Những năm ảo mộng - Chương 3 phần 1
Chương 3
Sáu tuần sau, nằm trên chiếc giường bệnh chật hẹp, Duncan
yếu ớt quay đầu lại khi nghe tiếng chân bước ngoài hành lang. Sức anh yếu đến
tột cùng. Chưa bao giờ anh nghĩ ca mổ lại tàn phá sức khỏe của anh như
vậy.
Người ta bảo anh đã trải qua bốn giờ trên bàn mổ. Trong
biết bao nhiêu ngày nối tiếp nhau, kí ức về mùi ê-te vẫn còn làm anh buồn nôn.
Bây giờ anh mới bắt đầu cảm thấy đau. Cái đau nằm đó, và không ngừng hành hạ
anh. Cả bên trái người nhức nhối như nung trong một lò lửa.
Anna không những đã sửa lại các cơ xương, thần kinh mà cả
những đám rối thần kinh với các động và tĩnh mạch chính nằm trong hốc nách.
Ngay cả đến Morphine cũng không làm những sợi thần kinh bị hành hạ giảm đau
hoàn toàn được.
- Ôi! Lạy trời! Bây giờ, sau khi đã thấm rõ ý nghĩa của nỗi
đau đớn, tôi sẽ trở thành một thầy thuốc giỏi hơn… nếu tôi sống sót qua cơn đau
này!
Cửa phòng hé mở và cô y tá bảo anh:
- Ông Stirling có khách. Cô ấy hứa là sẽ không ở lâu.
Một lát sau, Jeanne bước vào phòng. Cô mang theo hương thơm
của đồi núi. Mùi thuốc sát trùng hôi nồng bị át đi bởi hương thơm của thông và
sim, của khói rừng. Jeanne e ngại bước vào phòng. Cô mặc một chiếc áo giản dị
bằng len màu nâu, mũ đội lệch sang bên, tay mang cái giỏ nặng. Đôi mắt thơ ngây
của cô không giấu được vẻ hơi rụt rè kèm với nỗi lo lắng tột độ.
- Jeanne!
- Anh Duncan! - Cô bật kêu lên. - Anh gầy quá!
Cô bước lại gần anh.
- Ôi Jeanne, được gặp em, anh mừng hết sức! Anh cứ tưởng em
bỏ mặc anh thật rồi.
Anh đưa bàn tay lành ra nắm tay cô, bàn tay kia đang bị bó
bột.
- Em lên tỉnh mua ít hàng. Hay tin anh mổ, em đến thăm anh,
mặc kệ nỗi hiềm khích giữa anh và ba em.
Dù đã bao lần tự nhủ là mối quan hệ giữa mình và bác sĩ
Murdoch đã chấm dứt, nhưng Duncan vẫn không ngăn được lời thăm hỏi:
- Ba em ra
sao?
Mắt Jeanne tối
lại.
- Ba em không được
khỏe lắm. Anh biết đấy, ba em ra khỏi nhà bất kể thời tiết nào và không chịu
giữ gìn sức khỏe. Hiện ông đang bị viêm phế quản. Hơn nữa, dạo sau này ông lại
còn phải lo lắng về đập nước mới xây ở Loch Linton. Người ta cũng đã xây một
trung tâm biến điện với những nhà máy đúc nhôm, mấy cái ống khói to lớn của nhà
máy sẽ phá đi vẻ đẹp của thung lũng.
Anh liếc nhìn khuôn
mặt lặng đi vì xúc động của cô:
- Có phải một người
tên Overton đã gây ra mọi chuyện ấy không?
Cô gật đầu:
- Ngay từ đầu, ba em
đã chống lại ông ta. Em, em đã suýt e rằng… (cô vội nói lảng) nhưng mà này, em
đến để thăm anh chứ có phải đến than vãn về ba em với những nỗi lo lắng của ông
ấy đâu. Duncan này, anh sắp khỏe chưa?
- Anh cũng sắp biết.
Hôm nay người ta sẽ tháo băng cho anh.
