Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên (Tập 11) - Chương 1

TRÊN ĐƯỜNG ĐI

Mùa xuân năm 1915, con gái duy nhất của Laura, Rose viết thư
cho mẹ từ trụ sở tờ báo mà cô là một phóng viên.

The Bulletin

San Francisco, Calif.

Bà A.J.Wilder

Trại Rocky Ridge

Mansfied, Missouri

Mẹ Bess thân yêu
nhất,

Rõ ràng con không
thể chịu đựng nổi nỗi nhớ thương như thế này với mẹ lâu hơn nữa.

Mẹ phải sắp xếp để
có mặt ở đây trong tháng Bảy hoặc chậm nhất là tháng Tám. Chỉ đơn giản là Mẹ
Tới chứ không bàn cãi thêm với con một điều gì nữa. Con hiểu mẹ cảm thấy thất
vọng thế nào trước đây, vì con cảm thấy mọi thứ đều tệ, con cho là còn tệ hơn
nữa, vì con đã thất vọng khủng khiếp về chính mình với hai lần làm mẹ thất vọng
và thêm nữa thật buồn vì con không thể sắp xếp khá hơn. Nhưng lần này con hoàn
toàn tin chắc là phải đâu ra đấy. Không có một điều gì thê thảm xảy ra nữa
chẳng hạn như chiến tranh, một trận động đất khác hoặc bất kỳ điều gì.

Con không có kế
hoạch đưa mẹ đi ra ngoài vì hiện nay tụi con không có xe hơi và cả Gillette
(chồng của Rose) và con đều phải lo làm việc và không có nhiều tiền lắm. Nhưng
cách nào thì mình cũng có cùng nhau một thời gian dễ chịu. Mẹ có thể
thăm San Francisco và Hội Chợ, gặp gỡ các bạn của con, chơi cùng với
tụi con những lúc tụi con không mắc công việc. Việc làm của con là một loại
hứng thú lưu động do con không phải có mặt thường xuyên tại sở và mẹ có thể
cùng đi với con trong hàng loạt công việc ở bên ngoài. Con có thể sắp xếp cho
mẹ có một chuyến bay trên máy bay(1) nếu mẹ thích và mình có
thể tới tất cả những nhà hàng nhỏ đặc biệt.

(1) Lúc đó, Rose đã
từng bay trên vịnh San Francisco bằng cách buộc vào cánh chiếc máy bay của
Lincoln Beachey, viên phi công Beachey đã tử nạn vào tháng Ba 1915, trước những
ngày đầu của kỳ Hội Chợ 1915. Đó là viên phi công Mỹ đầu tiên lái máy bay lượn
thành vòng hoàn chỉnh. Viên phi công trẻ Art Smith là người thay thế ông ta
trong kỳ Hội chợ. Những hình bổ sung gồm có một bức hình Smith đang lái máy bay
lượn vòng và nhả khói trên không, gây hồi hộp cho đám đông. Rose đã viết trên
tờ Bulletin một loạt bài về cuộc đời của Smith về sau được in thành sách và có
nhiều bản còn được lưu giữ tới hiện nay.

Con đã tính toán
nội trong tháng Bảy sẽ gửi về cho mẹ khoản tiền chi đi đường và có
thể trong suốt thời gian mẹ ở đây, con sẽ gửi mẹ mỗi tuần 5 đô la để bù lại
những thiệt hại mà mẹ bị mất trong việc chăn nuôi gà qué… do chuyến đi. Con còn
nghĩ đến mọi thứ việc vặt vãnh được gác qua và giảm mức chăm lo nhiều vào lúc
đó. Những trái đào tây sẽ không còn và sức ép của công việc không tệ lắm. Mẹ
cũng sẽ tránh khỏi cái thời tiết hết sức nóng bức.

