Võ sĩ đạo, linh hồn của Nhật Bản - Chương 12
Chương XII: CHẾ ĐỘ TỰ SÁT và CHẾ ĐỘ PHỤC THÙ
Hai
chế độ này (được gọi là harakiri và katakiuchi) đã được nhiều văn nhân nước ngoài
bàn khá đầy đủ.
Trước
tiên tôi xin nói về vấn đề tự sát nhưng xin được hạn chế những quan sát của mình
trong giới hạn seppuku hay là kappuku, thường được biết với chữ harakiri, có nghĩa
là tự sát bằng cách mổ bụng mình. “Mổ bụng? Sao lại làm chuyện phi lý đến thế!”
Chắc hẳn sẽ có người la lên như thế khi nghe tiếng này lần đầu. Với tai người ngoại
quốc, thoạt đầu, đây có lẽ là chuyện hết sức kì quái. Nhưng, với những người đã
đọc qua tác phẩm của Shakespeare, thì đây không phải là chuyện lạ. Shakespeare đã
để cho Brutus nói rằng “Linh hồn của ngươi (Caesar) hiện ra, quay ngược mũi kiếm
của ta đâm vào ruột ta”. Một thi sĩ cận đại người Anh, trong tác phẩm “Light of
Asia” (Ánh sáng của Châu Á), đã có câu thơ tả lưỡi kiếm đâm vào bụng nữ hoàng, nhưng
không có ai chê tiếng Anh của ông ta thô tục hoặc phạm thượng cả. Một thí dụ nữa,
hãy nhìn bức tranh của Guercino trưng bày ở Palazzo Rossa, thành phố Genoa (thành
phố ở Tây bắc nước Ý, ND), vẽ về cái chết của Cato[1]. Ai có đọc bài thơ Cato ngâm
khi lâm chung do Addison (tùy bút gia người Anh, ND) viết, chắc chắn sẽ không chế
giễu thanh gươm đã đâm quá nửa vào bụng ông ta. Trong thâm tâm người Nhật, chết
bằng cách mổ bụng là câu chuyện của những hành vi cao quí nhất, câu chuyện của đau
thương đầy cảm động, cho nên không có gì ghê tởm, không có gì đáng chế giễu, không
có gì khiến người Nhật phải cảm thấy xấu xa. Sức mạnh biến sự việc thành đức tính,
thành sự vĩ đại, thành tình thương thật là huyền diệu cho nên một cách chết khó
coi đã thành một việc tuyệt vời, tượng trưng cho một sinh mạng mới. Nếu không thì
cái dấu hiệu (thập tự giá, ND) mà Đại đế Constantine[2] đã thấy sẽ không thể nào
chinh phục được thế giới!
[1] Cato (95TCN-46TCN): Cato Uticensis, triết gia phái Stoa
(được sáng lập vào khoảng 400 trước CN, luận về luận lí, thiên nhiên, luân lí) thời
La Mã, giữ chức quan “hộ dân” dưới thời Ceasar nhưng đã chống Ceasar và sau đó đã
tự tử.
[2] Đại đế Constantine (280-337): Hoàng Đế La Mã đầu tiên
theo đạo Cơ đốc. Ông có công lớn trong việc phát triển đạo Cơ đốc ở châu Âu.