- Ôi! Em tin chắc là
ca mổ đã thành công. Em không biết có nên nói với anh là em… (cô chợt đỏ mặt).
Đêm nào em cũng nghĩ mãi, mong mãi là tay anh sẽ lành.
- Ít ra em… em cũng
tin vào bác sĩ Geisler! (anh không thể ngăn mình thốt ra nhận xét ấy).
Cô nhìn anh và nói
không một chút do dự:
- Em tin vào tất cả
những ai có thể giúp anh, Duncan ạ!
Một khoảng im lặng
ngượng ngập trôi qua cho đến khi Jeanne lôi trong giỏ ra một lọ mứt cô làm lấy
và bánh bích quy. Rồi cô kể cho anh nghe những tin tức về Strath, về Hamish, về
chiếc xe cũ kĩ của cha cô, về lứa gà con mới đẻ, về cuộc đi săn mà ngài John
Aigle dự định tổ chức vào ngày 12 tháng này, về Alex Aigle, con trai ngài John
mới từ Đại học Oxford về và anh ta đang định chống lại chương trình điện khí
hóa và công nghiệp hóa thung lũng. Nhiều lần, cô kêu lên là sợ làm anh mệt, là
cô phải về, nhưng mỗi lần như vậy, anh đã giữ cô lại.
- Jeanne ạ! Tôi có
thể đổi mọi thứ trên đời để có được cô làm em gái tôi.
Cô gái chợt quay
đi:
- Anh hãy cố mau
lành bệnh, - cô thì thầm nói. - Đó là điều duy nhất đáng kể, Duncan yêu quý
ạ!
Cuộc thăm này đã làm
anh thoải mái hẳn lên.
Vào đúng ba giờ, bác
sĩ Geisler đến cùng cô y tá trưởng.
- Thế nào? - Anna
hỏi nhanh, ngồi xuống bên giường và xem xét lớp băng. - Có thể nói là má anh
gần như hồng trở lại rồi đấy (chị ngước mắt nhìn và mỉm cười với anh). Cô này,
cho tôi xin kéo cắt băng. Anh đang căng thẳng đấy, - chị nói tiếp.
Chị bắt đầu nhẹ
nhàng tháo khuôn bột.
Anh đưa lưỡi lướt
trên đôi môi khô nẻ của mình:
- Lẽ ra chị mới là
người căng thẳng.
- Tôi có bị bệnh đâu
mà căng thẳng, - chị đáp lại. - Tôi đã bảo mang lại máy điện để dò các phản xạ
gân cơ của anh.
Duncan gần như xỉu
đi khi thấy những mảnh bột cuối cùng rơi ra. Bây giờ mọi việc diễn tiến thật
nhanh so với thời gian dài bất động chờ đợi vừa qua. Trong giây lát, anh chợt
muốn bảo mọi người hãy tạm ngưng lại việc khảo nghiệm này, để đến sáng mai mới
tìm kết quả.
Nhưng không kịp nữa,
khuôn bột đã được hoàn toàn tháo ra khỏi tay anh, và Anna đang chăm chú gỡ băng
gạc. Rồi thì mảnh băng quấn cuối cùng cũng đã được tháo và bây giờ, Duncan có
thể nhìn thấy cánh tay trái để trần của mình.
Ban đầu, anh không
thể nhận ra đấy là cánh tay mà trước đây anh không bao giờ thấy ở dạng nào khác
với cái dạng teo và vẹo lệch; bởi vì hiện nay, trước mắt anh là một cánh tay,
mặc dù còn gầy gò và có hơi nhão nhưng trời ơi… thật bình thường! Vâng, hoàn
toàn bình thường. Những vết sẹo thâm tím chạy dọc theo cánh tay, nổi bật trên
làn da tái xanh nhưng đấy đúng là cánh tay anh, cánh tay đã được tái tạo. Anna
đã đập gãy xương và đã tái tạo chúng như một nhà điêu khắc đắp lại một mẩu
tượng không hoàn hảo.
- Thế nào? - Chị hỏi.
- Chị đã tạo ra một
phép lạ! - Anh ấp úng.
- