Phía đông vườn địa đàng - Chương 21
Chương XXI
Vào lúc tám giờ rưỡi sáng
hôm sau, trung sĩ Axel Dane bước vào phòng tuyển mộ Jose để tìm viên phụ tá là
hạ sĩ Kemp. Hạ sĩ này đang ngủ gà ngủ gật bên cạnh một cậu thiếu niên đang ngồi
đợi với vẻ mệt mỏi chán chường. Dane liếc nhìn chàng thiếu niên rồi bước vào
sau chấn song đặt tay lên vai hạ sĩ Kemp lên tiếng:
- Này cưng, lũ chim sơn
ca đang cất tiếng hát báo tin trời sáng từ lâu rồi mà cưng.
Kemp ngẩng đầu lên khỏi
vòng tay gối đầu, đưa lưng bàn tay lên quệt ngang mũi rồi hắt hơi.
- Chà đẹp nhỉ? - Viên
trung sĩ nói. - Thức dậy cho rồi chàng! Có một người khách đang đợi kia.
Kemp lim dim cặp mắt đầy
ghèn nói:
- Chiến tranh thường đợi
người ta mà.
Dane nhìn sát cậu bé và
nói:
- Cậu ta đẹp trai quá.
Chắc họ sẽ săn sóc cậu ta kĩ. Đứng lên xem thử nào chàng trai trẻ! Cậu ta được
mười tám tuổi rồi chứ?
- Thưa vâng.
Dane quay lại chàng hạ sĩ
phụ tá hỏi:
- Chú nghĩ sao?
- Kệ mẹ. Theo tôi nếu
chúng nó cao lớn là cứ coi như đủ tuổi rồi.
Viên trung sĩ nói:
- Cứ cho rằng cậu đã mười
tám tuổi. Chúng tôi chỉ căn cứ vào đó được chứ?
- Thưa vâng.
- Cậu chỉ việc điền vào
tờ giấy này. Cậu tưởng tượng mình sinh năm nào thì cứ ghi năm đó vào đúng chỗ
này và nhớ cho kĩ năm sinh đó.
Trong ngôi nhà ở đường
Castroville Street, bà Kate ngồi lặng nhìn sững vào khoảng không trước mặt hết
giờ này qua giờ khác. Nét mặt bà hoàn toàn vô cảm xúc. Bà không suy nghĩ gì cả.
Tâm trí bà trôi lơ lửng giữa các cảm xúc như con dơi bay lơ lửng trong đêm. Bà
nhớ lại khuôn mặt của cậu con trai tóc hung hung vàng thật đẹp trai và cặp mắt
long lên điên dại vì thất vọng sững sờ. Bà còn nghe rõ bên tai những lời lẽ
thậm tệ của nó nhằm vào bà thì ít mà nhằm vào chính nó thì nhiều. Bà thấy người
em song sinh có nước da hơi sậm đứng tựa cửa cười hinh hích.
Tại sao Cal lại đem anh
nó tới làm gì? Sau đó Aron sẽ ra sao? Nếu biết trước bà đã tránh mặt rồi. Nhưng
làm sao bà biết được!
Bà đặt hai tay nằm xuôi
trên mặt bàn và để ý sao cho các ngón cong queo vì bị chứng sưng khớp xương
được thoải mái. Bà hồi tưởng lại đoạn đời quá khứ với sự việc khó hiểu đột hiện
rồi biến ngay. Chỉ sau khi gặp mặt được cậu con trai tóc vàng, đoạn đời đó mới
tái hiện lần đầu tiên trong trí bà. Nét mặt đau đớn, cuồng dại, tuyệt vọng của
nó đã gợi lại cho bà chuyện đó. Bà chợt nhớ rõ.