Seppuku
không khiến chúng tôi cảm thấy phi lí, không phải chỉ vì chúng tôi có những liên
tưởng không có dính dáng gì đến chuyện đó. Việc chọn một chỗ đặc biệt trong cơ thể
để cắt, căn cứ vào những gì người ta tin ở phép giải phẫu cổ đại, thì nơi đó là
nơi trú ngụ của linh hồn và tình ái. Moses (trong “Cựu ước”, ND) đã viết “ruột của
Joseph đau đớn xót xa vì em mình”, hoặc, David đã cầu nguyện Thượng đế đừng quên
ruột mình, hoặc, Isaiah, Jeramiah, và những đồng bóng khác trong “Cựu ước” cũng
nói “ruột kêu” hay “ruột đau”. Tất cả những điều này đã ủng hộ tín ngưỡng lưu hành
trong người Nhật rằng ở bụng có linh hồn trú ngụ. Người Semites (những người có
ngôn ngữ thuộc hệ Semite gồm người Ả rập, người Do thái, người Ethiopia v.v., ND)
cho rằng sinh mệnh và tình cảm trú ngụ ở gan, thận và mỡ ở xung quanh. Chữ “hara”
có ý nghĩa bao quát hơn chữ “phren” hoặc “thumos” trong tiếng Hy Lạp, và người Nhật
cũng giống như người Hy Lạp, nghĩ rằng linh hồn của con người trú ngụ ở chỗ nào
đó trong bụng. Ý tưởng đó không nhất thiết chỉ có ở những người cổ đại. Người Pháp
có triết gia Descartes[3] nổi tiếng với thuyết linh hồn trú ngụ ở tùng quả tuyến,
vẫn nhất định dùng từ “ventre” để diễn tả lòng dạ, một từ hết sức mập mờ trong giải
phẫu học, nhưng có ý nghĩa trong sinh lý học. Giống như thế, từ “entrailles” (bộ
lòng) được dùng để chỉ tình thương, lòng thương hại. Không phải vì mê tín mà tin
như vậy, ngược lại việc này còn có vẻ khoa học hơn, nếu so sánh với quan niệm phổ
thông cho rằng con tim là trung khu của tình cảm. Không cần phải hỏi thầy dòng,
người Nhật biết rõ hơn cả Romeo (trong bi kịch “Romeo và Juliet” của Shakespeare,
ND) nói rằng “ở chỗ vô cùng xấu xa của thây người chết có tên họ người ta”. Những
học giả thần kinh học cận đại nói về não bộ của phần bụng hoặc phần xương chậu,
cho rằng ở đó có trung khu của thần kinh giao cảm, chịu ảnh hưởng của những tác
dụng tâm linh rất lớn. Khi đã thừa nhận thuyết sinh lí học thần kinh này, thì dễ
dàng lập ra một tam đoạn luận về “seppuku”. “Tôi sẽ mở chỗ ngồi của linh hồn của
tôi để cho anh xem nó ra sao. Hãy nhìn bằng chính mắt anh xem nó dơ hay sạch”.
[3] Descartes (1596-1650): Một trong những triết gia quan
trọng nhất ở phương Tây. Ông cũng là nhà vật lí, sinh lí học và toán học nổi tiếng.
Tôi
không muốn bị hiểu lầm rằng tôi thừa nhận việc tự sát, trên lập trường tôn giáo
lẫn lập trường đạo đức. Nhưng việc việc tôn trọng danh dự được đánh giá cao đã là
lí do đủ để cho nhiều võ sĩ phải tuyệt mệnh. Có không biết bao nhiêu người đã đồng
thuận với tấm tình do Garth (thi sĩ người Anh, ND) diễn tả.
“Chết
là cứu tinh khi danh dự bị mất
Là
căn nhà bình yên để khỏi bị khổ nhục”
Đồng
cảm với tình cảm này, nhiều người đã mỉm cười đưa linh hồn của mình vào cõi chết.
Võ sĩ đạo chấp nhận cái chết liên quan đến danh dự như một lợi khí để giải quyết
nhiều vấn đề phức tạp. Vì thế cho nên, với những võ sĩ trọng công danh, cái chết
tự nhiên, ngược lại, bị xem như vô vị, không phải là cái chết mà nam nhi mong muốn.
Tôi dám nói rằng chỉ cần thật sự thật thà thì chắc chắn nhiều người sùng đạo Cơ
đốc sẽ thú nhận rằng họ cảm thấy say mê, nếu không phải là tán thưởng tích cực,
sự điềm tĩnh tuyệt vời mà Cato, Brutus, Petronius[4] và nhiều vĩ nhân thời cổ đại
đã có khi kết liễu mạng sống của mình. Có quá trơ tráo hay không khi nói bóng nói
gió rằng cái chết của triết gia thủy tổ (Socrates, ND) có phần nào đó có thể nói
là tự sát. Từ những câu chuyện do đệ tử kể lại cặn kẽ, chúng ta có thể biết được
rằng thầy của họ sẵn sàng chấp nhận mệnh lệnh của quốc gia, mặc dầu ông ta biết
rằng về mặt đạo đức, đó là lầm lỗi, và tuy ông ta có thể chạy trốn, nhưng ông ta
đã tự tay mình cầm lấy chén thuốc độc, rưới vài giọt tế thần. Qua toàn thể hành
động và thái độ của ông ta, chúng ta không thể nhận ra được rằng đây là hành vi
tự sát hay sao? Không có cưỡng bách xác thịt ở đây như những trường hợp xử hình
thông thường. Đúng, phán quyết của quan tòa có tính cách cưỡng chế. “Nhà ngươi phải
chết, và chết bằng chính tay ngươi”. Nếu tự sát có nghĩa là chết bằng chính tay
mình thì trường hợp của Socrates rõ ràng là tự sát. Nhưng không ai có thể buộc tội
ông về chuyện đó; Platon, ghét việc tự sát, nên không muốn gọi thầy mình là kẻ tự
sát.
[4] Petronius (27-66): Văn sĩ trào phúng La Mã. Tuy bị kết
tội phải chết bằng cách tự tử nhưng trong qua trình tự tử Petronius đã điềm nhiên
ăn uống và làm thơ.
Bây
giờ độc giả chắc đã hiểu rằng seppuku không phải chỉ là một hành vi tự sát. Seppuku
là một chế độ, có tính luật pháp và tính nghi lễ. Đây là một sáng kiến của thời
trung cổ, một phương pháp để võ sĩ chuộc tội, nói lên lời xin lỗi, tránh khỏi nhục
nhã, chuộc lại tình bạn, và chứng minh lòng thành của mình. Seppuku được thực thi
với nghi thức trang trọng khi bị đem ra thi hành như một hình phạt theo luật pháp.
Đây là sự điêu luyện của tự sát, không ai có thể mổ bụng mình nếu không trấn tĩnh
được tình cảm hoặc không giữ được điềm tĩnh trong thái độ. Vì thế seppuku là hình
thức hết sức phù hợp với võ sĩ.
Tôi
cũng muốn miêu tả ở đây nghi thức đã bị bãi bỏ này chỉ vì lòng hiếu kì thích chuyện
cổ của mình. Biết rằng có một tác giả ngày nay ít có người đọc, ưu tú hơn tôi nhiều,
đã miêu tả việc này, tuy hơi dài nhưng tôi xin được trích dẫn ra đây. Trong trước
tác “Những câu chuyện Nhật Bản xưa” (Tales of Old Japan), sau bài dịch một khái
luận liên quan đến seppuku từ một quyển sách hiếm của Nhật Bản, Mitford đã miêu
tả một cuộc xử hình thật sự do chính mắt mình thấy.
“Chúng
tôi (bảy người đại diện ngoại quốc) được mời đi theo sau những người làm chứng vào
“hondo”, gian phòng chánh trong chùa nơi thi hành nghi lễ. Quang cảnh thật trang
nghiêm. Hondo có mái cao, cột trụ đen. Trần nhà treo lủng lẳng những đèn lồng phết
vàng to lớn và những trang trí chỉ có ở chùa Phật. Trước bàn thờ Phật cao, trên
sàn lót chiếu trắng đẹp, có một sạp được phủ bằng nỉ đỏ, cao chừng khoảng một tấc.
Những cây nến cao sắp hàng đều đặn, tỏa ánh sáng lờ mờ thần bí, vừa đủ để cho thấy
mọi việc xảy ra. Bảy người chứng Nhật Bản ngồi ở phía trái trên sàn cao, và bảy
người ngoại quốc ngồi ở bên phải. Ngoài ra không có ai khác.
Sau
vài phút chờ đợi lo lắng bất an, Taki Zenzaburo (1837-68), một người đàn ông cường
tráng, ba mươi hai tuổi, với vẻ cao quí, trong lễ phục bằng chỉ gai đặc biệt, bước
vào phòng. Một kaishaku và ba quan chức mặc jimbaori (áo khoác chiến trận) có luồn
chỉ vàng cùng vào. Kaishaku ở đây cần nên biết là không có nghĩa là kẻ hành hình
(executioner) như trong tiếng Anh. Đây là công việc của một người có địa vị chững
chạc, trong nhiều trường hợp, nhiệm vụ này được giao cho người bà con thân tộc hay
bạn bè của người bị án, và quan hệ giữa họ không phải là quan hệ của tử tù với người
hành hình, mà là quan hệ của người giữ vai chính với người trợ giúp. Trong trường
hợp này, người kaishaku là môn đệ của Taki Zenzaburo, một người rất giỏi kiếm thuật
nên được số đông bạn bè lựa chọn.
