cái chết cũng không thể trở thành một lời nguyền thì
điều gì trên cõi đời này có thể ngăn cản được cô đây. Tang ra đi trong tư thế
ngẩng cao đầu. Hãy còn là một đứa trẻ, cô sống bằng tiền tiết kiệm và tiền làm
thêm trong một nhà hàng bình dân, cô bảo tôi suốt quãng thời gian đó cô chấp nhận
việc bị bạo hành về tinh thần và thể xác để đổi lấy đồng tiền. Tang mở lon nước
quả, cô uống một ngụm rồi nói tiếp, bạn của tớ à, cậu có biết là chỉ cần cậu
còn sống thôi là cậu đã thắng rồi hay không. Sau khi dành dụm được một số tiền
kha khá, Tang trở về nhà và cho bố mẹ xem cô đã làm được những gì. Người phương
Đông luôn ít nói, họ thích hành động hơn. Bố mẹ cô đã ngay tức khắc tống cô vào
trường trung học nội trú Đại Dương. Họ đến thăm cô đều đặn vào những kì thăm
nom, mua cho cô những món đồ cần thiết và nói với cô những lời yêu thương nhất
mà một bậc làm cha làm mẹ mẫu mực có thể nghĩ ra. Tang bảo, khoảng thời gian cô
ra ngoài đời và cố tự lập đó, thực chất đều chẳng là gì cả.
“đó đâu phải một cuộc chiến, tớ đã chiến thắng mà không hề có đối
thủ” – Tang mỉm cười – “còn đây, ở đây này, với bố mẹ mình, đó mới là một cuộc
chiến thật sự. Tớ khi còn bé đã từng muốn được lớn lên thật nhanh, bây giờ tớ
cũng vậy. Tớ chỉ muốn lớn lên, ra khỏi đây, hoàn toàn tự do, không bị ràng buộc
bởi bất kể điều gì. Này, cậu cũng thế phải không?” – tôi nhún vai, tỏ ý nói rằng
tôi không biết.
“cậu lúc nào cũng thế” – Tang nhíu mày – “hồi trước cũng thế, cậu
chỉ nghe tớ nói và nhìn tớ chăm chăm như là chuyện của tớ cái nào cũng buồn cười
lắm ấy, hầu như chẳng bao giờ chịu nói gì về mình, cậu hành xử như cuộc đời cậu
chẳng có một cái gì trọng đại hết. Nhưng chuyện cũ rồi và đằng nào thì chúng
mình cũng đã trò chuyện lại với nhau” – Tang đẩy bàn ra, cô xỏ lại hai chân vào
đôi giầy bệt – “khi nào gặp thì nói chuyện tiếp nhé” – cô vẫy chào tôi và bỏ lại
tôi trong lớp học. Bỏ lại ai đó ở một không gian rộng lớn nhường này, liệu điều
đó có khiến cô thấy buồn không?