Ngày đó bà hãy còn là một
cô bé gái. Bà nhớ rằng thuở đó mình đẹp và thông minh hơn tất cả những đứa con
gái khác. Nhưng thỉnh thoảng một cơn sợ hãi không rõ từ đâu xâm chiếm lấy nàng
như bị một nhóm kẻ thù cao lớn khổng lồ như cây rừng vây chặt đến không còn chỗ
nào lánh mặt. Nàng muốn gào khóc điên lo không nơi ẩn náu. Rồi một hôm nàng đọc
được một cuốn sách. Đó là cuốn “Nàng Alice lạc vào tiên cảnh”.
Bà còn nhớ rõ những tấm
hình minh họa. Nàng Alice với mái tóc dài thẳng mướt. Nhưng chính vì chai nước
mang nhãn hiệu “Hãy uống tôi” đã thay đổi cả cuộc đời nàng. Alice đã dạy bà
điều đó. Khi lũ thù nghịch như rừng cây cao đó vây hãm quanh nàng, nàng đã
chuẩn bị sẵn. Trong túi áo nàng thủ sẵn một chai nước đường dán nhãn “Hãy uống
tôi”. Nàng sẽ uống một ngụm nước trong chai và sẽ thu người nhỏ lại đến nỗi
nàng có thể ẩn mình dưới một chiếc lá hay nấp trong một hang kiến. Vậy thì
tuyệt quá. Cathy đã làm hơn như vậy. Nàng đã uống trọn cả chai nước màu nhiệm
đó nên nàng thu nhỏ lại đến độ biến mất. Khi đã biến hình nàng không còn bao
giờ trở lại được như xưa nữa. Nàng đã tìm được sự an toàn theo lối đó.
Bà Kate buồn bã lắc đầu
khi nhớ lại điều đó. Hai bàn tay bị chứng sưng khớp xương của bà lại cuồn cuộn
đau nhức và còn thêm một chỗ đau nữa. Mông bên phải của bà nhức nhối dữ dội mỗi
khi bà cử động. Bà gục đầu xuống miếng giấy thấm lớn giữa hai bàn tay co quắp.
Bà cảm thấy lạnh lùng, cô độc hết sức. Kẻ thù đông đảo như rừng cây như đang
vây chặt quanh bà. Họ đã biết được những gì? Những gì bà đã làm đều bị xô đẩy
bởi bàn tay vô hình. Có một cái gì ở bà khác với những người khác. Bà ngẩng đầu
lên nhưng không buồn lau cặp mắt đẫm lệ của mình. Sự thật đúng như vậy. Bà khôn
ngoan và mạnh bạo hơn những người khác. Bà có vài đặc tính mà những người khác
không có.
Giữa những ý nghĩ của bà,
khuôn mặt hơi sậm của Cal lơ lửng giữa không trung ngay trước mặt bà, đôi môi
của nó đang nở một nụ cười cay độc. Một khối nặng như đè lên người bà, làm bà
muốn nghẹn thở, những lời mà có lần bà nghe đã ứng nghiệm. Bà không có được
những cái mà người khác có. Nhưng bà không biết đó là cái gì. Một khi đã chấp
nhận điều này, bà đã sẵn sàng như đã có lần sẵn sàng. Bà biết mình đã sẵn sàng
từ lâu.
Bà Kate đứng dậy bước tới
bàn giấy của mình. Với bàn tay đau nhức bà ráng viết mấy chữ: “Tôi để lại tất
cả gia tài của cải của tôi cho con trai tôi là Aron Trask.” Bà ghi ngày tháng
vào tờ giấy và kí tên: “Catherine Trask.” Bà dừng tay trên tờ giấy giây lát rồi
đứng dậy, để tờ di chúc nằm ngửa trên mặt bàn.
Trên bàn còn có một ít
nước trà nguội trong bình. Trí óc bà đặc quánh như một khối gỗ. Cơ thể bà như
một hình nhân tồi tệ. Bà rót một tách nước bưng lại ghế dựa. Bà sửa mấy chiếc
gối nệm lại, ngồi xuống và tựa đầu và chiếc gối đệm cẩn thận. Bà cảm thấy khoan
khoái như sắp đi dự một cuộc tiệc. Bà thận trọng kéo sợi giây chuyền trong ngực
áo ra, mở nắp cái ống nhỏ đổ viên thuốc trong tay lắc qua lắc lại.
