Bí mật của Nicholas Flamel bất tử (Phần 3) - Chương 52 - 53 - 54
Chương năm mươi hai
Chiếc taxi rơi
vào một cái ổ gà và xóc nảy mạnh khiến hai đứa nhỏ sinh đôi thức dậy. “Xin lỗi,”
Palamedes vui vẻ gọi với ra đằng sau.
Cử động mọt cách
cứng ngắc, cánh tay và cổ đau buốt, cả Josh và Sophie hai đứa đều duỗi thẳng
người ra. Josh tự động lùa bàn tay vào mái tóc như tổ quạ của cậu, vừa ngáp miệng
rộng hoác vừa liếc nhìn cửa sổ, mắt hấp háy dưới ánh mặt trời. “Đây là
Stonehenge phải không ạ?” Cậu hỏi, nhìn săm soi ra cánh đồng cỏ cao điểm lấm tấm
những bông hoa dại. Rồi thực tại đập vào mắt và cậu tự trả lời câu hỏi của mình,
giọng hốt hoảng. “Đây không phải là Stonehenge.” Xoay vặn người, cậu nhìn qua
Nhà Giả kim và hỏi gằn, “Chú đưa tụi cháu đi đâu vậy?”
“Mọi thứ đều
trong tầm kiểm soát,” Palamedes từ phía trước nói vọng xuống. “Có các trạm kiểm
soát của cảnh sát trên đường chính. Chúng ta chỉ phải theo đường vòng một chút.”
Sophie nhấn vào
một cái nút và tấm kính cửa sổ chạy bằng điện rền rền hạ xuống, cuộn mùi cỏ vào
xe. Cô bé hắt hơi, và khi xoang mũi đã thông thoáng, cô bé nhận ra rằng mình có
thể phân biệt mùi hương của riêng từng bông hoa dại. Nhoài đầu ra cửa sổ, cô bé
ngửa mặt về phía mặt trời và bầu trời xanh ngắt không gợn chút mây. Mở mắt ra,
cô bé thấy một cánh bướm thuộc họ bướm giáp màu đỏ rực chấp chới bay ngang mặt
mình. “Chúng ta đang ở đâu vậy chú?” Cô bé hỏi Nicholas.
“Chú cũng không
rõ,” ông điềm tĩnh thừa nhận. “Palamedes biết nơi này. Hình như đâu đó gần
Stonehenge thì phải.”
Chiếc xe rung lắc
dữ dội, rồi Gilgamesh từ từ bừng tỉnh và quơ vào thức dậy. Nằm trên sàn xe, ông
ta ngáp hết cỡ và duỗi căng người, rồi bật ngồi lên và nhìn ra cửa sổ, nheo mắt
dưới ánh sáng chói chang. “Lâu rồi tôi chưa ra vùng nông thôn,” ông ta vui vẻ
nói. Ông ta nhìn hai đứa nhỏ sinh đôi và cau mày. “Chào.”
“Xin chào,” Josh
và Sophie đồng thanh nói.
“Đã có ai nói với
hai người là sự giống nhau của hai người đủ để làm thành một cặp sinh đôi
chưa?” Ông ta nói tiếp, ngồi xếp bằng trên sàn xe. Ông ta nhấp nháy mắt và cau
mày. “Hai người là một cặp song sinh,” ông ta nói thật chậm. “Hai người là cặp
song sinh huyền thoại. Mà tại sao hai người được gọi là cặp song sinh huyền thoại
chứ?” Ông ta hỏi đột ngột.
Hai đứa nhỏ nhìn
nhau và cùng lắc đầu, bối rối.
Gilgamesh
nghiêng đầu nhìn lên Nhà Giả kim và vẻ mặt ông ta chua chát. “Ông thì tôi biết.
Ông thì tôi sẽ không bao giờ quên được.” Ông ta quay trở lại hai cặp sinh đôi.