Có một thời gian rất dài tôi không gặp Chal. Hàng ngày sau các tiết
học, khi tôi nhìn sang bên tay phải cậu đều không còn ở đó. Khi tiếng chuông
báo hiệu vang lên, cậu đã mau chóng biến khỏi chỗ ngồi, biến ra khỏi lớp như một
con ong, đến một nơi nào đó mà giờ đây tôi hoàn toàn không biết được. Vào giờ
Mĩ thuật, Chal luôn là người đầu tiên nộp bài và ra về sớm nhất, ai cũng đinh
ninh rằng hẳn là những bức tranh của cậu đều là tuyệt tác và khi được đem ra
chiêm ngưỡng nó sẽ khiến tất cả thích mê. Trong ngày hội kỉ niệm mười năm thành
lập trường, có một buổi triển lãm tranh của tất cả các học sinh khối Vừa. Mỗi
khi đi qua một bức tranh khiến tôi ưng ý, tôi đều nhìn xuống biển tên để kiểm
tra xem đó có phải là cậu không. Với mỗi bức tranh không phải, tôi lại tự nhủ
thầm hẳn là bức của Chal sẽ đặc sắc và vượt trội hơn. Tôi đi một vòng quanh triển
lãm, xem đi xem lại những bức đẹp nhất hàng chục lần và cúi hẳn người xuống để
xem xem người ta có đánh nhầm tên cậu không. Nhưng rồi tôi lại nghĩ Chalcedony
là một cái tên đặc biệt, đọc nhầm còn khó huống hồ là viết lại nó ra trên giấy
trắng mực đen. Thế là tôi đi thêm vòng nữa, trên đoạn đường ngoặt từ nhà vệ
sinh ra phòng triển lãm, tôi vô tình trông thấy một giá tranh nhỏ, cỡ một tấm gạch
vuông loại trung bình, trên tấm toan tranh chẳng có gì ngoài một lớp sơn dày
màu xanh thẫm, ở góc trái bức tranh có một đốm vàng nhỏ. Ngay phía dưới bức
tranh, biển đề tên màu xanh lam in rõ mồn một từng chữ cái trong tên cậu.
Chalcedony đã vẽ bức tranh này, và nếu hỏi tôi, và nếu chính cậu hỏi tôi, tôi sẽ
nói đó là một mặt biển dậy sóng. Suốt khoảng thời gian đó, hay đúng hơn, cho đến
hết mùa hè, Chal đã biến thành cái đốm sáng nhỏ màu vàng và tự vùi lấp mình dưới
đáy đại dương.
Tháng Tám qua đi, những ngày đầu tiên của mùa thu vừa chớm tới.
Chúng tôi đã lên lớp Lớn.
Mùa thu đến, ngày cũng trôi qua mau hơn. Càng gần đến sinh nhật,
tôi lại càng bồn chồn. Vậy là tôi sắp mười tám tuổi rồi, tôi sẽ ra khỏi đây và
có thể tự quyết định cuộc đời mình. Từ lâu tôi đã sớm lên một kế hoạch cụ thể
cho tương lai sau này của tôi. Ngay khi vừa ra trường, tôi sẽ đi tìm một cây cầu
thật cao nào đó và gieo mình từ trên xuống. Đó là những gì tôi định làm và sẽ
làm sau khi tốt nghiệp và rời khỏi trường trung học nội trú Đại Dương.
Chal đến tìm tôi vào một buổi tối muộn thứ Hai. Hôm đó chúng tôi
có bài tập về nhà môn tiếng Phạn, tôi đã dành cả buổi tối, thậm chí bỏ cả ăn để
đánh lộn với quyển từ điển và lúc này tôi nằm nhoài trên giường, tờ giấy bài tập
rơi lả tả trên sàn và than chì làm đen sì hết cả. Đúng lúc đó, Chal đẩy cửa bước
vào. Cậu không thèm để ý tới tôi đang nhỏm người lên để chào đón cậu, cậu đi
chân trần, mặc một cái áo sơ mi màu trắng không cài cúc, mặc quần lót và đi
lang trong đêm. Cậu bò lên giường tôi, rúc vào chăn và cậu ôm tôi, rồi cậu ngủ
thiếp. Hai đêm tiếp theo ngày nào cũng diễn ra như thế. Vào buổi sáng khi tỉnh
dậy, tôi chăm chú nhìn cậu, đôi mắt nhắm nghiền và mái tóc vàng xòa trên trán,
tôi tự hỏi liệu có phải Chal mắc chứng mộng du không. Nhưng tôi không để mình
nghĩ nhiều vì tôi nhớ cậu và vì cậu đã tìm đến tôi chứ không phải một người nào
khác. Những thắc mắc hệt như triệu chứng của một cơn buồn nôn khổng lồ không
báo trước mà bằng một cách nào đó, tôi đã nuốt trôi được nó vào lòng. Đêm thứ
tư, tôi ngồi trên giường, nhìn đồng hồ và chờ Chal đến. Như mọi khi, cậu chậm
rãi đẩy cửa bước vào, sơ mi không cài cúc, quần lót và lần này có thêm một đôi
giầy thể thao. Mũi giầy bám đầy bùn đất, có khi nào cậu vừa chạy đâu đó về
không.
“nào, nhanh lên, tớ tắt đèn còn đi ngủ” – tôi vẫy Chal từ trên giường,
đoạn lật chăn ra rồi vỗ vào chỗ trống. Còn cậu, cậu đứng ngây ra trên ngưỡng cửa,
đôi mắt xanh lơ đôi lúc lại chớp xuống liên hồi. Tôi không rõ cậu đang bối rối
hay đang cố định thần, đang cố gắng dùng trí lực yếu ớt của mình để suy xét hay
để nhớ lại xem những gì đã xảy ra trong suốt những ngày qua. Dường như mọi nỗ lực
sau một hồi vận động đều vô dụng, đôi tròng mắt của cậu lại mau mắn trở về trạng
thái mơ màng trước đó, cậu tiến về phía tôi, leo lên giường, để tôi kéo chăn
lên ngang ngực cậu, đợi tôi với tay ra tắt cây đèn ngủ và trong bóng đêm, cậu
nín thở nghe tiếng thở đều đều của tôi, rồi tôi cũng nín thở lại, và chúng tôi
ngủ lúc nào không biết.
Mọi chuyện sẽ vẫn diễn ra như thế, cho đến một hôm tôi đã đợi rất
lâu. Tôi nhìn đồng hồ rồi nhìn ra bên ngoài, những vì sao dường như cũng tắt ngấm.
Có lẽ tối nay Chal ngủ say rồi, tôi nghĩ thế rồi tắt đèn đi ngủ. Nếu lúc đó tôi
mở cửa ra và hỏi thăm ai đó, để biết được rằng Chal đã rời đi ngay trong đêm, đống
hành lí đã được người nhà thu dọn từ mấy ngày qua, quần áo được nhét vào một
chiếc va-li kéo tay ngắn gọn, và Chal chắc hẳn là đang dõi mắt về phía cửa sổ
phòng tôi từ trong chiếc ô tô của bố mẹ cậu ấy. Sáng hôm sau khi đến lớp, thầy
hiệu trưởng đột ngột đẩy cửa bước vào giữa giờ Lịch sử, và thầy Pan, thầy lại đứng
nép sang một phía. Thầy hiệu trưởng tiến về phía trước, hai tay thầy chụm lại
vào nhau, và bằng cái giọng trầm khàn thỏ thẻ của mình, thầy mỉm cười với chúng
tôi và với thầy Pan, rồi thầy nói, thầy thông báo, rằng học sinh Chal, hay
Chalcedony sẽ chính thức không còn là học sinh trường trung học nội trú Đại Dương
kể từ ngày hôm nay, cậu ấy sẽ được gia đình chuyển sang một ngôi trường mới và
tất cả chúng ta đều hi vọng những điều tốt đẹp nhất dành cho cậu. Khi thầy hiệu
trưởng bước ra khỏi lớp, và như mọi khi, tiết học không bao giờ nối lại như xưa
được nữa. Đã có một vệt nứt gãy ở giữa khoảng thời gian có Chal và khoảng thời
gian mới được tạo nên lúc này, khoảng thời gian mà ở đó không có cậu. Tôi ngồi
yên trên ghế, lắng nghe những lời bàn tán xì xào của đám bạn học kế bên. Có người
nói bệnh của Chal tự nhiên trở nặng nên người nhà mới phải cuống cuồng chuyển
đi, có người lại thì thào, các cậu có thấy tự nhiên thằng Chal trở nên lầm lì
hơn không, nó không chơi đá bóng nữa, cũng chẳng thấy đi bơi, cũng chẳng kể
chuyện cười, nó ăn rất nhanh và làm gì cũng rất nhanh, nó luôn biến đi trước cả
khi người ta kịp nghĩ đến việc gọi tên nó. Tôi dỏng tai nghe không sót lấy một
từ. Và tôi nhớ đến Chal đi đâu đó trong đêm, cậu mặc chiếc áo sơ mi màu trắng
và đôi chân trần như thể cậu tự đánh dấu chính mình bởi nỗi sợ hãi bị bóng đêm
nuốt lấy. Cậu tìm đến tôi bởi cậu quá sợ việc phải ngủ một mình. Rốt cuộc, tôi
không thể biết được chuyện gì đã xảy đến với Chal trong suốt quãng thời gian
qua, và việc gì đã xảy ra cho cậu ấy từ trước đó nữa.
Tôi lân la thăm dò khắp xung quanh, từ đám học sinh trong đội bóng
đá của Chal, đội bơi và đội chạy bền, tất cả đều có một câu trả lời như nhau.
Chúng tôi không biết, từ lâu rồi Chalcedony không còn tham gia một thứ gì. Các
tiết học buổi chiều tôi đi loanh quanh trong trường, hi vọng sẽ có cái gì rơi
xuống nói cho tôi biết chút gì đó về Chal. Nhưng chỉ là vô vọng. Tôi đến trước
bể bơi và nhìn qua tấm kính, tôi đã mong đợi điều gì khi tới đây? Tôi mong lại
được nhìn thấy Chal nằm dài thảnh thơi bên thành bể, sau khi đã bơi một chục
vòng hay ba chục vòng, tôi có mong lại được nhìn thấy cậu ngửa mặt lên trần nhà
và những ngón tay mảnh khảnh thế lại có thể bóp nát một lon bia. Đôi mắt xanh
lơ rơi xuống và ra đi cùng mùa thu. Đối với tôi, Chal cũng giống mùa hè. Nóng bức
và oi nồng, và làm người ta khó chịu chỉ muốn tránh xa, nhưng khi nó đã qua đi,
người ta sẽ dành tất cả những mùa còn lại để làm thơ và viết văn chương và ca tụng
về nó và thương tiếc nó. Chal là mùa hè của tôi, và cậu đã ra đi không cách nào
lấy lại được.
Chẳng mấy chốc khi không có bất kì ai cạnh bên và con người ta bắt
đầu thấy cô đơn, thì thời gian bỗng trôi đi nhanh không tưởng. Mùa thu qua đi,
tôi đã mười tám tuổi. Tôi dành cả mùa đông để đi đến thư viện trò chuyện với những
người bạn cùng khối Lớn. Tôi biết được thêm rất nhiều nỗi thương lòng khác và để
giữ kín chúng, tôi viết về chúng trong nhật kí như một thói quen.
Ngày 25 tháng 9 – 1 giờ 30 phút sáng.
Hôm nay mình đã nói chuyện với cái bạn tóc cam. Tên bạn ấy là Org,
mình đã hỏi bạn ấy có phải tên thế là vì màu tóc không, bạn ấy mỉm cười bảo
đúng là vậy. Mình nói mình là người lưu giữ nỗi buồn, mình bảo Org, nếu bạn ấy
có chuyện phiền lòng mà nói ra với mình, tâm trạng sẽ nhẹ nhõm hơn. Ban đầu Org
nói không nhiều, chủ yếu toàn đặt câu hỏi cho mình. Nhưng rồi khi mình kể cho
Org nghe chuyện của Sam, bạn ấy liền ngồi thẳng dậy và khép mắt lại rồi mở mắt
ra, và bạn ấy bắt đầu kể. Org yêu anh trai của bạn ấy và khi gia đình biết chuyện,
anh trai bạn ấy tự sát, Org nắm hai bàn tay bạn ấy lại vào nhau, bạn ấy chỉ chực
bật khóc, và mình cũng đợi bạn ấy bật khóc, mình thậm chí đã nghĩ sẵn trong đầu
những lời an ủi, nhưng Org đã không khóc, hai hàng lông mày bạn ấy níu chặt lại,
những đường rãnh sâu hằn trên trán bạn ấy, mũi Org chun lại như ngửi phải một
mùi khó chịu, răng trên cắn chặt môi dưới tới mức mình đã lo có khi bạn ấy sẽ cắn
môi chảy máu mất không chừng. Nhưng nó đã không xảy ra. Chẳng có cái gì xảy ra
hết cả. Org im lặng một lát, bạn ấy hỏi mình có muốn đi uống gì không, mình lắc
đầu, rồi mình hỏi, anh trai cậu thực sự đã mất rồi sao. Org gật đầu, rồi nói,
sau đó, tớ đã xin bố mẹ cho vào đây. Bố mẹ tớ đồng ý ngay. Và thế là tớ vào đây
học. Mà thực ra, Org ngần ngừ một lúc, nói tiếp, đây đâu phải chỗ để học, đúng
không. Tớ nghĩ, nó giống một bệnh viện hơn, một nơi để chữa trị về mặt tâm lí,
đại loại thế. Tớ nghĩ thế đấy. Và mình liền nói, tớ cũng nghĩ thế đấy, cả hai
chúng ta đều đúng rồi. Và Org cười, và mình có người bạn đầu tiên, sau khi Chal
đi, và cả sau khi Tang thôi chào mình trên hành lang nữa.
Ngày 30 tháng 9 – 12 giờ trưa.
Không dễ gì để khơi ra được một vết thương lòng của người khác. Họ
không dễ dàng như Org và họ mạnh mẽ hơn Sam. Mặc dù khi mình nhắc đến quá khứ của
mỗi người, mình đã thấy trong mắt họ một vệt tổn thương. Nhưng nó biến mất cũng
nhanh, nhanh tới mức chớp mắt một lần thôi là tan biến hết. Nhưng hôm nay, sau
bao nhiêu lâu mình cũng đã kiếm được một người. Tên cậu ấy là Bee. Bee lớn hơn
mình một tuổi, cậu ấy nói thực ra trường trung học nội trú Đại Dương có một trường
lớn hơn và ở mức cao hơn là trường thực nghiệm Hoa Dẻ. Những ai ở độ tuổi của
Bee đáng lẽ sẽ được chuyển thẳng lên trường thực nghiệm Hoa Dẻ nhưng vì lí do
nào đó, họ quyết định để Bee ở đây. Đó là trường mà sau này cậu sẽ phải đến, nếu
cậu không chịu khỏe lên, Bee nói với tôi, hai đứa lúc đó đang trốn tiết buổi
chiều và tôi chỉ cho Bee chỗ bắt mấy con bọ cánh cam. Bee đặt mấy con lên tay,
xem chúng bò tới bò lui rồi cậu chụm hai tay vào nhau để chúng bò từ chỗ này
qua chỗ khác. Tớ phải chuyển lên đó à, tôi hỏi lại, hơi ngạc nhiên, đến nỗi tôi
quên luôn mục đích chính của mình. Nhưng nếu cậu qua được bài kiểm tra cuối
năm, thì cậu sẽ được ra trường, sẽ ổn thôi, Bee nói, cậu đồ chừng muốn vỗ vai
tôi nhưng rõ là không làm được với đống cánh cam hãy còn đang bò lổm ngổm. Mãi
sau, tôi mới hỏi cậu về chuyện vì sao cậu lại phải vào đây. Bee đáp, nếu biết
vì sao thì chắc tớ đang ở đâu chứ không phải chỗ này, Bee nghĩ ngợi một lúc, cậu
gảy những con cánh cam xuống đất rồi nói tiếp, nếu mà buộc phải trả lời thì, tớ
chắc là vì mẹ tớ. Hồi tớ học lớp tám, mẹ đánh tớ gần chết, bố tớ can, thường
thì là ngược lại nhỉ, Bee cười nhưng đôi mắt bị mặt trời làm chói quá tôi không
thấy được, và cậu biết không, bố tớ bị thương, chẳng làm sao chỉ xước ngoài da
nhưng lúc đó thì chảy máu rất nhiều. Và rồi khi tất cả qua đi, mẹ không còn nói
chuyện với tớ nữa. Ở nhà tớ luôn cố gắng giữ cho mình thật là im lặng, như một
con cá ngừ, cho đến một hôm, tớ quyết định làm liều một phen. Tớ có thuốc ngủ
trong nhà, và tớ nuốt một ít, tớ căn đúng giờ mẹ đi làm về, tớ chỉ muốn xem phản
ứng của mẹ thôi. Tớ không uống để chết, tớ uống để ngủ một giấc và để gọi mẹ dậy.