- “Hãy ăn tôi.” Bà lẩm
bẩm nói rồi bỏ viên thuốc vào miệng. Bà nâng tách nước trà lên môi nói thêm
“Hãy uống tôi.” Rồi nốc cạn tách nước.
Bà cố tập trung tinh thần
nghĩ đến nàng Alice trong cuốn sách nọ, đang thu người nhỏ xíu lại và chờ đợi.
Những khuôn mặt khác hiện ra: Cha, mẹ mình, Charles, Adam, ông Samnel Hamilton,
rồi đến Aron và bà cũng thấy cả Cal đang mỉm cười nhìn bà. Trong ánh mắt của nó
như ngầm nói: “Bà đã thiếu mất nhiều thứ mà người khác có.”
Tay chân bà bắt đầu rần
rần cảm giác tê liệt, ấm áp. Căn phòng sầm tối lại, ánh đèn lung linh tan loãng
như nước lỏng. Hai mắt bà nhắm kín lại. Hơi thở yếu dần. Bà có cảm giác mình
mỗi lúc một thu nhỏ dần rồi cuối cùng tan biến vào hư vô.
Trưa hôm sau, cảnh sát
trưởng Horace Quinn từ lộ Main Street rẽ qua đại lộ Central Avenue. Ông ghé mua
một ổ bánh mì Pháp còn nóng và thơm mùi bột nhồi men hấp dẫn tại lò bánh mì
Reynand.
Ông phải vịn vào lan can
để bước lên các bậc cấp nhà ông Trask. Chú Lee ra mở cửa, quanh bụng chú đang
quấn một tấm khăn dùng trong khi rửa chén đĩa. Chú nói:
- Ông ấy không có ở nhà.
- Được. Chắc ông ấy đang
trên đường về. Tôi đã gọi tới phòng động viên và sẽ đợi ở đây.
Chú Lee nép qua một bên
tránh đường cho ông Quinn vào. Chú mời ông ta vào ngồi đợi ở phòng khách. Ông
Quinn nhìn quanh căn phòng đủ tiện nghi. Sau bao nhiêu năm qua, ông vẫn không
thích công việc của mình. Ông nhớ mình có nghe một vị bác sĩ nói rằng: “Tôi
thích công việc giúp cho một em bé ra đời, và khi công việc hoàn tất mĩ mãn,
tôi thấy rất vui thỏa.” Ông cảnh sát trưởng thường nghĩ đến ghi nhận đó.
Đối với ông lại khác, mỗi
khi tận tâm làm xong một công việc thì hình như rằng làm gì cũng đem lại một
mỗi buồn khổ cho một người nào đó.
Horace Quinn nhớ rằng
mình đã hỏi chuyện ông Adam một lần cách đây lâu lắm rồi và còn nhớ ông ta dạo
đó rầu rĩ tuyệt vọng như người đang hấp hối. Dạo đó ông xem ông Adam quá thật
thà nên không gạn hỏi gì nhiều. Những năm về sau ông có dịp gặp ông Adam nhiều
hơn. Cả hai đều có chân trong hội Masonic Order.
Trong khi chờ đợi, Horace
nghĩ tiếp rằng, ông Adam không thể làm điều gì xấu vì ông ta không thiết tha
với cái gì cả. Phải những người thật ham danh lợi mới có thể làm những điều bất
chánh được.
Ông nghe tiếng chân ông
Adam về ngoài cổng trước. Chú Lee cũng nghe nên vội bước ra. Chú báo cho chủ
biết: “Có ông cảnh sát trưởng đang đợi trong nhà”, rồi đi xuống bếp tiếp tục
rửa chén đĩa khua rổn rảng.
Ông Adam bước vào tươi
cười bắt tay khách:
- Chào anh Horace. Có
chuyện gì trục trặc hả?