Với
người kaishaku ở bên trái, Taki Zenzaburo chậm rãi bước về phía những người chứng
Nhật Bản. Cả hai cùng cúi đầu chào, sau đó họ tiến gần đến phía những người ngoại
quốc, và giống như trước, họ càng tỏ ra tôn kính cúi đầu chào chúng tôi. Hai bên
người chứng đều trịnh trọng đáp lễ. Cuối cùng Zenzaburo bước lên sạp seppuku, chậm
rãi và trang nghiêm đến trước bàn thờ Phật lạy hai lạy, sau đó quì xuống xếp chân
ngồi trên thảm nỉ, quay lưng sang bàn thờ Phật. Người kaishaku nép mình ở phía bên
trái. Một trong ba quan chức phục dịch tiến ra phía trước, tay dâng khay cúng Phật,
có để một “wakizashi” bao giấy trắng. Wakizashi là đoản kiếm của người Nhật, dài
khoảng ba tấc, có mũi nhọn và lưỡi bén như dao cạo. Người phục dịch cúi đầu lạy
đưa khay đến kẻ tử tù. Kẻ tử tù nhận khay, cung kính dùng hai tay nâng khay lên
ngang đầu rồi để xuống trước mặt mình.
Sau
một lần cúi đầu thật sâu, Taki Zenzaburo, với giọng nói biểu lộ tình cảm ngập ngừng,
đầy xúc động của một người đang thú tội đau đớn, nhưng trên vẻ mặt và thái độ không
có một dấu hiệu nào lộ ra.
“Tôi,
một mình tôi, đã phạm lỗi không thể bào chữa, tôi đã ra lệnh bắn người ngoại quốc
ở Kobe, và khi nhìn thấy họ chạy trốn, tôi lại ra lệnh bắn tiếp. Tôi sẽ mổ bụng
vì đã phạm tội này. Cầu xin quí vị làm ơn chứng kiến cho tôi việc này”.
Nói
xong, Zenzaburo cúi đầu chào thêm một lần nữa rồi lột áo mình xuống đến dây thắt
lưng để lộ phần trên thân thể ra. Theo đúng với cách thức, Zenzaburo đã cẩn thận
nhét hai cánh tay áo xuống dưới gối mình để thân khỏi bị ngã ngửa ra phía sau; vì
người Nhật cho rằng, một võ sĩ có địa vị, khi chết, phải ngã về phía trước. Chậm
rãi và với cánh tay vững vàng, Zenzaburo cầm lấy thanh đoản kiếm đặt ở trước mặt
mình lên, nhìn vào đó như gởi gắm tấm lòng của mình, gần như là yêu thương, và trong
giây khắc, hắn dường như đang tập trung mọi suy tư của mình cho giây phút cuối cùng
này, bỗng hắn đâm lưỡi kiếm sâu vào dưới bụng trái, chầm chậm rạch lưỡi kiếm sang
bên phải, lật lưỡi kiếm lại trong vết thương rồi kéo lưỡi kiếm lên trên một chút.
Trong suốt thời gian làm động tác đau đớn kinh hoàng này, bắp thịt trên mặt hắn
không có một cử động. Hắn rút đoản kiếm, rồi khom mình đưa cổ ra. Nỗi đau đớn lần
đầu tiên hiện lên trên mặt hắn, nhưng không có một tiếng rên la. Người kaishaku
đứng nép bên cạnh, chăm chăm nhìn từng hành động của hắn, đúng vào lúc đó đã bình
tĩnh tiến lên, trong phút chốc đã vung một đường kiếm lên không. Một ánh sáng loé,
một tiếng soạt nặng nề, ghê rợn, một tiếng rơi vỡ; trong khoảnh khắc cái đầu đã
lìa khỏi cổ.
Trong
bầu không khí yên lặng nghẹt thở, chỉ có tiếng máu phun từng đợt, rùng rợn từ đống
thịt bất động trước mặt chúng tôi. Chỉ một phút trước đó, đống thịt này đã là một
võ sĩ mạnh mẽ, dũng cảm. Thật là một quang cảnh khủng khiếp.