Con nghĩ bằng sự
lượm lặt mọi thứ và giao tiếp với một đám người đang cầm bút, sinh hoạt hội họa
và những người gần như là nghệ sĩ, mẹ sẽ có một cái nhìn mới toàn diện về mọi
sự ở đây và có thể thấy khá nhiều điều để viết khi mẹ trở về. Nếu thị trường
báo nông dân đóng cửa thì vẫn còn nhiều thị trường khác mở rộng. Con đã nhận
được lời mời viết truyện ngắn cho một tạp chí miền tây để chuyển lại cho mẹ vào
một ngày khác. Con không có đủ thời giờ để viết cho tạp chí này - nó chỉ là một
tạp chí nhỏ, nhưng có thể trả 50 đô la hoặc ước khoảng như thế cho một truyện
ngắn. Khi mẹ đã sắp đặt công việc trại chạy đều mà không tốn nhiều thời giờ, mẹ
có thể làm những việc như vậy. Và với việc trang trải xong các khoản tiền và nợ
cầm thế, xây xong ngôi nhà mới, mẹ và bố có thể xoay xở mọi thứ dễ dàng hơn.
Năm tới, có lẽ mẹ sẽ lại thực hiện một chuyến đi nhỏ tới Louisana hoặc một nơi
nào đó. Theo cách nhìn của con thì chỉ cần thanh toán xong các món nợ là bố mẹ
sẽ có lợi tức đủ sống và có thể dùng những khoản phụ thu nhỏ - các khoản tiền
thu từ táo, dâu tây - để vui chơi.

Bằng mọi cách, xin
mẹ thu xếp tới đây vào khoảng tháng Bảy hoặc tháng Tám và nhớ xếp đặt công việc
để có thể rời trại trong ba tháng.

Mẹ đừng may thêm
quần áo mới vì mình có thể sắm tại đây, ngoại trừ đồ lót. Quần áo ở đây rẻ
không khác ở chỗ mẹ và có lẽ có nhiều kiểu khác hơn - mình sẽ gom đủ đồ sau vài
ngày mua sắm và sau khi trở về, mẹ sẽ có những món đồ hoàn toàn mới lạ so với
mọi người ở đó. Mẹ nhớ mang những thứ mặc ấm vì ở đây sắp lạnh - mẹ sẽ mặc áo
váy suốt mọi thời gian, ngoại trừ vào buổi tối - mình không mặc áo váy vào buổi
tối ngoại trừ những dịp hiếm hoi như dự tiệc hội hoặc thứ gì đó. Con có một
người thợ may rất tuyệt, ông ta có thể khâu vắt các món đồ theo hình dáng và sẽ
khiến mẹ kinh ngạc, cho nên mẹ đừng bận tâm may thêm món đồ nào để mang theo.
Con nghĩ có thể chiếc áo lụa hồng của mẹ là rất đẹp với đường diềm đăngten màu
đen và thêm
một
ít hạt cườm màu đỏ. Nếu mẹ cần mang thêm thứ gì thì nên mang thêm giầy và những
chiếc kéo bấm Sears Roebuck - ở đây những thứ đó rất mắc tiền. Mẹ đừng mang bất
kỳ chiếc mũ nào vì trong tháng Bảy ở đây, mọi người đều đội kiểu mũ mùa thu mà
mình sẽ mua tại đây. Nói tóm lại, tất cả đồ mang theo của mẹ chỉ là đồ lót mặc
ấm, găng tay và giầy.

Con không nói nhiều
về những thứ mình sẽ làm vì như thế sẽ khiến mẹ thất vọng khi tới đây. Nhưng
mình có thể cùng tới thăm và dạo quanh khu Chianatown, mẹ có thể gặp một số
người quen biết của con và đi một chuyến máy bay. Và mẹ có thể làm quen với
thành phố San Francisco. Con mừng là mẹ từ vùng Ozarks tới vì mọi thứ ở
đây đều là đồi dốc. Thành phố nhiều sương mù, nhiều gió, bụi và xám xịt khiến
mẹ sẽ không thích San Francisco khi mẹ ở đây, nhưng khi rời xa mẹ sẽ
luôn luôn mong quay lại. Mãi mãi nó là như thế. Nếu mẹ thích, mẹ sẽ ăn món mực
biển. Con hứa điều này.

Mẹ nghĩ gì về “Câu
chuyện về Art Smith”? Nó có vẻ khá tốt. Mẹ còn nghĩ gì về bài “Những lời thú
nhận của một bác sĩ phẫu thuật”? Con nghĩ đó là một sự dại dột kinh khủng,
nhưng tất cả bộ biên tập báo Bulletin lại nghĩ là một chủ đề tuyệt vời. Con
không biết còn có ai khác thấy thế không. Có thể con sẽ quay lại với những
trang báo phụ nữ của bà Bessie(2) vào tháng Sáu. Con không lưu
tâm lắm, nhưng đó là một công việc dễ dàng. Con sẽ viết cho bà ta một câu
chuyện nữa và thơ thẩn dạo quanh suốt ngày.