- Nghề của tôi thì luôn
luôn có chuyện trục trặc rồi. À, anh Adam, người đàn bà dạo đó vẫn còn là vợ
anh chứ?
Ông Adam ngượng ngùng
đáp:
- Vâng, mà có chuyện gì
vậy?
- Bà ấy tự vẫn chết hồi
hôm.
Nét mặt ông Adam nhăn
lại. Hai mắt ông như phồng lên và ngấn lệ. Ông cố giữ cho miệng mình đừng mếu
nhưng thất bại, ông úp mặt vào hai bàn tay rấm rứt khóc và nghẹn ngào thốt lên:
“Ôi, người vợ đáng thương của anh!”
Ông Quinn ngồi im lặng để
mặc cho ông Adam bộc lộ hết xúc cảm của mình. Một lát sau, ông Adam ngẩng đầu
lên nói:
- Xin lỗi anh Horace nhé!
Chú Lee từ dưới nhà bếp
đi lên, trao chiếc khăn mặt ẩm ướt vào tay ông Adam. Ông cầm lên chậm nước mắt
rồi trao lại cho chú Lee.
Với nét mặt hổ thẹn, ông
Adam nói:
- Tôi không ngờ xảy ra
chuyện đó. Tôi biết tính sao bây giờ? Tôi sẽ lãnh việc chôn cất nàng được chứ?
- Không, - ông Horace
nói. - Trừ khi ông muốn tình nguyện nhận lãnh, chứ tôi đến đây không với mục
đích đó.
Ông rút trong túi một tờ
giấy đã xếp cẩn thận chìa ra:
- Bà ấy viết di chúc để
lại tất cả gia tài của bà cho Aron, con trai anh.
Ông Adam đọc mấy hàng chữ
và tiếp tục nhìn sững vào tờ giấy như muốn nhìn xuyên qua bên kia và nói:
- Nó không hề biết… bà ấy
là mẹ nó.
- Anh không nói cho nó
biết sao?
- Không.
- Trời ơi! - Ông cảnh sát
trưởng kêu lên.
Ông Adam nói bằng giọng
thật đứng đắn:
- Tôi tin rằng nó không
muốn nhận thứ gì của bà ấy đâu. Chúng ta nên xé bỏ tờ di chúc này và xem như
không hề có thì hơn.
- Tôi e rằng không được.
- Ông Quinn nói. - Bà ấy có gửi nữ trang ở ngân hàng. Tôi cũng đã tới ngân
hàng. Khỏi cần đợi lệnh tòa án. Xem như không dính dáng gì cả.
Ông không nói với ông
Adam về việc ông nghĩ có thể còn có nhiều hình ảnh và sổ ghi địa chỉ giống với
loại mà ông đã tìm thấy tại bàn giấy của bà Kate và đã bí mật thiêu hủy hết.
- À. Cụ Bob đã cho phép
tôi mở chiếc hộp đó ra. Có trên một trăm ngàn Mĩ kim dưới hình thức những tờ
chứng chỉ có thể đổi thành vàng. Số tiền đã bó sẵn thành từng bó, ngoài ra còn
có một cuốn giấy khác. Đó là tờ chứng thư hôn thú.
Ông Adam dựa ngửa trên
ghế. Vẻ hững hờ xa vắng lại tái hiện trên nét mặt của ông, đó là dấu hiệu tách
biệt ông với thế giới chung quanh. Ông hỏi:
- Theo anh nghĩ thì tôi
phải làm gì bây giờ?
Cảnh sát trưởng Quinn
nói:
- Tôi chỉ có thể nói với
anh những gì tôi phải làm. Tôi cần gặp cậu con ông ngay bây giờ. Tôi phải nói
tất cả cho nó biết. À, nó bao nhiêu tuổi nhỉ?
- Mười bảy.
- Nó đã trưởng thành. Sẽ
có lúc nó dùng đến số tiền đó.
- Tôi không hiểu tại sao
bà ấy lại lập di chúc cho Aron?
- Có trời mà hiểu bà ấy.