“Ông ấy đã cố giết tôi bằng được, hai người biết chuyện đó chưa?” Ông ta cau
mày. “Nhưng hai người biết chuyện đó mà, lúc ấy hai người đang có mặt ở đó mà.”
Hai đứa nhỏ lắc
đầu. “Chúng tôi đâu có ở đó ạ,” Sophie nói nhẹ nhàng.
“Không có ở đó hả?”
Nhà vua rách rưới ngồi trở lại xuống sàn xe và lấy hai tay ôm đầu, ép thật chặt.
“À, nhưng hai người phải tha thứ cho một lão già. Tôi đã sống lâu... lâu lắm rồi,
quá lâu, rất lâu, và tôi nhớ quá nhiều thứ, mà thậm chí những thứ tôi quên còn
nhiều hơn những gì tôi nhớ được. Tôi có những ký ức cùng những giấc mơ mà chúng
cứ lẫn lộn và quyện chặt vào nhau. Quá nhiều những tư tưởng xoay lòng vòng
trong đầu tôi.” Ông ta co rúm người, hầu như thể đang trải qua một cơn đau đớn
dữ dội, và khi nói, giọng ông không có gì ngoài một nỗi buồn mất mát. “Đôi khi
thật khó để thuật lại chúng một cach tách bạch, thật khó để biết những gì là sự
thật và những gì chỉ là do tôi tưởng tượng ra.” Ông ta cho tay vào tầng tầng lớp
lớp những chiếc áo khoác và kéo ra một xấp giấy kết vào nhau bằng dây nhờ. “Tôi
cứ viết hết ra,” ông ta nói nhanh. “Đó là cách để tôi nhớ.” Ông ta lấy ngón tay
cái lật giở qua mấy trang giấy. Có những mảnh lấy từ mấy cuốn sổ tay, những
trang bìa xé ra từ sách, những miếng báo hàng ngày, thực đơn và khăn trải bàn của
nhà hàng, giấy da dê dày cộp, thậm chí những mảnh da thuộc cùng những miếng đồng
nát mỏng dính và cả vỏ cây nữa. Tất cả đều được cắt hoặc xé răng cưa lổn nhổn
cho có cùng một kích thước và đặc nghẹt những chữ nguệch ngoạc rất nhỏ. Ông ta
lầ lượt nhìn sát vào từng đứa nhỏ. “Một ngày nào đó tôi sẽ viết về hai người, để
tôi sẽ luôn nhớ đến hai người.” Ông ta nhìn Flamel trừng trừng. “Và tôi cũng sẽ
viết về ông, Nhà Giả kim ơi, để tôi không bao giờ quên ông.”
Thình lình
Sophie nhấp nháy và hình ảnh trước mắt cô bé vỡ tan thành những giọt lệ đọng
trong đôi mắt. Hai giọt bạc tròn vo lăn xuống má.
Nhà vua từ từ quỳ
xuống trước cô bé và rồi, dịu dàng cẩn thận, giơ ngón trỏ quệt vào chất lỏng bạc
ấy. Hai giọt nước mắt vặn vẹo và cong gò lên như thủy ngân trên móng tay ông
ta. Tập trung mãnh liệt, ông ta chà hai giọt nước mắt giữa ngón trỏ và ngón
cái. Khi ông ngước nhìn lên, trong đôi mắt ông ta không còn chút dấu hiệu nào của
sự bối rối, không còn chút nghi ngờ vấn vương trên nét mặt. “Cô có biết bao lâu
rồi kể từ khi có ai đó từng rơi một giọt lệ khóc cho Vua Gilgamesh không?” Giọng
ông ta mạnh mẽ và uy nghi, và thoáng một chút trọng âm khi ông ta nói ra tên và
tước vị của mình. “Ồ, nhưng đó là thời trước lận kìa, thời trước cả thời gian,
thời trước cả lịch sử.” Giọt bạc đọng lại trong lòng bàn tay ông ta và ông ta
khép bàn tay lại như một nắm đấm, giữ những giọt nước mắt lại. “Hồi ấy, có một
cô gái đã nhỏ những giọt lệ bằng bạc, người ấy đã khóc cho một vị hoàng tử của
cả vùng, người ấy đã khóc cho ta, và cho thế giới mà cô ấy sắp phá hủy.” Ông ta
ngước nhìn Sophie, đôi mắt màu xanh lơ mở to và không hề chớp. “Cô gái,t ại sao
cô khóc cho ta?”