Yêu
mẹ nhiều lắm

ROSE

(2) Bessie Beatty là
người đầu tiên thúc đẩy nghề nghiệp của Rose bằng cách khuyến khích Rose viết
bài gửi tới cho báo Bulletin với tư cách cộng tác viên tự do.

Và thế là
Laura lên đường. Bà không thể chờ đợi để tả những gì nhìn thấy cho chồng là
Almanzo. Lá thư này được viết trong chặng dừng chân đầu tiên, tại nhà một người
bạn chỉ cách nhà sáu mươi dặm.

Springfield, Mo

Chiều thứ bảy

21 tháng Tám, 1915

Manly thân yêu,

Em nghỉ tại nhà
Mabel hai tiếng đồng hồ trong lúc chị ấy tới thăm điều trị cho một khách hàng
của mình. Rồi chị ấy cùng đi kiếm mũ cho em. Sáng nay tại Mansfield, em
gần như “đã liếm láp một chút trước khi khởi hành”. Người ta nói xe lửa chậm
nửa giờ nên em tới nhà Young và bà Young mời em một ly cà phê - ai dè xe chỉ
chậm đúng mười phút. Em chạy từ nhà Young và bọc quanh xe lửa, bám leo lên dù
nó phải chờ trong lúc John đưa va li và túi đồ của em từ văn phòng tới.

Em sẽ tiếp tục
không có kính đeo. Sáng nay em đã khám mắt và bác sĩ nhãn khoa nói cần mất ba
hay bốn ngày để làm kính cho hợp với mắt của em. Ông ta nói và có vẻ chứng thực
điều đó với dụng cụ nhãn khoa của ông ta là mắt trái của em nhìn tốt còn mắt
phải thì thị lực rất kém. Ông ta bảo mắt trái em vẫn bình thường nhưng bắt nó
phải làm việc một mình sẽ không tốt do cái nhìn của mắt phải hoàn toàn không
ổn. Theo ông ta, chiếc kính mà em sẽ phải có cần được làm kỹ đặc biệt để em có
thể mang liên tục thay vì chỉ mang khi đọc sách, và trời đất ơi, ông ta bảo phí
tổn làm kính là 20 đô la.

Nếu bác sĩ Fuson có
mặt ở thị trấn em sẽ tới gặp để hỏi coi những người ở đây có nói đúng không hay
họ theo thói quen moi tiền, rồi sau đó sẽ định liệu cách xử sự cho đúng. Em nói
với bác sĩ nhãn khoa là em không thể chờ lấy kính vì em phải
đi California, nhưng nếu ông ta giữ lại các chi tiết ghi chép thì khi trở
về em sẽ ghé để xem sao. Ông ta bảo ông ta sẽ làm điều đó và nếu em thấy không
thể làm khác hơn được thì có thể viết thư và ông ta sẽ gửi kính khi em tới nhà.

Em cứ thắc mắc
không biết anh và con chó Inky của mình ra sao? Nông thôn ở đây xơ xác một cách
khủng khiếp. Không thể thu hoạch được gì từ nó cả. Hạt giống rau diếp chắc hư
hết rồi? Có lẽ tốt hơn là anh cần coi lại.

Ráng chăm lo cho
chính anh và cả Inky nữa. Em sẽ trở về trước khi anh học được cách làm quen với
cuộc sống không có em. Mabel và em cùng đi vào
chiều nay và chị ấy sẽ
gặp em trên chuyến xe lửa đi thành phố Kansas vào lúc 10g40 tối nay.

Thương
yêu

BESSIE

*

Kansas city

Chủ nhật 22 tháng Tám, 1915

Manly thân yêu,

Em vừa qua một
chuyến xe. Xe chạy từ Springfield chậm hai tiếng, chất đống người từ miền
nam về St. Louis vòng quanh thành phốKansas. Có mười lăm toa xe và
hai đầu máy. Suốt đường em ngồi với một người Đức ở St. Louis nồng
nặc mùi bia và phát âm V thay vì Wilder, nhưng ông ta rất tử tế mời em ăn đào
và trong đêm khi trời lạnh đã khẽ đánh thức em dậy để choàng lên người em chiếc
áo khoác thượng hạng của ông ta. Ông ta đã già, đầu muối tiêu và là một người
hoàn toàn lịch sự. Em đã thấy một người tử tế và giúp em mọi thứ cần thiết như
thường gặp. Hy vọng anh và Inky ổn thỏa hết.

