Hàn Mặc Tử Trong Riêng Tư - Phần IV - Chương 1

PHẦN IV

NHỮNG RIÊNG TƯ KỲ DỊ

1. CHỈ MỘT ƯỚC MƠ

Trong phần chót tập sách này, tôi
đã cố gắng tìm hiểu những biến chuyển tâm trạng anh qua những bài thơ rất thật
thà, đi từ những tình cảm đơn sơ tuyệt đẹp đến những cay đắng xót xa, và cuối
cùng hòa nhập vào những mơ ước kỳ lạ, những lo lắng sợ hãi, trong nhiều hiện
tượng khó hiểu mà tôi gọi là những cơn xuất thần, mà trong đó anh đã sống nửa mơ
nửa thật nghe như được trông thấy từ những thế giới xa lạ.

Ở giai đoạn đầu của những bài thơ
tình cảm nóng bỏng hay mơ màng thao thức, anh nói thật hết không hề dấu diếm.
Trong mối tình Hoàng Hoa chẳng hạn, anh viết:

Đêm nay ta lại phát điên cuồng

Quên cả hổ ngươi cả thẹn thuồng

Đứng rủ trước thềm nghe ngóng mãi

Tiếng đàn the thé ở bên song.

Với Mộng Cầm anh thổ lộ:

Mặt trời mai ấy đỏ ong

Nàng tiên hóng mát trên hòn Cù lao

Áo xiêm nhuộm nắng hồng đào…

Đồng trong im như lặng như tờ

Hương gì ngan ngát giã đà say sưa

Gió ơi lại đấy mà ngừa

Tôi đứng xa lắm xin chừa tôi đi

Hồn tôi mắc cỡ là vì

Không quen thưởng thức cái gì ngất ngây

(Say Nắng)

Cũng có những tiếc nuối than thở:

Nhớ những lúc như si như dại

Nhớ những hồi bải hoải tay chân

Nhớ hàm răng, nhớ hàm răng

Mà ngày nào đó vẫn khăng khít
nhiều

Dẫu đau đớn vì điều phụ rẫy

Nhưng mà ta không lấy làm đều

Trăm năm vẫn một lòng yêu

(Muôn năm sầu thảm)

Cũng có lúc ước mơ một cuộc tình
ướt át, mà anh cho là tội lỗi, và để diễn tả, thật thà, anh diễn tả thành một
bản tình ca hòa tấu cảu đôi Tân hôn. Đó là bài Đàn Ngọc, nguyên thuỷ là Đêm Hợp
Cẩn, về sau đổi lại là Cung Đàn Ngọc, cuối cùng thành Đàn Ngọc.

Đây là bài thơ lãng mạn nhất mà
anh mơ tưởng, đã được diễn tả bằng những lời thơ tuyệt đẹp, vừa nồng nàn say
đắm, vừa sôi nổi mà êm đềm. Suốt bài thơ không hề có một lời dung tục khiến
người đọc cảm thấy tuyệt vời một đêm hợp cẩn.

Điện Hàm Chương mai hoa còn rớt
ngọc

Xiêm nghê nàng ven vén dễ hương
lay

Nốc đi cho làn phấn điểm màu say

Cho rúng động toàn thân người rớm
khóc

Rồi muôn xuân đã nư chiều thổn
thức

Đều run lên như thể tấm hồn mơ…

… Dạ lan hương bừng mở cánh e dè

Trong khúc nhạc rên đều hơi gió
tớt…

… Hãy uống đi cốc rượu ngấm đầy
hơi

Chan chứa vị nồng cay đêm Hợp Cẩn

Nàng, lạy Nàng, hãy nghe tôi cầu
khẩn

Hãy khoan tay cầm lại trí tương

Đang chờn vờn trong làn sóng ngất
ngư

Đang chới với ở trong màu hoa lệ…

Rồi một thứ lãng mạn ngây thơ
khác:

Hãy tưới lên hoa giọt lê nồng

Đếm từ cánh một mấy lần thương

Hãy chôn những mảnh xuân tàn tạ

Và hãy chôn sâu tận đáy lòng

(Thời gian) (Mơ Hoa)

Từ đây anh bắt đầu nói đến đau
thương cay đắng:

Còn đâu tráng lệ những thời xanh

Mùi vị thơm tho của ái tình

Đố kiếm cho ra trong lớp bụi

Ít nhiều hơi hám của kiên trinh

Cho đến cô đơn tan rã:

Họ đã xa rồi không níu lại

Tình thương chưa đã mến chưa bưa…

… Người đi một nửa hồn tôi mất

Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ

… Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu

Sao bông phượng nở trong màu
huyết

Nhỏ xuống lòng tôi những giọt
châu.