Nghẹn nào không
nói được, Sophie lắc đầu. Josh vòng cánh tay ôm lấy cô chị gái mình.
“Nói tôi nghe
xem nào,” Gilgamesh nằn nì.
Cô bé nuốt nước
bọt một cách khó khăn và lại lắc đầu.
“Làm ơn đi được
không? Tôi muốn biết mà.”
Sophie hít sâu
và rùng mình, khi nói, giọng cô bé chỉ vừa vặn là một tiếng thì thầm. “Tôi mang
ký ức của Bà Phù thủy Endor trong người. Tôi phải dùng hết thời gian của tôi cố
gắng xua tan các ý tưởng đó và phớt lờ chúng đi... nhưng ông đang ở đây, ráng
nhớ lại cuộc đời của chính ông, viết ra suy nghĩ của ông để đừng quên. Tôi chợt
nhận ra không biết mọi chuyện sẽ như thế nào nếu mình không biết, không nhớ.”
“Đúng vậy,”
Gilgamesh tán thành. “Con người chúng ta những không gì hơn là tổng hợp những
ký ức của chính mình.” Nhà vua ngồi lên dựa trở lại vào cánh cửa, hai cẳng chân
duỗi thẳng ra trước mặt. Ông nhìn mớ giấy để trong lòng mình, rồi rút ra một đụt
viết chì và bắt đầu cắm cúi viết.
Nhà Giả kim chồm
người tới trước, và trong chốc lát, như thể ông ta sắp sửa đặt bàn tay mình lên
vai nhà vua. Nhưng rồi ông rụt tay về và dịu dàng hỏi, “Bây giờ ông đang muốn
ghi nhớ chuyện gì vậy, Gilgamesh?”
Nhà vua đè ngón
trỏ vào trang giấy, xoa giọt nước mắt bạc vào đó. “Ghi nhớ cái ngày có một người
quan tâm đến tôi đủ để có thể nhỏ cho tôi một giọt lệ.”
Chương năm mươi ba
“Cuối đường rồi.”
Palamedes đạp thắng và chiếc taxi trượt bánh xe dừng lại ngay trước nhà kho. Một
đám mây bụi từ mặt đất khô rang bay tung lên, cuộn vòng quanh mấy cánh cửa sổ.
Gilgamesh lập tức đẩy mở cửa xe và bước ra bầu khí buổi sáng yên tĩnh, quay mặt
về phía mặt trời và giang rộng cánh tay. Cặp song sinh theo sau ông ta, hai đứa
móc từ trong túi ra cặp kính mát rẻ tiền mà Nhà Giả kim đã mua cho.
Flamel là người
cuối cùng ra khỏi xe, ông quay người nhìn sang chàng hiệp sĩ, lúc này vẫn chưa
tắt máy hay xuống xe gì cả. “Anh không định ở lại à?”
“Tôi sẽ vào ngôi
làng gần đây nhất,” Palamedes nói. “Chọn mua ít thức ăn, nước uống và dò la xem
có thể phát hiện chuyện gì đang xảy ra không.” Hiệp sĩ Saracen thả ánh mắt trôi
về phía nhà vua và hạ giọng. “Cẩn thận nghe. Ông biết ông ấy có thể trở tay
nhanh thế nào rồi đó.”