Tớ nằm bẹp trên ghế sô pha, từ ngoài cửa nhìn vào mẹ có thể dễ dàng thấy tớ
ngay. Nhưng lúc đó, khi mẹ về, Bee di di những con bọ cánh cam trên mặt đất rồi
cậu ấy dừng lại, mẹ chỉ đứng đó nhìn tớ, rồi mẹ bỏ đi. Và tiếp theo tớ nhét hết
chỗ còn lại vào mồm. Tớ tỉnh dậy trong bệnh viện, và ra viện một cái, tớ bị ném
vào đây.
Ngày 10 tháng 10 - 8 giờ 45 phút sáng.
Tôi đã nói chuyện với Jen suốt cả tiết Số học. Cô ấy là lớp trưởng,
gương mẫu và khá xinh nhưng may thay lại không khoái toán cho lắm. Chúng tôi
trao đổi thư cho nhau, tôi kể cho cô chuyện của Sam và bảo rằng tôi đang đi tìm
những nỗi buồn rồi tôi nói cho cô những gì tôi biết, thế là Jen hí hoáy viết
cái gì đó rất lâu một hồi, xong cô đứng dậy đưa nó cho tôi. Jen xin ra ngoài
trong lúc tôi đọc hết tờ giấy đó. Tờ giấy viết thế này.
“Cậu chắc cũng nghe nhiều rồi, chuyện buồn thảm u sầu ấy. Không biết
cậu sẽ xếp chuyện của tớ vào loại gì, nhưng thôi cứ kể ra đi vậy. Tớ thích nữ.
Vậy đã đủ cho cậu chưa. Bố mẹ tớ thì cứ nghĩ tống tớ vào một cái trường nội trú
là xong chuyện, nhưng cái trường này thiếu gì đàn bà, chưa kể đây là trường chữa
trị vấn đề tâm lí, trong khi tớ rõ chẳng có bệnh tật gì. Bởi cậu nói tớ nghe
xem, yêu người mình yêu thì sai trái chỗ nào? Mẹ từng có ý định nhờ ai đó hiếp
tớ một trận cho tỉnh trí ra, nhưng mẹ bảo vì giữ thể diện cho tớ nên đã không
làm. Tớ từng muốn giết hết tất cả mọi người, cả đàn ông và cả đàn bà rồi tự vẫn.
Nhưng sau rốt tớ đã không làm. Tớ nhìn khuôn mặt mẹ tớ khi đang ngủ và tớ biết
rõ tớ không thể giết hết tất cả mọi người trên thế giới này. Và tớ tự hỏi sao tớ
lại phải chịu vấy máu vì người đàn bà này? Chỉ bởi vì tớ yêu thương khác người,
và bởi vì tớ sinh ra làm con không có quyền chọn mẹ, không có nghĩa cuộc đời tớ
dừng lại ở đây. Tớ cả quyết rằng tớ phải tiếp tục tồn tại, tiếp tục bất tuân lời
của mẹ, dù có thế nào đi nữa. Sau rốt tớ thấy mình đang đứng ở đây. Thực đáy
lòng, tớ muốn được ở đây mãi mãi, làm một kẻ điên, một kẻ tổn thương, nhưng
trái tim tớ và tâm hồn tớ thì được nguyên lành. Này, nói cậu hay, địa ngục đang
rỗng không, bởi ác quỷ đã ở sẵn đây rồi”.