Sau
khi gập mình cúi đầu, người kaishaku rút một tờ giấy trắng đã chuẩn bị sẵn ra lau
lưỡi kiếm và xuống sạp seppuku. Đoản kiếm nhuộm máu, chứng cớ đẫm máu của vụ xử
hình, đã được trịnh trọng mang đi.
Hai
quan chức đại diện cho Mikado (Thiên hoàng, ND) sau đó đã rời chỗ ngồi đến trước
mặt các nhân chứng ngoại quốc yêu cầu chúng tôi chứng thực án tử hình đối với Taki
Zenzaburo đã được thi hành đúng đắn. Nghi thức chấm dứt ở đây, và chúng tôi đã rời
khỏi ngôi chùa”.
Cảnh
seppuku được ghi lại khá nhiều trong văn học hoặc trong những mẩu chuyện của những
người có dịp chứng kiến, nhưng có lẽ chỉ cần đưa ra thêm một chuyện nữa cũng đã
đủ.
Chuyện
của hai anh em Sakon và Naiki. Người anh hai mươi bốn tuổi và người em mười bảy
tuổi đã tìm cách giết Ie-yasu để trả thù cho cha mình, nhưng đã bị bắt giữ trước
khi len lỏi được vào dinh trại. Ông tướng già khen hai anh em có lòng can đảm, dám
mưu sát mình nên đã ra lệnh cho phép họ được chết trong danh dự. Tất cả đàn ông
trong gia tộc bị tuyên án tử hình. Người em út, Hachimaro, một đứa trẻ mới tám tuổi
cũng bị tội chết, và ba người đã được đưa đến một tịnh xá để thi hành án. Một y
sĩ được dịp chứng kiến đã ghi lại trong nhật kí của mình cảnh tượng như sau.
“Khi
ba anh em đến ngồi xếp hàng chờ giờ hành hình, Sakon quay sang hướng người em út
nói: “Hachimaro, mày mổ bụng trước đi. Có gì tao sẽ giúp mày làm đúng cách”. Người
em nhỏ trả lời rằng vì nó chưa bao giờ được thấy seppuku, nên nó muốn xem cách làm
của người anh, và sau đó nó sẽ làm theo. Hai người anh mỉm cười trong nước mắt.
“Giỏi. Mày thật là mạnh dạn, không hổ thẹn là con của cha”. Rồi hai người để Hachimaro
ngồi ở giữa, Sakon đâm đoản kiếm vào bụng trái của mình rồi nói: “Hachimaro, nhìn
kĩ đây. Thấy rồi chưa? Đừng rạch dao quá sâu, không thì sẽ bị ngã ngửa đấy. Ụp về
phía trước, không được động đậy hai đầu gối”. Giống như thế, Naiki vừa rạch bụng
mình, vừa nói với thằng bé. “Này, phải mở mắt, không được nhắm, không thì mặt mày
sẽ giống như mặt đàn bà chết. Nếu lưỡi kiếm bị chậm lại, hay không còn sức nữa,
thì hãy đem hết can đảm ra, cố rạch cho hết”. Thằng bé nhìn cách làm của hai anh,
và khi cả hai tắt thở, nó lặng lẻ cởi áo, mổ bụng mình theo đúng những điều hai
anh đã dạy”.
Xem
việc được mổ bụng là điều danh dự làm nẩy sinh ra nhiều lạm dụng. Nhiều người trẻ
thiếu suy nghĩ đã vội vàng tìm đến cái chết như con thiêu thân, chỉ vì những lí
do không đáng chết hoặc vì những chuyện hoàn toàn không phù hợp với đạo lí. Số võ
sĩ chết vì những động cơ không rõ ràng, khó hiểu nhiều hơn số phụ nữ đi tu. Sinh
mạng rẻ mạt - rẻ mạt khi được đo bằng tiêu chuẩn danh dự của thế gian. Điều đáng
buồn nhất là danh dự luôn luôn giữ được lãi trong việc đổi chác, nhưng thật ra danh
dự ở đây không phải luôn luôn là một loại vàng ròng, mà là một thứ hợp kim với nhiều
kim loại hèn mọn. Dante (nhà thơ vĩ đại người Ý, 1265-1321, ND) đã giam tất cả những
người tự sát vào lao ngục thứ bảy trong phiên bản “địa ngục” của mình, nhưng chắc
không ai có thể khoe rằng con số người đó nhiều hơn con số người Nhật đã tự sát.