Nhà Giả kim xoay
chiếc gương bên hông xe một chút, là lệch một góc để có thể trông thấy
Gilgamesh và hai đứa sinh đôi đang khảo sát nhà kho. Căn nhà nằm giữa một cánh
đồng cỏ. Những bức tường cũ kỹ và bị cỏ che lấp kín mít được làm bằng những
thanh gỗ đen nhánh lắp sát vào nhau rồi lấy bùn đắp lên. Những cánh cửa được
làm trong thời gian gần đây hơn, và ông đoán có lẽ chúng mới được lắp vào đâu
đó trong thế kỷ mười chín. Bây giờ cả hai đều xiên lệch, cánh cửa bên phải chỉ
còn dính vào một cái bản lề bằng da thuộc. Chân của cả hai cánh cửa đều mục nát
thành từng mảng lởm chởm do thời tiết và do mấy con thú gặm cào.
“Thằng nhỏ sẽ
vào trong trước hết cho mà xem,” Palamedes vừa nói, vừa nhìn qua vai Nhà Giả
kim.
Flamel im lặng gật
đầu.
“Ông cũng cần phải
cẩn thận với nó,” Palamedes khuyên. “Phải tách nó ra khỏi thanh kiếm kia đi.”
Nicholas điều chỉnh
tấm gương một chút nữa. Ông trông thấy Josh rút phăng thanh Clarent ra khỏi ống
giấy dùng để đựng bản đồ và lòn người bước vào căn nhà, một chút sau đó thì người
chị sinh đôi của cậu bước theo và rồi đến nhà vua. “Thằng bé cần có một món vũ
khí,” Nhà Giả kim nói, “nó cần có cái gì đó để tự bảo vệ mình.”
“Thật đáng xấu hổ
khi lại dùng chính thứ vũ khí đó. Có
nhiều thanh kiếm khác mà. Chúng không quá nguy hiểm như vậy, không quá khao khát như cái thứ đó.”
“Tôi sẽ lấy lại
thanh kiếm khi thằng bé học được một phép thuật cơ bản,” Flamel nói.
Palamedes cằn nhằn.
“Ông cứ thử. Tôi không biết ông có làm được không.” Anh ta sang số. “Tốt nhất
là tôi đi cái đã. Tôi sẽ trở về ngay.”
“Ở đây an toàn không?”
Flamel vừa hỏi chàng hiệp sĩ, vừa nhìn quanh khắp lượt. Cánh đồng được bao bọc ởi
những cây sồi lâu năm thân cong vòng vèo; không có dấu hiệu nào cho thấy có nhà
cửa gần đó hay đường dây điện nào.
“Không có gì hết
á,” Palamedes nói kèm theo một nụ cười rộng hoác. “Shakespeare là chủ đất, và mọi
thứ chung quanh đều cách đây nhiều dặm. Ông ấy có tài sản trên khắp nước Anh.”
Chàng hiệp sĩ gõ nhè nhẹ vào bộ phận định vị qua vệ tinh được gắn vào tấm kính
chắn gió nứt nẻ nhiều đường. “Chúng tôi đã nhờ người nhập tất cả vào đây này;
đó là cách tôi có thể mang lại cho ông sự an toàn.”
Nicholas lắc đầu.
“Tôi không bao giờ hình dung Will là một nhà đầu tư bất động sản, nhưng đồng thời
tôi cũng không bao giờ tưởng tượng nổi ông ấy là một thợ cơ khí xe hơi.”
Chàng hiệp sĩ gật
đầu. “Ông ấy - và vẫn là - một nghệ sĩ. Ông ấy đóng nhiều vai. Tôi biết ông ấy
bắt đầu mua bất động sản hồi thế kỷ mười sáu, từ khi ông ấy còn đang viết lận
kìa. Lúc nào ông ấy cũng nói rằng mình kiếm được nhiều tiền từ bất động sản hơn
là từ những vở kịch. Nhưng ông không muốn tin một nửa những gì ông ấy nói đâu;
ông ấy có thể là một tay nói dối khủng khiếp.” Palamedes thả lỏng tay gas và
quay bánh lái, chiếc taxi to tướng màu đen cuộn thành một nửa vòng tròn, Flamel
đi dọc theo cánh cửa sổ để mở. “Từ ngoài đường không thể trông thấy căn nhà này
được, và tôi sẽ khóa cổng ngay sau khi ra khỏi.” Chàng hiệp sĩ liếc xéo sang
Flamel, rồi hất mạnh cằm về phía nhà kho hư nát. “Lần gần đây nhất khi gặp nhà
vua, có thật là ông cố giết ông ta không vậy?”
Nicholas lắc đầu.
“Mặc cho anh nghĩ về tôi thế nào, Ngài Hiệp sĩ, nhưng tôi không phải là tên giết
người. Vào năm 1945, tôi và Perenelle đang làm việc ở Alamogordo, New Mexico.
Rõ ràng, đó là công việc hoàn hảo đối với một nhà giả kim. Mặc dù công việc của
chúng tôi được xếp vào loại bí mật hàng đầu, nhưng Gilgamesh bằng cách nào
không biết đã phát hiện ra chúng tôi đang lên kế hoạch gì.”
“Mà ông bà đang
lên kế hoạch gì mới được chứ?” Palamedes hỏi, có vẻ bối rối.
“Làm nổ quả bom
nguyên tử đầu tiên. Gilgamesh muốn đứng bên dưới khi quả bom nổ. Ông ta cho rằng
đó là cách duy nhất khiến ông ta có thể chết thật.”
Khuôn mặt đầy đặn
của Hiệp sĩ Saracen nhăn lại có vẻ thông cảm. “Chuyện gì đã xảy ra với ông ta?”
Anh ta hỏi khẽ khàng.
“Perenelle nhờ
người nhốt ông ta trong viện tâm thần để bảo vệ ông ta. Ông ta ở đó mười năm
cho tới khi chúng tôi nghĩ rằng có lẽ đã đủ an toàn để thả ông ta ra được rồi.”
Palamedes lẩm bẩm.
“Chẳng trách sao ông ta ghét hai ông bà thế,” anh ta nói. Và Nhà Giả kim chưa kịp
trả lời gì, anh ta đã quay động cơ và lái xe đi mất, để lại một đám bụi mù.
“Quả thật là chẳng
trách,” Nicholas lầm bầm. Ông đợi đến khi lớp bụi lắng xuống rồi mới quay người
hướng về phía căn nhà. Ông hy vọng Gilgamesh không nhớ mọi thứ - đặc biệt là đoạn
ông ấy bị nhốt - cho tới sau khi ông ấy dạy cho bọn trẻ pháp thuật cơ bản thứ
ba xong xuôi đâu vào đấy. Một ý nghĩ chợt ập đến khi ông lòn người qua ô cửa của
căn nhà: giả dụ trong tình trạng tâm trí ông ta khi nhớ khi quên thế này, thậm
chí không biết nhà vua có nhớ được
Pháp thuật Nước cổ xưa không đây nữa?
Chương năm mươi bốn
Josh thận trọng
tỉ mỉ xem xét nhà kho, thanh Clarent nằm êm ru và nhín khe trong bàn tay cậu,
những tinh thể thạch anh nhỏ xíu trong lưỡi kiếm đá mờ đục và bất động. Cậu
nhón chân nhích lần từng bước tiến tới, chợt phát hiện ra mình có khả năng ý thức
sâu sắc thế nào về môi trường xung quanh. Dù biết trước nay mình chưa hề đến
đây bao giờ, vì thế không thể có một cái nhìn thoáng qua về những sắp xếp bên
trong nhà kho, nhưng cậu cũng hoàn toàn biết chắc rằng cậu có thể nhắm mắt và vẫn
định vị được không gian.
Nhà kho ấm áp và
ngột ngạt, nồng nặc mùi cỏ khô lâu năm và cỏ héo, có tiếng kêu sột soạt trong mấy
góc nhà do những sinh vật gì đó không nhìn thấy được, những con bồ câu kêu gù
gù trên những thanh rui mè bên dưới nóc nhà và Josh có thể nghe rõ ràng tiếng
vo ve từ một cái tổ ong bắp cày thật lớn xây sát trong góc cao. Các máy móc
nông cụ được cất ở đây và bị bỏ không; Josh nghĩ cậu nhận ra được một cái cày
kiểu cũ, và đống lù bù còn lại của một chiếc máy kéo, mấy cái vỏ xe nổi u nần của
nó mục nát thành những dải đen thui. Miếng kim loại nào cũng bị phủ những lớp gỉ
sét màu nâu đỏ dày cộp. Những sọt gỗ và mấy cái thùng rỗng nằm rải rác khắp
nơi, và một cái bàn thợ xù xì - không gì hơn là hai miếng ván đặt nằm trên những
khối bê tông - được dựng sát tường. Hai tấm ván bị cong oằn và quăn tớn lên ở cả
hai đầu. Một cái khung xe đạp màu đen nhét dưới cái bàn thợ ấy, hầu như không
còn thấy được gì đằng sau mớ cỏ và cây tầm ma phủ dày đặc.
“Nơi này đã
không được dùng đến trong nhiều năm rồi,” Josh nói. Cậu đang đứng ngay giữa nhà
kho, vừa nói vừa quay trọn một vòng. Cậu chuồi thanh Clarent xuống sàn nhà dơ bẩn
lèn giữa hai bàn chân mình và khoanh tay ngang ngực. “Thật an toàn.”
Gilgamesh tha thẩn
khắp nơi, từ từ lột bỏ bớt từng lớp áo ra, thả tất cả xuống nền đằng sau ông
ta. Bên dưới ngần ấy lớp áo khoác và những lớp lông cừu, ông ta mặc một bộ đồ
có lẽ là những gì còn sót lại của một bộ trang phục lịch sự sang trọng khi xưa.
Chiếc áo khoác kẻ sọc bóng lưỡng vì mòn, và chiếc quần cùng bộ với đầu gối mỏng
dính và đũng quần bóng láng. Nhà vua mặc một chiếc áo sơ-mi bẩn thỉu không có cổ
bên dưới chiếc áo khoác ấy. Phần còn lại của một chiếc khăn quàng cổ đan bằng
len rách tả tơi quấn quanh cổ ông ta. “Tôi thích những nơi thế này,” ông tuyên
bố.
“Tôi cũng thích
những nơi cũ kỹ,” Josh nói, “nhưng có cái gì ở nơi thế này để mà thích ạ?”
Nhà vua dang rộng
cánh tay. “Cậu nhìn thấy gì nào?”
Josh nhăn mặt.
“Một mớ đồ tạp nhạp. Máy kéo gỉ sét, cái cày gãy, xe đạp cũ mèm.”
“À... nhưng tôi
lại nhìn thấy một cái máy kéo có lần dùng để cày bừa cả cánh đồng này. Tôi nhìn
thấy cái cày mà nó từng kéo đi. Tôi nhìn thấy một chiếc xe đạp được cẩn thận đặt
vào một nơi an toàn bên dưới một cái bàn.”
Josh lại chầm chậm
quay người, nhìn mọi thứ một lần nữa.
“Tôi nhìn thấy
những thứ này và thắc mắc về cuộc sống của người đã cất giữ chiếc máy ké và cái
cày quý giá cẩn thận đến thế trong nhà kho này để tránh tác động của thời tiết,
và đã đặt chiếc xe đạp của họ dưới một cái bàn tự làm ở nhà.”
“Tại sao ông lại
thắc mắc ạ?” Josh hỏi. “Tại sao điều đó lại đến nỗi quan trọng như vậy?”
“Bởi vì có ai đó
phải nhớ chứ,” Gilgamesh gắt lên, đột nhiên phát cáu. “Phải có ai đó nhớ đến
người đã cỡi chiếc xe đạp này và đã lái chiếc máy kéo kia, người đã trồng trọt
trên cánh đồng, người đã được sinh ra, rồi đã sống và đã chết, người đã yêu
thương, đã cười và đã khóc, người đã rùng mình vì lạnh và đã đổ mồ hôi dưới nắng
mặt trời.” Ông ta lại đi tới đi lui quanh nhà kho, sờ mó từng vật một, cho tới
khi lòng bàn tay ông đỏ lòm toàn gỉ sét. “Chỉ khi không còn ai nhớ tới thì đó mới
là khi bạn thật sự không còn. Đó mới là cái chết thật sự.”
“Vậy thì ông sẽ
luôn được người ta nhớ đến, Gilgamesh,” Sophie êm ả nói. Cô bé đang ngồi trên một
cái thùng lật ngược lại, chăm chú quan sát nhà vua một cách kỹ lưỡng. “Thiên
Anh Hùng Ca về Gilgamesh ngày nay vẫn còn được in ra để bán cơ mà.”
Nhà vua dừng lại,
đầu nghiêng sang một bên, cân nhắc. “Cứ giả sử đó là sự thật.” Ông cười toe và
lau hai bàn tay vào quần mình, để lại những vệt đỏ lòm trên nền vải đã phai
màu. “Tôi đã đọc cuốn sách đó một lần. Không thích chút nào. Chỉ có một số là sự
thật, và họ bỏ qua mất nhiều phần hay.”
Nhà vua đẩy cánh
cửa đóng sập lại, không cho ánh mặt trời chiếu vào. “Hai người có thể viết
phiên bản của riêng mình,” ông ta đề nghị. “Kể ra câu chuyện của hai người, những
câu chuyện có thật.”
Nhà vua phá ra
cười, âm thành trầm trầm rền vang khiến mấy con bồ câu vỗ cánh phần phật từ
trên những thanh rui mè. “Mà ai sẽ tin tôi hử, Nhà Giả kim? Nếu tôi định viết
chỉ một nửa những gì tôi biết thôi, tôi sẽ bị nhốt...” Giọng ông ta kéo dài ra
và đôi mắt tối sầm.
Nicholas nhanh
chóng bước tới và cúi chào thật sâu, một cử chỉ lịch sự nhã nhặn thời xưa. Ông
biết ông phải kiểm soát tình hình trước khi Gilgamesh be nhớ lại quá nhiều.
“Tâu bệ hạ, ngài sẽ giũ lời hứa và dạy cho cặp song sinh Ma thuật Nước phải
không thưa ngài?”
Vẫn trừng trừng
nhìn vào Flamel, nhà vua chầm chậm gật đầu. “Ta sẽ làm chuyện đó.”
Flamel đứng thẳng
trở lại, nhưng khi đó cặp sinh đôi đã kịp thấy vẻ đắc thắng trên khuôn mặt hẹp
của ông. “Sophie đã được huấn luyện Không khí và Lửa. Josh thì chưa có gì cả,
vì thế thằng bé không biết điều gì chờ đợi mình,” ông thông báo.
Josh bước tới.
“Xin cứ bảo tôi phải làm gì,” cậu nói với vẻ tha thiết, đôi mắt sáng lên đầy vẻ
phấn khích. Cậu cười toe với cô chị sinh đôi. “Một lần nữa chúng tôi sẽ bắt đầu
trở thành một cặp song sinh thật,” cậu tuyên bố.
Sophie mỉm cười.
“Đây không phải là một cuộc đọ sức đâu ạ.”
“Có thể đối với
cô thì không!”
Gilgamesh chọn một
cái thùng và đặt nó xuống đất cạnh Sophie. “Đến ngồi kế bên chị cậu đi.”
“Ông muốn tôi
giúp gì không?” Flamel hỏi, tựa lưng vào cánh cửa, hai bàn tay đút vào túi sau
của chiếc quần jeans.
“Đừng nói gì cả
và đừng làm gì cả ngoại trừ việc tránh đường cho tôi,” Gilgamesh gắt. Ông ta
xem xét Nhà Giả kim, đôi mắt màu xanh lơ của ông ta lóe sáng. “Và khi xong chuyện
này, tôi và ông sẽ có một cuộc nói chuyện nho nhỏ... về thập kỷ mà tôi bị tống
giam. Chúng ta đã đến lúc phải tính sổ rồi.”
Nicholas Flamel
gật đầu, gương mặt không hề gơn lên chút cảm xúc gì. “Quá trình này,” ông nói,
“sẽ kích hoạt luồng điện của cặp song sinh chứ?”
Nhà vua nghiêng
đầu suy nghĩ. “Có thể. Mà tại sao lại hỏi vậy?”
“Luồng điện của
bọn trẻ sẽ có vai trò như một thứ đèn hiệu. Ai biết chúng sẽ thu hút cái gì đến
chứ.”
Gilgamesh gật đầu.
“Để tôi xem mình có thể làm gì. Có nhiều cách để dạy mà.” Nhà vua thả người bệt
xuống đất ngồi xếp bằng ngay trước mặt hai đứa nhỏ sinh đôi và chà xát hai bàn
tay vào nhau thật mạnh. “Bây giờ, chúng ta bắt đầu từ đâu đây?” Ông ta nói.
Đột nhiên Josh
nhận ra rằng hai đứa đang giao phó bản thân cho một người lang thang điên khùng
đôi khi lú lẩn quên cả tên mình. Làm sao người đàn ông này có thể nhớ một pháp
thuật lâu đời được chứ? Chuyện gì sẽ xảy ra nếu đang lúc giữa chừng ông ta quên
mất quá trình này đi? “Trước nay ông đã làm thế này bao giờ chưa ạ?” Cậu hỏi, nỗi
lo lắng tăng dần.
Nhà vua giơ tay
nắm lấy bàn tay phải của Sophie và bàn tay trái của Josh và nhìn hai đứa một
cách nghiêm túc. “Chỉ mới một lần. Và có kết cuộc không tốt lắm.”
“Đã xảy ra chuyện
gì ạ?” Josh cố rút bàn tay ra khỏi tay người bất tử, nhưng Gilgamesh nắm rịt thật
chặt, da thịt ông khô queo nhám nhịt như một miếng vỏ cây.
“Anh ta đã làm cả
thế giới này lụt lội. Bây giờ, nhắm mắt lại đi,” nhà vua ra lệnh.
Sophie nhắm tịt
mắt lại ngay, nhưng Josh vẫn mở. Cậu nhìn chăm chăm vào nhà vua. Người đàn ông
này quay đầu nhìn cậu, và thình lình đôi mắt sáng màu xanh lơ không hề chớp kia
dường như hóa ra thật khổng lồ trong đầu cậu và Josh cảm thấy một cơn chóng mặt
xoắn vặn đến buồn nôn. Cậu cảm thấy như thể cậu đang rơi về phía trước... rơi
xuống... rồi ngay tức thì lại bay vút lên. Cậu nhắm nghiền mắt lại cố ngăn cảm
giác buồn nôn, nhưng cậu vẫn có thể thấy đôi mắt màu xanh lơ khổng lồ của nhà
vua cháy bừng trong võng mạc mình, ngày càng lớn ra, lớn ra. Những sợi chỉ màu
trắng bắt đầu uốn éo và cuộn quanh đôi mắt. Gợi cho cậu nhớ về... về... về... tầng
tầng lớp lớp những đám mây.
Giọng Gilgamesh
trầm vang. “Bây giờ, hãy nghĩ đến...”