(Những giọt lệ)

Trong bài Khói hương tan dưới
đây, anh bắt đầu để lộ vẻ bơ vơ lạc lõng ít nhiều trong một thế giới vắng lặng,
mà anh như con thuyền trôi nổi chưa biết ghé vào đâu.

Tối hôm nay muôn sao bơi nhấp
nhánh

Song Mê hà đưa đẩy sóng triền
miên

Thuyền anh buông lững lờ trong
hiu quạnh

Tới chưa em, đã tới bến lòng em

Mộng yêu đương, đang khi tim rào
rạt

Thuyền anh neo đậu trước bến Hàn
Giang

Những uyên ương khi trăng sao
bàng bạc

Biến mất rồi, anh thấy khói hương
tan.

Và từ đó, anh sống trong nửa mơ
nửa thực. Thơ anh bước vào một cõi trời khác, cõi trời mà trong những phút xuất
thần anh vẫn còn nhìn thấy anh cả hồn theo anh như cái bóng.

Hồn là ai, là ai tôi chẳng biết

Hồn theo tôi như muốn cột tôi chơi.

Dẫn hồn đi ròng rã một đêm nay…

Trong quá trình tập thơ Đau Thương, anh đi từ tình tứ say sưa đến đắng cay
cuồng loạn để rồi tan biến vào một thế giới mông lung. Thơ anh vì vậy rất khó
hiểu.

Ông Trần Thanh Mại viết trong tập Thân thế và thi văn Hàn Mặc Tử: “Thi sĩ
vì quá say sưa trong bầu không khí lạ của cõi trời mới chiếm, nên quên mất
đường lối đi về, con đường còn dính líu với người thế gian. Thi sĩ đã đi lạc
đường ra ngoài mức, ngoài trình độ lĩnh hội của người thế gian, ngoài cả lĩnh
hội của thi sĩ nữa.”

Hàn bắt đầu viết loại thơ đó:

Anh đã thoát hồn anh ngoài xác thịt

Để chập chờn trong ánh sáng mông lung…

Để tìm em đưa hai tay ràng rịt…

… Chúng ta biến em ơi làm thanh khí

Cho tan ra hòa hợp với tình anh

Của Trời Đất của muôn vàn ý nhị

Và tình ta sáng láng như trăng
thanh.

Tuy nhiên anh vẫn ý thức được anh
đang ở đâu, còn lĩnh hội và đánh giá những gì anh đã gặp và ghi nhận lại khá rõ
ràng. Có vẻ như anh có khả năng đi vào cõi mộng ảo rồi trở về thực tại dễ dàng
như nhiều lần tôi nhận xét anh sau những cơn ngất hay nói là xuất thần.

Há miệng cho hồn văng lên muôn
trượng

Chơi vơi trong khí hậu chín tầng
mây

Ánh sáng lạ sẽ tan vào hư lãng

Trời linh thiêng cao cả gợi nồng
say.

Vì không giới nơi trần gian vắng
lặng

Nên hồn bay vùn vụt tới trăng sao

Sóng gió nổi rùng rùng như địa
chấn

Và muôn vàn thần phách ngã lao
đao

Cả hơi hám muôn xưa theo áo ảnh

Hồn trơ vơ không biết lạc về đâu

Và vướng phải muôn vàn tinh khí
lạnh

Hồn mê man bất tỉnh một hồi lâu…

Ngay cả trong những cơn mơ xuất
thần, anh còn phân biệt được những nơi nào có Chúa nơi nào có Ma quỷ. Anh kể
lại nghe như người chết đi rồi sống lại:

Ra không gian là vượt hẳn thượng
tầng

Tấp tới đến ở ngoài kia vũ trụ

Nơi khí tượng bốc ngàn muôn tinh
túc

Nơi không cho hồn lai vãng quang
chiêm

Sáng vô cùng, sáng láng cả mọi
miền

Không u ám như cõi lòng ma quỷ

Vì có Đấng hằng sống, hằng ngự
trị

Nhạc thiêng liêng dồn trổi khắp
hư linh…

… Hồn hỡi hồn lên nữa quá thinh
gian

Tìm với chốn chiêm bao ngoài sự
thực

Mộng là mộng tràn trề muôn vạn ức

Tình thơm tho như ngấn lệ còn
nguyên

Ta ước ao đầu đội mũ triều thiên

Và tắm gội ở trong nguồn ánh
sáng.

(Ngoài Vũ Trụ)

Trên đây là một số bài thơ khó
hiểu nhất trong tập thơ Đau thương và Cuồng loạn. Nhiều bạn đã nhờ Hàn giải
thích.

Thuở còn sống Hàn cũng đã quan
niệm việc giải thích thơ Hàn rất phức tạp. Anh nói một cách đã khó hiểu: “Giải
nghĩa cho hết thơ tôi làm ra đó thì phải mất bao nhiêu trang giấy rồi, mà chưa
chắc người đời đã hiểu được gì.” Những bài thơ này đã viết ra lúc anh đau nặng
nhất, đầu óc căng thẳng tâm trạng hoang mang, khi mà anh chạy theo những ước mơ
kỳ lạ, ước mơ được thoát ra khỏi thế gian bằng tất cả các nẻo đường mà anh gặp
được, trong giấc ngủ, hoặc ngất đi trong giây phút xuất thần.

Ông Trần Thanh Mại nói về Hàn Mặc
Tử như sau:

Sự xuất ngoại hoài hoài của hồn
ấy, ta nên nhận là điều có thật, chớ không phải do trí tưởng tượng của thi sĩ
bịa ra. Thi sĩ chỉ ghi chép trạng thái mọi sự vật mà người trông thấy hay cảm
biết.

Ý kiến ông Trần Thanh Mại đã giúp
tôi tin vững chắc khi nhận xét những lần anh xuất thần ra ngoài vũ trụ, không
thể được xem là điều ma quái, ám ảnh. Hình như những hiện tượng kỳ lạ anh gặp
trong những lúc ấy không có điều gì trái với đức tin anh. Cứ trong câu chuyện
anh kể lại nơi nào tối tăm là có ma quỷ, nơi nào có nhạc có ánh sáng nơi đó có
Thiên Chúa. Anh còn ước mơ được đội mũ triều thiên nữa và tắm gội trong nguồn
ánh sáng ấy. Anh còn mời Thanh Huy, trong bài Bức thư Xanh đi chơi với anh một
chuyến lên Cung Trăng nữa.

Điên rồi sao? Mê rồi? Hoảng rồi
à?

Ờ được lắm, lên Trăng chơi một
chuyến

Nhưng khoan đã, đang say kinh cầu
nguyện

Cũng đang lần tràng chuỗi hột Từ
Bi

A, Thanh Huy, A Thanh Huy! Thanh
Huy

Ta cắp Nàng bay cao hơn tiếng
nhạc.

Cho Nàng hớp đầy môi, hương khoái
lạc

Cho hồn nàng dính chặt với hồn ta

Sự liên hệ giữa đức tin và hiện
tượng xuất thần, có thể đã bắt nguồn từ một sự kiện nhỏ, mà ảnh hưởng mạnh và
sâu đậm trong tâm trí Hàn, khi mà đã mất hết cơ sở, hết hi vọng bám víu vào để
được lành bệnh.

*

2. CHỈ MỘT NIỀM TIN

Năm 1937, trước khi đi Đà Lạt,
tôi trông thấy anh buồn rầu ảm đạm như mất hết hi vọng được khỏi bệnh. Anh
không muốn nói chuyện với ai, chỉ thích ngồi một mình, đọc kinh hay lần hột
chuỗi Mân côi. Từ đầu năm bệnh anh phát mau như ngựa chạy. Bạn bè cũng thưa
thớt đến chơi. Anh mong mỏi Đức Mẹ làm phép lạ cứu anh một lần nữa.

Mặc dầu cố Labiansse nói với anh
Đức Mẹ không có quyền làm phép lạ như đã xảy ra ở bờ biển, nhưng anh tin điều
ấy đã xảy ra. Anh lý luận phép lạ ở tiệc cưới Cana mà Kinh thánh kể lại Chúa
làm cho nước trở thành rượu chỉ vì Đức Mẹ xin Chúa làm. Sự trông cậy của anh vì
vậy rất có lý.

Thấy anh thích nguyện ngắm, tôi
trao cho anh tập sách nhỏ Imitation de Jésus Christ của L.M.Lamennais, anh vui
mừng như bắt được của. Nhất là khi
đọc câu: “Dieu seul sait le temps et la manière de vous délivrer”, anh hớn hở
lạ thường. Anh nói: Đúng rồi! Chỉ có Chúa mới biết được lúc nào và bằng cách
nào để giải thoát cho con. Từ đó anh gia tâm cầu nguyện gắn bó thiết tha hơn.

Lời cầu nguyện của Thánh Phanxicô đã trở thành của chính anh: “Xin cho con
ra khỏi cái thân xác nặng nề hôi hám đang giam hãm con.”

Trông bốn năm đau, những suy niệm về màu nhiệm giải thoát trở thành mơ ước
và những mơ ước chân thành đó, có thể biến ra nhiều hình ảnh tuyệt vời nơi chân
trời mới của anh, trong những giấc mơ xuất thần.

Đức Tin đã có dấu hiệu tốt, Anh viết:

Đức Tin thơm hơn ngọc

Thơ bay rồi thơ bay

Mau gò giai âm lại

Sớt bớt nghĩa đêm nay

Có tin thôn xa đến

Có điềm lạ đêm nay

Đóng cửa mười phương lại

Dồn ánh sáng vào đây

Ngoài không gian mất mát

Chim thanh tước ra đời

Nêu cao hơn tiếng nhạc

Nhà hát sẽ xanh tươi.

Trong bài Điềm lạ trên đây vừa
kể, anh đã nhận ra được Một Mùa Xuân mới anh mơ ước ra đời. Anh vội vã viết một
loạt bài cho Mùa Xuân như ý.

Trong lời tựa Hàn viết:

Cho mau lên! Dồn ánh nguyệt vào
đây… Lời thơ ta sẽ sáng trưng như thất bảo. Tình cảm ta sẽ nóng ran như mặt
trời. Ý tứ ta sẽ cao cường hơn ngọn núi.

Ôi! Trời hạo nhiên đây không phải
là công trình châu báu của Người sao!

Lòng vô lượng đây không do phép
tác mầu nhiệm của Đấng Vô thỉ Vô chung?

Đưa ra, nào là nhạc thơm, hương
gấm, mộng ngọc và hoa trinh bạch, đàn ly tao, tranh tuyệt phẩm…

Đưa ra, nào là gió chia biệt,
trăng đoàn viên, chim tứ chiếng, mây giang hồ, và nào là trời thanh sắc, lòng
nhũ hương, niềm mộc dược.

… Và loài người hãy cám ơn Thi
nhân đã đổ hết bao nhiêu nguồn máu lệ, đã từng uống mật đắng cay trong khi
miệng vẫn tươi cười sốt sắng…

Hãy cầu nguyện bằng trăm kinh mây
gió.

Hãy dâng cho một tràng chuỗi
trăng sao…

Thi nhân sẽ vừa say sưa, vừa điên
cuồng, ọc ra từng búng thơ sáng láng, phương phi như một mùa Xuân Như Ý.

*

RA ĐỜI

A! A! A!

Thiên địa đắm hoang mang

Là đương khi thờ lạy cả Thiên
đàng

Bay xa những tiếng tung hô Thánh
Đức

Muôn thần phẩm trong lâng lâng
chầu chực

Ánh hào quang chang chói ngất mê
ly

Ôi cao sang khôn ví trọng ai bì

Trên nước cả có muôn vàn châu báu

Trí rất ngớp bởi chưng Xuân hồn
hậu

Đã ra đời theo lệnh cả Ngôi Hai

Ôi! Thánh tai, Thánh tai và Thánh
tai

Cả trời bỗng nổi lên muôn điệu
nhạc

Rất trọng vọng rất thơm tho man
mác

Rất phương phi trên hết cả anh
hoa

Xuân ra đời…

Điềm ngọc ấm như ngà…

Mùa xuân mới đến với anh thình
lình, cũng làm cho anh hoảng sợ:

Xuân thế gian chưa có tai trong
lòng

Muôn ý tứ say chìm nơi bất giác

Hương cám dỗ mê người trong khoái
lạc

Và anh hân hoan tận hưởng nguồn
thơm từ bốn mùa xuân anh chưa hề được hưởng. Trong bài Nguồn Thơm, anh viết:

Trí đương no và khí xuân đương
khoẻ

Nhạc đương say và rượu vẫn còn
thơm

Nên muôn cánh thuỷ tiên chưa dám

Trong phút giây trang trọng của
linh hồn…

… Tứ thời xuân, tứ thời xuân non
nước

Phút thiêng liêng nhuần gội ánh
thiều quang

Thiên hạ bình và trời tuôn ơn
phước

Như triều thiên vờn lượn khắp
không gian…

… Ta cao ngâm giọng vô cùng thanh
thoát

Khiến châu thân rung động thể tơ
trăng

Toan ngất đi trong cơn mê khoái
lạc

Mẹ dấu yêu liền vội đến tay nàng…

Anh đang đứng trước ngưỡng cửa
một cuộc đời mới, có một mùa xuân gấm vóc như ước mơ mà từ bốn năm Thương Khó,
anh mới được Thiên Chúa hé mở cho trông thấy. Anh vừa nghi ngờ vừa tin tưởng
cái ngày mai đó. Anh viết:

Mai này thiên địa mới tinh khôi

Gió căng hơi và nhạc lên trời

Chim khuyên hót tiếng đầu tiên
hết

Hoa lá hồ nghi sự ra đời

Trái cây bằng ngọc vỏ bằng gấm

Còn mặt trời kia tơ khối vàng

Có người trai mới im như nguyệt

Gió căng hơi và nhạc lên ngàn

Người thơ phong vận như thơ ấy

Nào đã ra đời ngọc biết tên.

(Xuân Đầu tiên)

Vì vậy đêm nay, dưới bầu trời
bình yên như nguyệt bạch, anh sửa soạn một tâm hồn thật trong trắng như một
người ngoan đạo dọn mình sám hối, tỉnh thức và cầu nguyện trắng đêm để dâng lên
muôn kinh thơm tho ca ngợi Thiên Chúa.

Trời hôm nay bình an như nguyệt
bạch

Đường trăng xa, ánh sáng tuyệt
vời bay

Đây là hương quí trọng thấm trong
mây

Ngời phép lạ của đức tin kiều diễm

Câu tán tụng không khen lòng cả
phiếm

Bút Xuân thu mùa nhạn đến vừa khi

Khắp mười phương điềm lạ trổ hoài
nghi

Cây bằng gấm và lòng sông bằng
ngọc

Và đầu hôm một vì sao mới mọc

Ở phương Nam màu nhiệm biết ngần

Vì muôn kính dồn dập cõi thơm tho

Thêm nghĩa lý ánh sáng trong như
thất bảo

Ta chấp tay lạy quì hoan hảo

Ngửa trông cao cầu nguyện trắng
không gian

Để vừa dâng vừa hiệp bốn mùa xuân

Nở một lượt giàu sang hơn Thượng
Đế

Đã no nê, đã bưa rồi, thế hệ

Của phường trai mê mẩn khí thanh
cao

Phượng hoàng bay trong một tối
trăng sao

Mà ánh sáng không còn khiêm
nhượng nữa

Đương cầu xin, ọc thơ ra đường
sữa

Ta ngất đi trong khoái lạc hồn
đau

Nhịp song đôi này đây cung cầm
nguyệt

Ướp lời thơ thành phước lộc đường
tu

Tôi van lơn thầm nguyện Chúa
Giêsu

Ban ơn xuống cho mùa Xuân hôn
phối

Xin thứ tha những câu thơ tội lỗi

Của bàn tay thi sĩ kẽ lên trăng

Trong bao đêm xao xuyến vũng sông
Hằng

(Đêm Xuân cầu nguyện)

Mùa Phục Sinh, tôi về Quy Nhơn
nghỉ lễ trông thấy anh tuy gầy hơn nhưng đôi mắt linh hoạt khác thường như có
vẻ hân hoan, tôi hỏi có gì vui không. Anh đọc hai câu:

Đã no nê đã bưa rồi thế hệ

Của phường trai mê mẩn khí thanh
cao

Sau khi đọc bài Đêm Xuân cầu
nguyện, tôi hiểu anh xem như đã hoàn tất một mùa Thương Khó bốn năm của anh,
Mùa của người công giáo đền tội, để cùng sống lại trong ân nghĩa Chúa. Anh cũng
dâng bốn năm hoạn nạn:

Để vừa dâng vừa hiệp bốn mùa xuân

Nở một lượt giàu sang hơn Thượng
Đế

Bây giờ thì bốn năm hoạn nạn đã
đơm bông kết trái, anh chỉ còn chờ được giải thoát thôi.

Giải thoát, hai chữ đó, đối với
anh rất mơ hồ. Anh tin mạnh mẽ sẽ được giải thoát nhưng bằng cách nào đây, anh
không hiểu. Ước mơ lạ lùng đó đã thành một thói quen, hơn nữa, một cố tật.

Anh lại mò mẫm, lại tìm kiếm, lại
xuất thần trong những cơn mê mà anh từng lý luận:

“Hễ hơi khói càng cao, hơi trăng
càng trong thì hơi thở của tôi cùng thơm. Hơi thở ấy góp cùng muôn hơi đằm thắm
sẽ châu lưu khắp bầu thế giới và chung quanh tôi, dầu gần gũi hay bao la đều
nhận một màu sắc phiêu diêu. Tôi rất ngợp. Tôi hứng lấy và nhận lấy ở trong hồn
muôn ý tứ và muôn thanh sắc của trời mộng xa xưa…

Tôi đi từ thực tới bào ảnh, từ
bào ảnh đi tới huyền diệu, và từ huyền diệu đi tới chiêm bao. Mông lung đã trùm
lên sự vật và cõi thực, bị ánh sáng của chiêm bao vây riết.

Mộng tàn rồi, nghĩa là mộng biến
đi. Những điều tôi vừa thấy toàn là huyền hoặc cả sao? Có lẽ nào?”

Đại để những điều anh giải thích
về những việc lạ lùng trong thơ anh đã gặp giữa hai cõi Mộng và Thực mà anh nói
phải mất bao nhiêu trang giấy mực để nói ra và chưa chắc người đời đã hiểu.

Đúng là chẳng hiểu được gì để
biết thơ anh với những giải thích sơ sài chừng ấy.

Anh viết trong bài Siêu Thoát:

Hồn vốn ưa phiêu lưu trong gió
nhẹ

Bay giang hồ không sót một phương
nào

Càng lên cao giây đồng vọng càng
cao

Hồn hỡi hồn lên nữa quá thinh
gian…

Anh bị cám dỗ lên cao hơn khỏi
vùng trời Xuân như ý mà anh vừa đi qua để vào một vùng khác, vùng Thượng thanh
khí. Chữ Thượng thanh khí anh dùng đây, để chỉ một vùng trời ngoài bầu khí
quyển, cao hơn, trong thanh hơn, tinh sạch hơn. Nơi đây, có lẽ anh thuờng trông
thấy một màu xanh anh đã kể lại trong nhiều bài thơ:

Một chiều xanh, một chiều xanh
lờn lợt

Sóng bao la vây lút cả không
gian…

Ở một chỗ khác anh viết:

Đã trong rồi và thanh tao đến tới

Bao nhiêu tơ chuyển được tiếng
thơ bay

Êm êm hơn đừng cho xanh lờn lợt

(Vầng trăng)

Trong bài Tình Hoa anh viết:

Mình gom hết thành bại và thâu
thức

Mình giải quyết tiêu tao và nô
nức

Tứ rung rung cho quá trí dật dờ

Rồi bay từ diệu vợi đến xanh mơ

Từ bên ngọc dời sang châu Dủ Lý

Từ Minh Triết lần lần theo ý chí…

Hình như anh có khả năng kỳ dị
lại vùn vụt trong bầu khí quyển xanh xanh đó, màu xanh mà ngày nay các phi hành
gia vũ trụ đã trông thấy khi vượt khỏi tốc độ âm thanh. Hàn cũng đã cho thấy
anh đi trong cõi bao la miên trương cho đến tột cùng vĩnh cửu như chính anh là
một hành tinh vậy. Hoặc là có được khả năng như chiếc máy ảnh tinh vi hiện đại,
rượt theo tốc độ ánh sáng để qua lại những hình ảnh đã qua đi từ nhiều thế kỷ
trước.

Anh viết trong bài Đừng cho lòng
bay xa:

Thượng thanh khí, tiết ra nguồn tinh
khí

Xa xôi đời trắng mọc nước huyền
vi

Đây miên trường, đây vĩnh cửu đề
phi

Cao cao vượt với hai hàng bóng
vía

Trời nhật nguyệt cầu vồng bắt tứ
phía

Ôi! Hoàng Hoa, hồn phách đến nơi
đây.

Hương ân tình cho kết lại thành
dây

Mong manh như lời nhớ thương hàng
triệu

Đàn cung bậc gió dồn lên âm điệu

Sững lòng chưa say chấp cả thanh
bai

Sang chơi thôi, sang chơi thôi,
mà ai?

Thu đây rồi bước lên cầu ô thước

Sao? Vàng sao, rơi đầy trên sông
nước

Đừng nửa tay mà hứng máu trời sa

Thôi! Kéo về đừng cho lòng bay xa.

Thu vươn này, thu vươn ra như ý

Mau rất mau trong muôn hoa kiều mị

Mùa rất trai mà ánh sáng rất cao

Đừng nói buồn, mà không khí nao nao

Để chơi vơi này bông trăng là gió

Để phiêu phiêu này tờ thơ vàng vọ

Để dầm dề hạt lệ ta đôi ta

Tầng thượng tầng, lâu đài ngọc đơm ra

Khói nhạt nhạt xen vô màu xanh biếc

Tiếng huyền dịch gò theo tia yến nguyệt

Đẩy đưa dài, hơi ngào ngạt trầm mơ

Thinh không tan như bào ảnh hư vô

Giải ngân hà biến theo cầu Ô thước

Và ước ao và nhớ nhung lần lượt

Đắm im lìm trong mường tượng buồn
thiu

Vì vậy, đọc tập Thượng thanh khí,
tôi chỉ hiểu lơ mơ anh đang say sưa với một thế giới không tưởng. Có thể là anh
đã bị ảnh hưởng nặng của nhà văn giả tưởng Pháp Jules Verne, tác giả những tập
sách Từ địa cầu đến mặt trăng hay Hai mươi ngàn dặm dưới đáy bể.

Nếu quả anh đang ở trong tình
trạng mất trọng lượng của con tim hay trí óc thì chắc là anh dám nói tiên tri
như Jules Verne về tương lai của vũ trụ ngày nay.

Chính trong giai đoạn này, người
bạn thân của anh, giới thiệu cho anh Nàng tiên nhỏ Thương Thương, để kéo lui
anh về thực tại của trần thế. Quả thật anh đang mơ vào một cảnh Bồng Lai, và
Thương Thương lại có cơ hội được đặt vào khung cảnh tuyệt đẹp đó. Anh bắt đầu
tả những cảnh anh đang lạc lõng ở Bồng Lai mà tiếng tiêu sầu rất khêu gợi, hòa
với tiếng suối reo lên như tiếng lòng anh.

… Ồ! Tiếng tiêu đâu bay ra man
mác

Khiến nao nao nguồn thanh tịnh
quan mình

… Ta là khúc phượng cầu hoàng năm
trước

Đem ân tình trải khắp cõi trần
duyên

Chàng:

Phải quê nàng ở Đào Nguyên

Bởi chưng sắc đẹp lại thêm đa
tình

Xuống đây tìm nợ ba sinh

Không hay trời khiến ta mình gặp
nhau.

Nàng:

Em là Trần Thương Thương

Ngụ ở bến Tầm Dương

Đi tìm chàng thi sĩ

Trong pho sách kim cương

(Tập kịch Duyên Kỳ ngộ này thuộc
tập thơ Cẩm Châu Duyên đã từng được phổ biến nhiều. Ở đây, tôi chỉ xin ghi lại
những nét riêng tư của Hàn)

Mối tình duyên kỳ ngộ tuyệt đẹp
này đáng lẽ còn đưa anh đi xa hơn trong cõi mộng Bồng Lai mơ ước với hoa lá
suối chim rất thần tiên trong đó, và anh còn đang viết thêm một cảnh Quần tiên
nội nữa. Nhưng, vì một lẽ riêng nào đó anh đành phải dẹp bỏ.

Anh viết:

Gặp em đây, khác gì trong giấc
mộng

Biết làm sao cho thỏa hết tình
thương

Tiếng lòng anh vẫn luôn luôn đồng
vọng

Luôn luôn reo kêu gọi đến tình
nương

Nàng:

Tình quân hỡi, muôn năm em chỉ
muốn

Sống bên anh cho thắm đượm tình
yêu

Chàng:

Than ôi! Hỡi lời biệt ly chan
chứa

Tưởng cùng em vui hưởng thú tiêu
dao

Anh sắp đi rồi hai hàng lệ ứa

Cả đau thương dồn dập xót tâm bào

Duyên Kỳ ngộ và Quần tiên hội là
những hình ảnh cuối cùng càng được nói đến trong cuộc đời thơ của anh cho đến
khi anh vào Quy Hòa.

Những gì còn ghi đậm trong mối
tình đó là bài thơ dễ thương nhất: Nỗi buồn vô duyên.

Có hai câu làm tôi cảm động:

Đừng ai nói để thương cho

Lỡ ra lạnh nhạt đền bù sao cam.

Nghe như có tiếng ai dỗ ngọt:
Thôi mà nín đi! Tôi thương mà! Đừng khóc nữa. Nghe sao tội nghiệp quá!

Vì vậy mà tiếng tiêu sầu còn đuổi
theo cám dỗ:

Nghê thường lên, nàng Hằng ra

… Âm thanh lên cao nhạc lừng ran

Tôi lại gần bên. Ô! Lạ thường

Nường trăng Ô! Chính là Thương
Thương

Hoảng hốt tôi ôm chầm lấy Nường

Thương ôi Nường đã biến ra sương

Từ đó không còn ai nghe được thơ
anh nữa nhưng khi anh vào Quy Hòa, anh lại viết, đoạn thơ bỏ dở: Quần tiên hội
(Lâu nay tôi vẫn tin thế) mà anh chưa hoàn tất.

Bây giờ là những Nàng tiên tu hội
Phan-xi-cô. Những Nàng tiên đang săn sóc anh, đang an ủi anh. Những Nàng tiên
này đã để lại trong con tim anh, trong đầu óc anh những hình ảnh tuyệt vời mà
thường mang theo trong giấc ngủ vĩnh viễn trên chiếc giường bệnh cô đơn lặng lẽ
không ai hay biết.