Thế
nhưng, đối với một võ sĩ chân chính, việc vội chết hoặc liều chết bị xem như đồng
nghĩa với nhút nhát. Một võ sĩ tiêu biểu (Yamanaka Shikanosuke 1740?-78, ND), khi
bị thất trận liên tục, bị truy kích từ đồng lên núi, từ rừng vô hang, cuối cùng
bị đói lả, phải ẩn náu trong bộng cây, gươm cùn, cung gãy, tên cũng không còn mũi
nào … trong hoàn cảnh giống như thế, chiến binh La Mã (Brutus, ND) cao quí nhất
đã không phải tự vẫn bằng chính thanh gươm của mình ở Philippi hay sao? Nhưng, võ
sĩ này đã nghĩ rằng nếu chết đi thì quả là nhút nhát nên đã ngâm câu thơ sau đây
với tâm trạng chịu đựng gần với tinh thần của người Cơ đốc tuẫn đạo để an ủi mình.
“Đến
đi! Cứ đến
Kinh
hoàng, khổ nhục, buồn đau.
Nặng
nề cứ chất
Thử
xem sức mình còn được bao lâu”.
Đây
là điều võ sĩ đạo dạy. Nhẫn nhục, đối đầu với khốn khổ và nghịch cảnh bằng tấm lòng
trong sạch và sự nhẫn nại của mình; vì Mạnh Tử dạy rằng: “Khi Thượng đế muốn giao
việc lớn cho người ta, trước hết Thượng đế sẽ làm khổ người đó cả linh hồn lẫn thể
xác, đặt người đó trong hoàn cảnh đói khổ, làm đảo lộn mọi dự định của người đó”.
Danh dự thật sự chỉ có được khi làm tròn nhiệm vụ Thượng đế giao cho, và chết vì
nhiệm vụ đó, nhất định không phải là điều nhục nhã. Ngược lại chết để tránh những
gì Thượng đế mong muốn, quả thật là việc khiếp nhược. Trong quyển sách kì quái “Religio
Medici” (Tôn giáo của bác sĩ) của Thomas Brown (bác sĩ y khoa người Anh, 1605-82,
ND), có một đoạn văn hoàn toàn giống với điều võ sĩ đạo chỉ dạy. Tôi xin trích dẫn
ra đây. “Coi thường cái chết là điều can đảm. Nhưng nếu sống còn khủng khiếp hơn
cả chết, dám sống mới thật là can đảm vậy”. Một danh tăng (Tenkai 1536-1643, ND)
ở thế kỉ thứ 17 có nói: “Bình sinh dẫu có ăn nói không khéo thế nào đi nữa, kẻ sĩ
chưa có chết lần nào, trong những lúc cần phải chết thường hay lách tránh. Kẻ sĩ
đã một lần chết trong tim, thì thương của Sanada (danh tướng thời chiến quốc của
Nhật Bản, ND) hay tên của Tametomo cũng không đâm thủng được.” Thật là gần với chỉ
dạy của Chúa rằng: “Người bị mất mạng vì ta, sẽ tìm được sinh mạng”. Có người cố
tìm cách giải thích về sự khác biệt giữa người theo đạo Cơ đốc với người khác đạo,
nhưng thí dụ trên cho thấy nhân loại, về đạo đức, đều có điểm trùng hợp với nhau.
Chế
độ tự sát của võ sĩ đạo thoạt nhìn có lẽ chúng ta sẽ ngạc nhiên về sự lạm dụng của
nó, thế nhưng nhất định đây không phải là một chế độ bất hợp lí, cũng không phải
là dã man. Sau đây chúng ta thử xem chế độ anh em với seppuku, được gọi là “phục
thù” có điểm nào tốt hay không. Hy vọng tôi có thể trình bày gọn ghẽ trong vài chữ,
vì chế độ như thế này, hay hãy gọi là phong tục, có trong tất cả mọi dân tộc, và
hiện nay cũng chưa được bãi bỏ hoàn toàn, được minh chứng bằng việc ngay bây giờ
cũng vẫn còn tồn tại những trận quyết đấu hay những cuộc xử hình cá nhân. Tại sao
một quân nhân người Mỹ đã đòi quyết đấu với Esterhazy (điệp viên, thủ phạm trong
scandal Dreyfus, ND)? Vì muốn trả thù cho việc Esterhazy đã đổ tội oan cho Dreyfus
phải không? Trong một bộ tộc lạc hậu không có chế độ hôn nhân, gian thông không
phải là một cái tội, sự ghen tuông của người yêu đã bảo vệ phụ nữ khỏi bị lợi dụng,
giống như vậy, trong thời đại không có toà án hình sự, sát nhân không phải là tội,
việc người thân của kẻ bị hại trả thù, đã duy trì trật tự xã hội. (Trong thần thoại
Ai Cập) Osiris[5] hỏi Horus: “Trên thế giới này, cái gì đẹp nhất?” Horus trả lời:
“Đó là việc trả thù kẻ đã giết cha mẹ mình”. Đối với người Nhật thì chắc phải thêm
vào “… và kẻ đã giết chúa quân mình… ”
Trong
hành vi trả thù, có một điều gì đó làm cho lòng tôn trọng chính nghĩa được thoả
mãn. Lí lẽ của người trả thù như thế này: “Cha tôi là người hiền lương, không có
lí do nào để phải chết. Kẻ giết cha tôi đã làm một điều xấu xa gớm ghiếc. Cha tôi,
nếu sống, nhất định sẽ không tha thứ cho những hành vi như thế đó. Trời cũng ghét
những việc ác đức. Không cho kẻ ác làm điều xấu là ý chí của cha tôi và cũng là
ý chí của trời. Hắn phải chết bằng bàn tay của tôi; vì hắn đã làm cho cha tôi đổ
máu, tôi, là huyết nhục của cha tôi, tôi phải làm cho kẻ giết cha tôi đổ máu. Tôi
không thể đội trời chung với hắn”. Lí lẽ này đơn thuần và ấu trĩ (mặc dầu chúng
ta biết rằng Hamlet[6] cũng không có lí do nào sâu xa hơn). Dẫu thế, qua lí lẽ này,
ta thấy bẩm sinh con người có cảm giác quân bình chính xác và cảm giác công lí như
nhau. “Mắt đổi mắt, răng đền răng”. Cảm nghĩ của chúng tôi về phục thù chính xác
như toán số, và khi hai vế của phương trình này chưa bằng nhau, thì chúng tôi vẫn
còn có cảm giác như quên làm một điều gì đó.
[5] Osiris: Con của thần trời và thần đất, bị em là thần sa
mạc Set giết. Con là Horus đã trả thù cho cha.
[6] Hamlet: Nhân vật trong bi kịch Hamlet của Shakespeare.
Hoàng tử Hamlet xứ Đan Mạch thề trước vong linh của vua cha, nguyện phục thù người
giết cha mình là chú và người mẹ đã kết hôn với chú khi cha vừa mới mất. Vì tính
tình hay suy tư dằn vặt, Hamlet trách móc trọng thần Polinius, cha của người yêu
Ophelia. Hamlet giết Polinius và bỏ Ophelia khiến Ophelia đau khổ, tự tử. Hamlet
sau đó tuy trả được thù nhưng đã phải chết trong khổ đau.
Trong
đạo Do Thái, nơi người ta đặt niềm tin ở Thượng đế ganh tị, hoặc trong thần thoại
Hy Lạp nơi có thần Nemesis (nữ thần phục thù, ND), việc phục thù có thể nhường cho
những sức mạnh siêu nhân. Thế nhưng, võ sĩ đạo đã lập một chế độ phục thù dựa vào
thường thức, với tính cách như một tòa án về đạo đức để người ta xử những sự kiện
không thể xử được bằng luật pháp thông thường. Chúa quân của bốn mươi bảy võ sĩ
bị xử tội chết. Không có toà án để cho họ kháng cáo, nên họ đã sử dụng chế độ phục
thù, một toà án tối cao duy nhất thời đó. Và như thế đến phiên họ, họ phải chịu
hình phạt tử hình bằng luật thông thường, nhưng bản năng của dân chúng đã có phán
quyết khác và nhờ vậy tên tuổi của họ luôn được ghi nhớ, mồ mả họ ở chùa Sengaku
vẫn còn hương khói. Tuy nhiên, Lão Tử đã dạy báo oán bằng đức, và Khổng Tử đã nói
rõ hơn là oán phải được đáp lại bằng chính nghĩa. Phục thù vì thế chỉ được xem là
đúng khi đó là hành vi vì người trên hay vì người ơn. Đối với những tổn hại của
mình hay của vợ con mình thì cần phải nhẫn nhịn và tha thứ. Vì thế võ sĩ hoàn toàn
cảm thông với lời thề của Hannibal[7] (mãnh tướng của Carthago, ND) báo thù cho
tổ quốc của mình, nhưng lại khinh miệt James Hamilton (nhân vật trong chiến tranh
giữa England và Scotland vào thế kỉ thứ 16, ND) vì đã để trong thắt lưng của mình
một nắm đất lấy từ mồ vợ để luôn thúc giục mình trả thù những việc ác của nhiếp
chính Regent Murray.
[7] Hannibal (247 trước CN - 183 trước CN): Mãnh tướng Hannibal
của Carthago (đô thị thuộc Tunisia nay) năm lên chín, đã cùng cha thề trước tế đàn,
quyết hi sinh vì tổ quốc đánh đuổi quân La Mã. Vì lời thề này mà Hannibal đã phải
chiến đấu với quân La Mã suốt đời.
Cả
hai chế độ tự sát và phục thù đều không còn lí do để tồn tại trong bộ hình luật
hiện đại. Chúng ta không còn dịp nghe được chuyện mạo hiểm lãng mạn của một cô gái
trẻ đẹp giả trang đi tìm dấu kẻ giết cha mẹ mình. Kiếm khách Miyamoto (1584-1645)
bây giờ đã thành “chuyện nay đã xưa”. Ngày nay, cảnh sát có tổ chức hẳn hoi sẽ điều
tra, tìm bắt phạm nhân cho người bị hại và pháp luật sẽ thực thi chính nghĩa. Toàn
thể quốc gia và xã hội sẽ sửa phạt những điều sai trái. Có chính nghĩa xã hội, việc
phục thù sẽ trở thành không cần thiết. Nếu phục thù là sự đói khát của con tim chỉ
muốn được thỏa mãn bằng máu sống của người để cúng như học giả thần học người New
England đã diễn tả thì một vài điều trong luật hình đã không thể chấm dứt hoàn toàn
việc phục thù được như thế này.
Tuy
seppuku không còn được cho phép tồn tại trong pháp chế, thế nhưng thỉnh thoảng vẫn
còn nghe có. Có lẽ khi kí ức của quá khứ vẫn còn tồn tại thì vẫn còn tiếp tục nghe
thấy. Khi con số người muốn tự sát trên khắp thế giới gia tăng với tốc độ đáng sợ
thì cách tự sát không mất nhiều thì giờ, không đau đớn lắm sẽ được hoan nghênh.
Nhưng giáo sư Morselli (tác giả “Tự sát luận”, ND) đã đặc ân cho seppuku địa vị
quí tộc trong các phương pháp tự sát. Giáo sư cũng đã chủ trương “trong một trăm
trường hợp tự sát bằng phương pháp đau đớn nhất, hoặc cần nhiều thời gian, thì chín
mươi chín trường hợp có thể coi như là hành vi của cuồng tín, hoặc phát điên, hoặc
cuồng loạn tinh thần do những kích thích bệnh hoạn gây ra”. Nhưng, seppuku bình
thường không có một dấu hiệu nào cho thấy có vẻ cuồng tín, phát điên hay mê loạn,
và để làm được việc này việc cần nhất là phải có một thái độ trầm tĩnh cao độ. Tiến
sĩ Strahan (trong “Suicide and Insanity” (Tự sát và hỗn loạn tinh thần), ND) chia
tự sát ra thành hai loại “tự sát một cách hợp lí hay là tự sát một cách hoài nghi”
và “tự sát một cách bất hợp lí hay là thật sự tự sát”. Seppuku là tỉ dụ tốt nhất
cho loại hình đầu tiên.
Từ
chế độ có mùi máu cũng như từ khuynh hướng tổng quát của võ sĩ đạo, ta có thể suy
ra dễ dàng rằng thanh kiếm giữ vai trò quan trọng trong sinh hoạt và qui luật xã
hội, đến nỗi đã có câu cách ngôn nói rằng “thanh kiếm là linh hồn của võ sĩ”.