Tôi ngừng chuyện viết nhật kí một thời gian. Mùa thu trôi qua
trong sự thinh lặng có phần u tối hơn mùa hè. Mùa đông đến giữa những cái thở
nhịp nhàng của nó. Vào buổi sáng, khi tôi mở mắt ra, từng luồng khí lạnh len
qua cửa sổ thổi bùng mí mắt. Tôi đi qua mùa đông trong nỗi mặc khải tràn trề ứa
đầy từ lồng ngực. Tôi gặp lại Chal khi cậu đến thăm tôi vào một ngày thăm nom đầu
mùa xuân. Cậu mặc một chiếc áo len màu rượu chát, quần jean và đi đôi Adidas
màu đen quen thuộc. Cậu mang cho tôi hàng đống sách, một cái máy nghe nhạc mới
và một bức tranh.
“tớ đã từng thấy cái này rồi” – tôi chỉ vào điểm sáng nhỏ trên bức
tranh của cậu. Ở phía sau đó tôi như nghe thấy tiếng gầm gào của từng đợt sóng
bị nén chặt lại trên biển Thái Bình Dương.
“rồi hả? Tớ vẽ tặng cậu đấy mà” – Chal mỉm cười với tôi, cậu đẩy bức
tranh khổ vuông về phía tôi, bức tranh chẳng có gì ngoài một lớp sơn màu xanh
đen thẫm lại, một đốm sáng lấp lánh như một con đom đóm nhấp nháy giữa hàng cọng
cỏ non.
“cảm ơn” – tôi đáp, nhìn thẳng về phía Chal, như tôi đã làm vào những
đêm chúng tôi cùng nhau uống bia và hát ca đến sáng. Đôi mắt của tôi như bị rửa
trôi đi trong cái nhìn màu xanh lơ của cậu, cái thứ xanh lạ lẫm như loang ra đến
tận điểm giao nhau giữa biển cả và bầu trời.
“cậu thực sự không muốn biết vì sao tớ phải vào đây à?” – tự dưng
Chal hỏi.
“và cả vì sao cậu được ra khỏi đây nữa” – tôi đáp. Và chúng tôi cười,
nụ cười không có lấy một sợi thanh âm.
“vì bố mẹ tớ muốn thế” – Chal nói – “thần kinh tớ như sâu róm ấy,
tớ sợ đau hơn sợ chết, rồi lại có lúc tớ căng mình ra, làm đau mọi chỗ tớ có thể
với đến trên người. Rồi tớ gặp cậu”.
“và sao nữa?” – tôi tò mò hỏi, trong đầu tôi nhanh chóng nghĩ rằng
phải mau ghi lại câu chuyện này vào nhật kí mới được.
“và tớ khỏi” – Chal đáp cụt lủn – “tớ hết sợ khi tớ ở gần cậu, cậu
có cái gì đấy rất là kì, rất là sợ, nhưng cũng lại rất nhẹ, rất dịu dàng. Tớ sợ
đến gần cậu, nhưng tớ thích ôm cậu”.
“cứ tự nhiên” – tôi cười với Chal. Tôi đang cười với cậu ấy, một nụ
cười mà lâu lắm rồi tôi không biết phải dành nó cho ai.
Hai chúng tôi ôm nhau, cảm nhận hơi ấm của nhau, đoán biết và tìm
kiếm lẫn nhau. Và tất cả dừng lại ở đó. Cho đến tận lúc nào, tôi cũng không còn
rõ nữa. Mọi thứ cứ trôi đi, lửng lơ như bốn mùa.
2013-05-20
1:56 am