- Vâng. Tôi sẽ làm những
gì anh bảo. Anh còn ngồi lại với tôi một lát nữa chứ?
- Dĩ nhiên là phải vậy.
- Chú Lee ơi! - Ông Adam
gọi. - Bảo Aron lên đây tôi cần gặp nó ngay. Nó đã về nhà rồi chứ?
Chú Lee bước lên ngưỡng
cửa. Cặp môi của chú nặng nề mím chặt giây lát rồi mới mở ra được:
- Dạ chưa.
- Còn Cal đâu?
- Cậu ấy đang ở trong
phòng. - Chú Lee trả lời.
- Được rồi. Gọi nó lên
đây. Nó hiểu chuyện này được.
Nét mặt Cal lại đầy vẻ
mệt mỏi, hai vai xệ xuống một cách kiệt lực. Ông Adam hỏi:
- Con có biết Aron đâu
không?
- Dạ không. Con không
biết. - Cal đáp.
- Sáng nay nó không có
mặt trong bữa điểm tâm. Vậy nó đi đâu?
- Làm sao con biết được?
Con đâu phải là người theo giữ anh con?[1]
[1] Câu này tương tự lời của Ca-in trả lời Đức Chúa
Trời khi Ngài hỏi về Abel mà Ngài biết rõ đã bị Ca-in giết chết vì lòng ganh
tị. Ca-in và Abel là con trai của ông Adam và bà Eva trong sách Sáng Thế Kí của
Thánh Kinh. Có lẽ J. Steinbeck cố ý so sánh với hai anh em đó trong Thánh Kinh.
(chú thích của dịch giả)
Ông Adam cúi gầm mặt
xuống. Trong mắt ông một tia sáng xanh lóe lên một cách kì lạ. Ông gượng gạo
nói:
- Có lẽ nó đã trở lại
trường đại học.
Đôi mắt ông có vẻ nặng nề
và ông nghĩ thầm như trong chiêm bao:
- Con có nghĩ rằng Aron
đã trở lại trường đại học không?
Cảnh sát trưởng Quinn
đứng lên nói:
- Những việc gì cần làm
tôi sẽ làm sau. Anh đang bị xúc đông mạnh, cần nghỉ ngơi cho khỏe nghe Adam.
Ông Adam ngẩng mặt nhìn
lên nói:
- Xúc động mạnh. Ồ, đúng
vậy. Cảm ơn Geeorge. Cảm ơn anh rất nhiều.
- Sao anh gọi là George?
-Cảm ơn anh rất
nhiều. - Ông Adam lặp lại.
Khi viên cảnh sát trưởng
đã ra khỏi nhà, Cal trở về phòng riêng. Cậu ta ngồi ở bàn giấy chống cùi chỏ
lên bàn, hai tay ôm ghì cái đầu đang đau nhức của mình. Đến nhà bà Kate đã
không mang lại cho cậu chút an ủi nào vì hành động trả thù của cậu không đem
lại một thắng lợi nào. Ra khỏi nhà bà Kate cậu đã chạm phải phản ứng của người
anh đang nức nở khóc và Aron đã đấm cậu một cú như búa tạ làm cậu ngã nhào.
Aron đã đứng trên người cậu trong bóng tối. Nhưng đột nhiên anh quay mặt vừa bỏ
chạy vừa khóc như một cậu bé đau khổ.
Hôm thứ sáu, Cal đã đi
lang thang suốt ngày. Tối hôm đó cậu ta nhờ người quen ở một sòng bài mua giùm
một phần tư chai rượu whisky vì cậu ta còn vị thành niên không được phép mua.
Cal tới con hẻm phía sau
nhà của Abbott ngồi tréo ngoải giữa đất, dù bị phản ứng mãnh liệt và nôn mửa,
cậu ta cũng nốc hết số lượng rượu trên cho đến khi trời đất quay cuồng và đèn
đường biến thành muôn ngàn sợi ánh sáng kì ảo. Đến rạng đông sương muối thấm
lạnh làm Cal tỉnh dậy với một tâm trạng ê chề. Cậu ta lê bước về nhà như một
con bọ tơi tả.