Thương yêu cả hai

BESSIE

*

Sáng
thứ Hai, 7 giờ

23
tháng Tám, 1915

Manly thân yêu,

Hãy viết cho em để
em biết rõ mọi việc ra sao khi em tới đó. Anh nhớ ghi địa chỉ: Bà Gillette
Lane, co The Bulletin, San Francisco, California.

Em sẽ
tới Denver, nhưng hiện còn cách 198 dặm. Trễ bốn giờ hai lăm phút, nhưng
phải cố làm điều gì tốt nhất để bù lấp thời gian. Tối qua có một vùng trống lốc
dài 400 bộ, rộng 40 bộ và trong lúc em ngủ ngon lành hẳn phải có ai đã làm việc
giống như ổn định sự khuấy động để tất cả vượt qua vùng này. Một vùng quê nhìn
thật kỳ quái, những đồi cát vĩ đại lơ thơ cỏ mọc nên khắp nơi chỉ có cát.

Những vách cát dựng
dọc theo song và những cụm liễu, bong gòn chạy bên mé sông, ngoài ra không còn
ở đâu có một thứ cây nào mà chỉ là cát trải dài khắp mọi phía. Đây hẳn phải là
một vùng nuôi trồng lớn. Thỉnh thoảng có một ngôi nhà và kho chuồng cùng một
cối xay gió với những bãi chăn nuôi ở gần. Em có thể nhìn thấy những bầy ngựa,
bò từ xa và những đám bò con ở gần các kho chuồng hơn.

Em đếm thấy khoảng
năm mươi con bò nhỏ trong một bầy và còn có những bầy đông hơn.

Trọn ngày hôm qua chỉ
có một người phụ nữ duy nhất ở trên xe và bà ta sắp xếp chỗ ngủ rồi ngồi yên
tại đó. Có ba người đàn ông. Em hỏi một người coi ông ta có biết vùng này là
đâu không, rồi nói chuyện. Ông ta là một người Pháp thuần túy, sinh sống
tại Baltimore, Maryland.

Lần đầu được thấy
cây ngải đắng vào sáng nay. Một thứ cây còi cọ. Mọc thành từng cụm nhỏ trên
khắp đồng cỏ.

Em vừa nhìn thấy
rất nhiều, rất nhiều gia súc - có thể tới 200 con trên một bãi chăn lớn. Đường
ranh có dựng hàng rào, như anh biết. Mặt đất bằng phẳng. Anh chàng luật sư
từNebraska nói là đất rất đẹp và ông già người Pháp với em mỉm cười với
nhau. Ông già cho rằng đây là một vùng nông thôn rộng lớn nhưng không đẹp. Em
không thích tay luật sư dù rằng anh ta tốt nghiệp tại Harvard như anh ta nói.
Anh ta nói luôn miệng và tỏ ra biết quá nhiều. Em ngồi cùng ghế với anh ta
nhưng không hỏi han gì. Em không thân thiện với anh ta còn ông già người Pháp
lờ anh ta quay qua nói chuyện với một cậu bé dễ thương về cuộc đi dạo ởDenver.
Ông ta đang trên đường đi San Francisco nhưng ghé
lại Denver trong lúc em tiếp tục đi. Ông ta ở Bỉ ngay trước chiến
tranh và đã nhìn thấy nhà thờ Rheims, như anh đã biết, đã bị người Đức phá
hủy, và khuôn cửa sổ màu hồng nổi tiếng không bao giờ thay thế nổi. Ông ta
khoảng bảy mươi lăm tuổi và kể với em về vợ ông ta, một phụ nữ Pháp New
Orléans, và mẹ của ông ta, người đã từng nhiều lần đáp thuyền buồm vượt biển
từ New Orléans qua Âu châu thuở còn con gái.