Phải gọi là bài thơ “tiếp điêu”
Quần tiên hội, anh viết bằng tiếng Pháp:

La Pureté de l’âme

Anges du ciel, anges de Dieu, anges de paix et de gaieté, apportez-moi une
couronne.

Je veux (me) baigner dans l’Océan de lumière et d’amour divin.

Car ici-bas s’acomplissebt des miracles qui tiennent les hommes muets
d’admiration en contemplant l’oeuvre mystique du Très-Haut.

Anges du ciel, anges de Dieu, anges de paix et de gaieté, voyez-vous cette
luer diaphane qui so prescise, cette blancheur de neige, cette forme immaculée,
cette âme apparue au monde?… Je crois dès le premier abord que c’est
l’espritdes saints, la poésie, la quintessence de la prière, qui au lieu
s’exbaler en parfum et en éther, prend la modeste résolution de se faire
créature!

Anges du ciel, anges de Dieu, anges de paix et de gaieté, applaudiessez:
carce soles Mères les Soeures de Saint Francois d’Assise qui descendent au
monde pour cal mer les douleurs et les peines des faibles mortels, des malades
et des lépreux tels que nous sommes.

Je veux chanter des louanges, me désaltérer de leurs douces paroles quand
elles chantent: Hosanna! Hosanna!

Je veux toujours admirer cette blancheur immaculée, cette frâicheur cette
lumière, cette poésie, car tout cels est l’emblème de la.

PURETÉ DE L’ÂME!

Anges du ciel, anges de Dieu, anges de paix et de gaieté, lanez-vous des
roses et des nénuphards, des chants mélodieux et des notes embaumées et versez
avec effusion les vertus le courage et le bonneur parmi les servantes de Dieu.

FRANCOIS TRÍ

Dée gratias

Nui de Mercredi

24 Octobre 1940

Dịch: (theo ông Trần Thanh Mại)

Hỡi các vị thiên thần của trời,
thiên thần của Chúa, thiên thần Hòa bình và hoan lạc, xin hãy mang lại cho tôi
một vòng hoa.

Tôi muốn tắm trong bể ánh sáng và
lòng yêu kính thiêng liêng.

Bởi vì dưới cõi trần gian, đã
thành tựu nhiều phép lạ nó làm cho người ta phải nghẹn ngào vì khâm phục khi
ngưỡng vọng cái sự nghiệp thần bí của đấng tối cao.

Hỡi các vị thiên thần của trời,
thiên thần của Chúa, thiên thần Hòa bình và hoan lạc, các người có thấy cái ánh
sáng trong mờ càng ngày càng rõ rệt, cái màu sắc trắng tuyết kia, cái hình hài
không vết bợn kia, cái linh hồn hiện lên nơi cõi thế kia, ngay khi mới thấy,
tôi đã chắc đó là cái hồn phách của các vị thánh, các thi tứ, cai tinh hoa của
sự cầu nguyện đáng lẽ thì bốc lên hương thơm và tinh khí, nhưng đây chỉ khiêm
tốn quyết định hóa ra Người.

Hỡi các vị thiên thần của trời,
thiên thần của Chúa, thiên thần Hòa bình và hoan lạc, xin hãy vỗ tay lên: Bởi
vì đó là các Mẹ và các Chị dòng Saint Francois d’Assise, xuống cõi trần gian để
an ủi những đau khổ, lo âu của loài người yếu đuối, của các bệnh nhân tàn tật,
của những người phong hủi là chúng tôi đây.

Tôi muốn ca lên những bài khen
ngợi, hứng uống cho thật đã những lời êm dịu của các bà, khi các bà đồng hát
bài Thánh Ca: Hosanna! Hosanna! (Xin cứu với, xin cứu với!)

Tôi muốn bao giờ cũng thán thưởng
cái hình thể trắng tinh không vết ấy sức tươi mát, nguồn ánh sáng, bầy thơ ấy,
vì tất cả đó là biểu tượng của

TẤM LINH HỒN THANH KHIẾT

Hỡi các vị thiên thần của trời,
thiên thần của Chúa, thiên thần Hòa bình và hoan lạc, xin hãy ném cho nhau
những đóa hoa hồng, hoa súng, những điệu hát réo vắt và những hơi nhạc thơm
tho, và xin hãy rưới trúc cho tràn trề nào là đức hạnh, can đảm và hạnh phúc
cho những vì nữ tỳ của Đức Chúa.

Đêm thứ 24 tháng mười 1940

FRANCOIS TRÍ

Cảm tạ Thượng Đế

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3