Sáng hôm sau, Cal đã phải
tắm bằng nước đá và chà xát cơ thể bằng một cục đá bọt. Sự đau đớn khi chà xát
bằng cục đá bọt lên da thịt lại khiến cho cậu thấy dễ chịu.
Biết rằng mình phải thú
nhận tội lỗi của mình với cha và khẩn nài sự tha thứ của ông. Tuy vậy khi được
gọi ra đứng giữa phòng trước mặt cảnh sát trưởng Horace Quinn và cha mình, cậu
ta đâm ngoan cố ương ngạnh như một con chó cứng đầu và nỗi ghê tởm chính mình
đã ngược ra chĩa vào mọi người chung quanh.
Sau đó cậu ta trở về
phòng riêng. Tội lỗi mà cậu đã gây nên lại giày vò cậu dữ dội không cách nào tự
cứu gỡ được.
Nghĩ đến phản ứng cuồng
bạo của Aron, cậu ta muốn điên đầu. Cal biết rằng mình phải kéo Aron trở về dù
có phải hi sinh chính mình đi nữa. Ý tưởng hi sinh xâm chiếm lấy cậu ta chẳng
khác nào những người mang mặc cảm phạm tội thường có.
Cal bước tới bàn riêng
của mình lấy gói dưới chồng khăn tay trong ngăn bàn ra. Cậu nhìn quanh phòng,
lấy cái khay bằng sứ đựng ghim lại đặt lên bàn mình. Cậu ta cầm một tờ giấy bạc
đưa ngay lên chính giữa chiếc khay và gấp lại thành một cái góc rồi quẹt một
que diêm châm vào. Xong cậu ta bóc một tờ giấy bạc kế tiếp châm đốt.
Khi sáu tờ giấy bạc như
vậy đã bị đốt cháy, chú Lee gõ cửa bước xộc vào nói:
- Tôi ngửi có mùi khét
nên vào thử có gì lạ không.
Chợt thấy Cal đang làm
chú kinh ngạc kêu lên:
- Ồ!
Cal vòng cánh tay che lại
sợ bị ngăn cản nhưng không có gì xảy ra. Chú Lee khoanh tay lặng lẽ đứng nhìn.
Cal điên cuồng đốt hết tờ giấy bạc này đến tờ giấy bạc kia cho đến khi tất cả
đã cháy tiêu hết, xong cậu lấy miếng gỗ đen nhỏ đậy lên mớ tro chờ chú Lee quở
trách, nhưng chú không nói gì cũng không cử động. Cuối cùng Cal lên tiếng:
- Nào, chú định nói gì
tôi xin chú cứ việc nói, tôi sẵn sàng nghe, chú hãy nói đi.
- Không. Tôi không muốn
nói gì hết. Nếu cậu không có gì muốn tâm sự với tôi thì tôi ngồi lại chơi một
lát rồi đi ra thôi.
Chú ngồi xuống một chiếc
ghế dựa, khoanh tay trước ngực chờ đợi.
Cal xoay mặt khỏi chú và
nói:
- Tôi sẽ ngồi lì lâu hơn
chú.
- Để thi đua chơi thì
được. Nhưng nếu kéo dài từ ngày này qua ngày khác, từ năm này qua năm nọ thì ai
biết được? Bộ có thể ngồi từ thế kỉ này qua thế kỉ kia sao? Không đâu Cal, cậu
sẽ thua.
Một lát sau Cal cau có
nói:
- Chú cứ tiếp tục thuyết
giảng nữa đi.
- Tôi chẳng thuyết giảng
gì cả.
- Vậy chú đinh nói gì
nữa? Chú biết tôi vừa làm gì rồi và hồi hôm tôi đã uống rượu say mèm.
- Chuyện thứ nhất thì tôi
đã ngờ trước, còn chuyện thứ hai thì tôi có thể ngửi thấy.