Lúc này những đỉnh
đồi đầy đá và có vẻ kỳ thú khủng khiếp - em đã ngưng ở đây vì một người khi trẻ
từng đi chăn bò ở Nebraska và lúc này đang là một luật sư. Ông ta
đang trên đường đi tới thung lũng song Snake thuộc Wyoming là nơi ông
ta có trại nuôi trồng.

Xe đã đi qua vùng
đồi đá kỳ thú và vùng quê đang trở lại phẳng phiu. Lúc này em đang ởColorado. Ở
đây có đất trại và chủ quyền có thể mua được với giá 350 đến 500 đô la một khu
320 mẫu.

Theo luật mới, đất
trại ở đây chia theo đơn vị 320 mẫu thay vì 160 mẫu. Đất trồng khô và phải tưới
nước, khi cần. Một hồ nước ngầm cung cấp nước tưới nếu được bơm. Vùng quê bằng
phẳng và em có thể nhìn tới hết tầm mắt. Xe sẽ tới Denver vào khoảng
trưa và em được nghe nhắc là có thể đi tiếp trên chuyến xe khởi hành vào lúc 3
giờ. Em đã trễ chuyến xe mà em chờ. Vặn lui đồng hồ lại một tiếng. Bây giờ tính
theo giờ miền Tây.

Denver

Trưa
thứ Hai

Đúng là em lỡ
chuyến xe chuyển tiếp tại Denver và đang ở một khách sạn gần nhà ga. Em có
thể lên đường vào lúc bảy giờ tối nay và không được nhìn phong cảnh. Em ghét
phải làm thế nhưng lại nghĩ thà là như vậy. Nếu không em có thể khởi hành vào
tám giờ sáng. Em hơi bị mệt và mong được chấm dứt chuyến đi. Mọi thứ ngoài cửa
xe đều xấu xí từ khi em rời vùng Ozarks.

Em ước được biết
anh và Inky xoay xở ra sao và ông Nall có đến làm giúp không. Em rất bực mình
với việc cứ bị xe lửa quăng vào tình trạng trễ giờ nhưng rồi em lại nghĩ chờ
đợi vẫn tốt hơn tai nạn.

À, bác sĩ Fuson nói
làm cho em một cặp kính có thể phóng lớn mọi thứ với giá một đô la để em có thể
đọc trong lúc em đang đi xa và khi em trở về, ông ấy sẽ dẫn em tới bác sĩ nhãn
khoa để bảo làm cho em một cách đàng hoàng. Ông ấy bảo đám người ở đây là bọn
móc túi và Mabel nói chị ấy nghĩ thói quen của họ là thế.

Yêu anh và Inky

BESSIE

*

Denver,
Chiều thứ Hai

23
tháng Tám, 1915

Manly thân yêu,

Rồi, em đã quyết
định ở lại. Em đã tính toán hết về cách này. Rose đã vạch rõ rằng với cách này
em có thể xem ngắm một phần vùng nông thôn mà không chắc có lúc nào em còn trở
lại. Nếu ra đi vào tối nay, em sẽ lấy một chỗ nằm trên xe và sẽ chi phí ít hơn
so với việc ở lại đây. Em đã thay áo và ở lại trong phòng. Em đã có một ly trà
nóng và một phần bánh nướng giòn vào lúc hai giờ rưỡi nên sẽ không ăn thêm nữa.
Em sẽ đi nằm và ngủ trọn phần còn lại của buổi chiều và tối nay để tươi tỉnh
vào sáng mai. Ngày mai, em sẽ ngủ một chút thôi và không cần phải lấy giường
nằm, như thế em sẽ lấy lại được một số tiền chi phí khách sạn ở đây và thú vị
có trọn một ngày trên xe gặp gỡ mọi người. Một chuyến đi trên toa xe pun-man
với một đám đông và không cần kiếm cơ hội ngắm nhìn dân quê đang lui tới. Em
tính toán như thế về khoản tiết kiệm nên không tốn kém nhiều khi ở lại và sẽ
vẫn nhìn vùng quê mà Rose dự liệu cho em nhìn thấy, đồng thời sẽ tới Frisco
đúng thời gian mà nó đã trù tính cho em phải tới, nếu không có chuyện ngăn trở
gì khác xảy ra.

Vùng quê tiếp tục
quang đãng phẳng lì cho tới Denver nhưng em không thể nói chắc là
đang lên cao và đầu máy hình như đang leo lên. Một người đàn ông nói với em
rằng xe đang chạy trên độ cao một dặm trên mực nước biển, nhưng vùng quê vẫn
như thế, đúng ngay lúc em viết lá thư này trên xe.

Mọi người đang cắt
và đập lúa mì, kéo đi từ các tụ. Em nhìn thấy một số mương tưới, vài cánh đồng
trồng khoai tây và sông Columbia chảy giữa các bờ cỏ, khá giống với sông Missouri,
chỉ khác là không nhiều bùn như thế. Cỏ mọc thưa đến nỗi em nhìn thấy đất suốt
trên đường đi.

Ông già người Pháp
dễ thân, Victor Brun, giúp em kiếm khách sạn và sau khi em đã vào phòng một
lúc, ông ấy còn gọi em để biết chắc em nghỉ ngơi thoải mái và coi ông ấy có thể
cần làm gì cho em ở phía ngoài. Ông ấy rất nhiệt tình giúp em và rất sợ làm sai
trái. Ông ấy đã đi khỏi nên có thể em sẽ không gặp lại ông ấy. Buổi sáng khi ra
đi, em sẽ để lại ít chữ cho người quản lý và mời ông ấy tới viếng trại Bờ Đá.
Hiện nay ông ấy đi du lịch rất nhiều. Ông ấy nói là đã quyết định nhìn thấy một
phần nhỏ thế giới trước khi qua đời. Và ông ấy có thể tới với những người mà
ông ấy có dịp quen biết.

Em tin là anh sẽ
thích ông ấy. Hãy nhớ nhắc em kể cho anh nghe những điều mà ông ấy đã nói với
em về vùng Maryland. Em sẽ có nhiều thứ để kể với anh nhưng em sợ sẽ bị
quên mà đó lại là những điều đáng lưu ý. Bây giờ em đi ngủ và sẽ gửi thư này
vào sáng mai.

Sáng nay vội rời
khách sạn nên em quên gửi thư này. Em đã yên ổn trên chuyến xe lửa đi Ogden và
được nhìn lướt qua những ngọn núi lần đầu. Người trưởng tàu tới và em nhờ ông
ta gửi thư này.

BESSIE

*

Trên
xe lửa

Từ
Denver tới Salt Lake

25
tháng Tám, 1915

Manly thân yêu,

Em ước anh có ở
đây. Em mất hẳn một nửa phần hứng thú vì luôn mong có anh.

Sáng nay xe chạy
qua một vùng quê gần như hoang vắng - sa mạc đầu tiên mà em nhìn thấy.

Những dãy núi bao
quanh các đường ranh và khi mặt trời lên, tất cả đều phô bày những màu sắc dịu
nhạt thật đẹp. Nhiều dặm đụn cát nối tiếp nhau không một lá cỏ hoặc một vật màu
xanh. Đó đây chỉ thỉnh thoảng mới có một khu nuôi trồng nhỏ xíu hoặc một đường
mương dẫn
nước
từ sông tới. Lúc này xe đang leo lên khỏi vùng sa mạc qua những đường diềm uốn
tròn của các dãy núi. Chúng rõ ràng dễ sợ. Đó là những đống khổng lồ và những
bức tường thành bằng đá mà ngay cả những khối đá trơ trụi cũng có hình thù kỳ
dị không tưởng tượng nổi. Tất cả đều khác với ý nghĩ của em. Em đã cho rằng có
những khu rừng giữa các mỏm đá, nhưng chỉ độc nhất một cây thông cằn cỗi trên
một vùng mênh mông. Những dãy núi giống như hình các lâu đài cổ ở Áo mà mình đã
xem và chúng tạo nên những vùng phòng thủ diệu kỳ ngần nào - những lâu đài như
thể có thể được dựng trên những dãy núi!

Em sẽ phải đợi ba
tiếng đồng hồ tại Salt Lake rồi di chuyển trên xe thêm một giờ
tới Ogden và đó là lần đổi xe cuối cùng của em. Sau đó là xe chạy thẳng
tới San Francisco. Các toa xe đều bị nhét chật cứng, đông người tới mức
không ai có thể thoải mái được. Không thể ngủ và em mệt kinh khủng. Nếu em biết
chuyến đi vất vả như thế em không tin là có đủ can đảm, tuy nhiên em biết chắc
em luôn mừng vì đã gần tới nơi. Nếu em bắt kịp những chuyến chuyển tiếp thì hẳn
ngày mai em đã có mặt ở San Francisco, nhưng xe lửa bị trễ và em không
biết sẽ ra sao. Cách nào cũng có thêm một đêm tồi tệ.

Được thôi, hôm qua
em đã làm quen với một người Anh và gia đình của ông ta. Họ sống
ở Ogden và đã có một chuyến đi tới Denver. Ông ta làm việc trong
các nhà máy bông sợi tại Anh từ khi bảy tuổi cho tới lúc trưởng thành. Ông ấy
từng là đảng viên Dân Chủ nhưng hiện đổi thành đảng viên Xã Hội và bênh vực
quyền bầu phiếu cho phụ nữ.

Xe đang chạy qua
đường hầm này tới đường hầm khác.

Trên tờ báo hôm
qua, em đã thấy hạm đội Nga bị bao vây trong biển Baltic đã đánh chìm mười một
tàu chiến Đức mà chỉ tổn thất một chiếc duy nhất.

Em mong biết anh và
Inky đang sống như thế nào và ông Nall có tới với anh không. Hy vọng là em sẽ
biết rõ ngay sau khi tới Frisco. Em cũng quá mệt rồi nên tạm ngưng.

Thương
yêu

BESSIE

BƯU THIẾP

Salt Lake City

25
tháng Tám, 1915

Xe
rời Salt Lake 5 giờ 30. Xe đi San Francisco đợi sẵn
tại Ogden nên em hoàn toàn ổn. Ngày mai sẽ có mặt tại San
Francisco.

BESSIE

*

Trong
lúc chờ tại ga

Salt Lake City

25
tháng Tám, 1915

Manly thân yêu,

Đây là nhà ga bất
tiện nhất mà em thấy. Em không thể mua hoặc đặt trước một vé trên toa pun-man
ngay tại chỗ. Phải tới một số nhà nào đó ở một thành phố nào đó trong thị trấn.
Em phải kiểm lại hành lý, thuê một cậu bé mang tới nơi và không nhìn thấy một
chiếc nón đỏ nào. Mới là 1 giờ 15 và xe của em đi Ogden chạy lúc 5
giờ 30 nên em sẽ tiếp tục ngồi đây và ghi chép. Trời mới biết nổi em sẽ gặp
chuyện gì ở Ogden khi tới đó lúc 6 giờ 30. Có khả năng em phải ở lại đó
suốt đêm nhưng sẽ có thay đổi cuối cùng và không khi nào lập lại với em. Khi đi
đâu bằng xe lửa em sẽ đi theo cách mau nhất với các thay đổi ít nhất.

Thật dễ chịu và yên
tĩnh ngồi tại nhà ga sau một chuyến xe tồi tệ. Em đang nôn nóng được thấy Rose
nhưng em biết trước khi tới đó vào thứ Sáu, em còn phải chịu phiền phức trong
tối nay, thật đáng ghét! Em hy vọng là ở nhà mọi thứ đều bình thường. Hãy nói
với ông Nall rằng em nhắc ông ấy phải chăm sóc cho anh và Inky vui vẻ.

Yêu anh và Inky

BESSIE

*

Trên
xe ở một vùng nào đó thuộc Nevada

Thứ
Năm, 26 tháng Tám, 1915

Manly thân yêu,

Thế là em đã an
toàn trên chặng cuối của cuộc hành trình. Hết sức may mắn là đã giành được một
ghế du lịch hạ giá tại Salt Lake và không có thay đổi
tại Ogden. Xe của em bắt kịp xe đi San Francisco, nhưng
xe Denver & Rio Grande tệ hại chậm trễ lại cuốn tụi em
vào chuyến xe chạy chậm qua Arkansas và thế là em trễ ba tiếng đồng
hồ. Chỉ cần gửi điện báo cho Rose khi nào gặp em.