- Thật tâm tôi không
thích như vậy. Tôi e rằng nếu tôi không say có lẽ tôi đã bắn vào đầu mà chết
rồi.
- Cậu không nên làm như
vậy. À này, Aron đi đâu?
- Anh ấy đã bỏ đi. Tôi
không biết ảnh đi đâu?
- Cậu ấy không đến nỗi
hèn. - Chú Lee hoang mang nói.
- Tôi biết và tôi cũng
không nghĩ như vậy. Chú cũng nghĩ rằng anh ấy không làm bậy chứ?
Chú Lee hơi cáu nói:
- Một người khi muốn tự
trấn an mình về một vấn đề gì thường cố lôi kéo một người bạn tin theo những gì
người đó muốn cho là thật. Chẳng khác nào ta hỏi một anh bồi nhà hàng tối nay
có món gì ngon không? Làm sao tôi có thể trả lời câu hỏi của cậu được?
Cal gào lên:
- Không hiểu sao tôi lại
hành động như vậy? Không hiểu sao tôi lại hành động như vậy?
- Đừng có biến sự việc
thành phức tạp. Cậu phải biết rõ tại sao mình đã hành động như vậy. Cậu đã ganh
ghét Aron vì cha cậu đã làm thương tổn tự ái của cậu. Chuyện đó không có gì khó
hiểu. Cậu phải nhận rằng mình hèn.
- Chính tôi cũng thắc mắc
tại sao tôi lại hèn như vậy. Chú Lee, tôi không muốn làm thằng hèn. Chú làm ơn
giúp tôi với.
- Đợi tôi một chút. - Chú
Lee nói. - Hình như ba cậu đang gọi tôi.
Chú chạy ra khỏi phòng.
Cal nghe tiếng hai người nói chuyện với nhau léo xéo một lát rồi chú Lee trở
lại nói:
- Ông ấy sắp ra nhà bưu
điện. Này Cal, tôi không thích cái nhìn của cha cậu chút nào. Cái nhìn của ông
sững sờ thế nào ấy. Cal, tôi tưởng cần cho cậu biết: Mẹ cậu tự vẫn chết hồi
hôm.
Cal hỏi:
- Thật vậy sao? Rồi cậu
ta lẩm bẩm “Chắc bà bị tổn thương.” Không. Tôi không muốn nói như vậy. Tôi
không muốn nghĩ như vậy. Thì ra chuyện đó đã xảy ra. Tôi không muốn sự việc xảy
ra như vậy.
Chú Lee gãi một chỗ ngứa
trên đầu và nói:
- Việc đốt mớ tiền chắc
làm cậu thấy khoái lắm phải không?
- Vâng, có lẽ vậy.
- Tự hành hạ mình như vậy
cậu thấy khoái chứ? Nỗi thất vọng đã làm cho cậu thích thú lắm không?
- Kìa chú Lee! Chú hỏi gì
lạ vậy?
- Vậy là cậu khá thoea
mãn rồi. Cậu đang thưởng thức tình cảm bi thảm của chính cậu, một Caleb Trask
độc đáo. Có bao giờ cậu nghĩ rằng mình là một thằng con trai kì cục, lúc thì
bần tiện, lúc thì quảng đại một cách khó tin? Cậu đang kết hợp danh dự và bi
thảm lại với nhau trong đầu vì cớ mẹ cậu phải không? Và nếu có việc gì xảy ra
cho anh cậu, cậu có tìm cớ chạy tội giết người của cậu không?
Cal chậm chạp quay trở
lại bàn riêng của mình. Chú Lee để ý nhìn theo như một bác sĩ đang quan sát
từng phản ứng của một bệnh nhân. Rồi chú thở dài dịu giọng nói:
- Này Cal, người Mỹ chúng
ta là một giống dân cứng cỏi. Chắc cậu lấy làm lạ tại sao tôi lại gộp cả mình
trong đó? Có lẽ chúng ta đều là con cháu của những đám người hiếu động, phạm
pháp, ồn ào nhưng cũng can đảm, tự lập và quảng đại. Nếu tổ tiên chúng ta không
là những người như vậy thì họ đã ở yên tại quê hương chịu đói khổ trên mảnh đất
cằn cũ kĩ.
Cal quay đầu lại nhìn
chú, nét mặt đã mất hẳn vẻ căng thẳng. Chú Lee biết rằng mình đã không đến nỗi
làm cho cậu con trai này điên đầu. Cal chịu nghe vì thấy rằng những lời chú Lee
thẳng thắn và thành thật.
Chú Lee nói tiếp:
- Vì lý do đó mà tôi đã
gộp cả tôi trong đó. Chúng ta đều thừa hưởng những đặc tính đó và không giữ
được bao nhiêu từ quê hương cũ. Vì thế chúng ta can đảm cũng hơi quá và sợ hãi
cũng hơi quá, chúng ta vừa dễ tính vừa hung bạo như trẻ con. Chúng ta vừa tự
phụ vừa dễ cảm kích. Chúng ta vừa giàu tình cảm lại vừa thực tế... Chúng ta là
những người vụ thực tế... Chúng ta thường phung phí năng lực một cách vô ích.
Đó, tất cả chúng ta đều như vậy cả. Cậu cũng không khác gì.
Cal mỉm cười nói:
- Chú cứ nói nữa đi. Nói
nữa đi!
- Tôi không cần nói gì
thêm nữa. Tôi sẽ chấm dứt ngang đây. Tôi mong ba cậu về sớm. Tôi hơi lo cho ông
ấy.
Chú lo lắng bước ra khỏi
phòng. Ra tới cửa trước chú gặp ngay ông Adam đang đứng dựa tường, chiếc nón
sụp xuống ngang mắt.
- Ông Adam, có chuyện gì
vậy?
- Tôi cũng không biết
nữa. Chỉ thấy mệt. Mệt...
Chú Lee cầm ngang cánh
tay ông dìu lần ông vào tận phòng khách. Ông nặng nề ngồi phịch xuống ghế. Chú
Lee giở nón ra khỏi đầu cho ông. Ông Adam chà lưng bàn tay trái vào lòng bàn
tay phải. Cặp mắt ông thật kì lạ, sáng quắc nhưng bất động. Ông nói như người
mộng du, chậm rãi và như vọng lại từ xa. Ông vừa xoa tay thật nhanh vừa nói:
- Lạ thật. Tôi đã khuỵu
người trong nhà bưu điện. Ông Pioda đã phải giúp tôi.
- Có lá thư nào không? -
Lee hỏi.
- Có. Hình như có.
Ông thò tay trái vào túi
giây lát rồi rút ra nói như tạ lỗi:
- Bàn tay của tôi sao tê
cứng quá! - Ông lại thò tay phải vào móc ra một tấm danh thiếp màu vàng của
chính phủ.
- Hình như tôi đọc rồi.
Nhưng bây giờ tôi phải đọc lại một lần nữa.
Ông đưa tấm thiệp lên
trước mắt rồi buông xuống giữa đùi:
- Chú Lee, tôi cần phải
có cặp kiếng mới được, dù chưa bao giờ dùng tới nó. Tôi không đọc nổi nữa.
Những dòng chữ cứ nhảy múa loạn cả lên.
- Để tôi đọc cho nhé?
- Buồn cười thật. À, làm
gì tôi cũng phải có một cặp kiếng mới được. Được rồi. Trong đó nói gì vậy?
Chú Lee đọc: “Thưa ba,
con đã tình nguyện vào quân đội. Con khai con đã đủ mười tám tuổi. Con vẫn
thường. Đừng lo nghĩ gì về con. Aron.”
- Buồn cười thật. - Ông
Adam nói. - Hình như tôi đã đọc rồi nhưng tôi cứ tưởng như chưa đọc.
Ông ta lại xoa hai bàn
tay vào nhau.