Đêm qua em đã
qua Great Salt Lake trongánh trăng và đúng là một quang
cảnh đẹp nhất mà em được thấy. Nhiều dặm đường liên tục bên ngoài xe, đường đi
hẹp tới mức không thể nhìn thấy từ trong cửa xe khiến có vẻ như xe đang chạy
trên mặt nước hồ. Em cởi bớt áo và nằm trên ghế, nhìn ra. Ánh trăng kéo dài qua
mặt nước thành một con đường dát bạc và phía bờ xa mịt mù nhòa nhạt tan vào một
khoảng trống hoang giống như mặt hồ mênh mông vô tận. Em nghĩ là em sẽ ngắm cho
tới khi đến cuối hồ nhưng em quá mệt nên hai mắt tự động nhắm lại và khi em mở
mắt ra thì trời đã sáng và xe đang ra khỏi những vùng sa mạc của Neveda.

Em nhìn mặt trời
mọc trên sa mạc khi nằm trên ghế và cảnh thật dễ thương. Những dãy núi đá trơ
trụi, hoàn toàn trơ trụi, mang đủ loại hình thù gò đống tựa hồ gió cuốn mọi thứ
chất chồng lên rồi biến thành đá với màu tím trong các hang hốc và màu hồng,
màu vàng kim, màu hồng thẫm trên các chỗ cao hơn. Còn có cả màu vàng, màu nâu,
màu xám và hết thảy màu sắc nhẹ nhàng hòa trộn với nhau. Dưới chân các dãy núi,
cánh đồng màu xám nhạt trải phẳng lì với những cây ngải đắng và những lối mòn
phủ cát hoặc đất kiềm. Một vùng hoang vắng thê lương khó tả dù vẫn mang nét đẹp
riêng của nó. Suốt buổi sáng xe chạy qua sa mạc và lúc này đang ở một nơi có
thật nhiều gò cát. Khắp nơi dọc đường đi chỉ có một điểm nhỏ màu xanh có vẻ
sống động hoặc em có thể nói một người nào đó đang sống ở cái nơi có một điểm
nhỏ màu xanh. Em nhìn thấy hai ngôi nhà, một cối xay gió và một bụi cây xanh
chen ở chính giữa. Có một khoảng nhỏ trũng sông và những bãi chăn nuôi với một
người chăn bò trong nước da nám đỏ đang lùa một bầy ngựa. Mọi người trên xe đều
nghĩ là đang nhìn thấy nước ở một phía và hỏi người khuân vác đồ đó là nước gì.
Anh ta cười lớn nhắc cho biết đó chỉ là đất kiềm có vẻ giống như mặt nước. Rồi
tất cả nhìn thấy ở gần hơn và nhận ra những dặm dài liên tục chất đất hoàn toàn
màu trắng. Ở nhiều chỗ, đất trông giống như mặt nước rồi ở những chỗ khác lại
giống như tuyết. Có một ngôi nhà nhỏ và một bãi chăn nuôi ngay giữa một thửa
đất lớn. Không có một sinh vật hay một bong cây xanh nào trong tầm nhìn. Có một
con đường chạy ra và giống như con đường rộng chừng ba inch làm bằng tuyết với
những chất rác rưởi khô ở phía dưới. Ôi, cái vùng đáng sợ này, cái vùng đáng sợ
cho tới nay mới thấy.

Đây đúng là vùng sa
mạc mà mình đã đọc thấy là nơi người ta bị lạc trong bão cát và chết khô vì
khát nước. Rải rác một số lùm bụi mà em nghĩ là cây ngải đắng gần như bị vùi
kín dưới những cồn cát. Đất giữa những lùm bụi này hoàn toàn trần trụi và chỉ
là đất kiềm phủ trong cát. Đoàn xe và mắt mũi em phủ đầy cát cùng bụi đất và
mọi thứ, mọi người đều nhem nhuốc. Trong xe có một đám đông thật dễ thương, tất
cả cùng chuyện trò và làm quen với nhau một cách thoải mái. Một người đàn bà
nói chuyện với em hồi sáng cho biết gia đình họ sống tại thành
phố Kansas và
đang nghĩ tới việc kiếm một nông trại. Họ muốn bán cơ ngơi tại thành phố. Bà ta
rất tò mò muốn biết mọi chuyện về vùng Ozarks và bảo gia đình họ sẽ tới để xem
xét.

Xe sẽ tới San
Francisco vào khoảng mười một giờ tối nay. Em nghĩ phải gửi thư này tới
kịp cho anh nên sẽ ngưng.

Thương
yêu

BESSIE

Báo cáo nội dung xấu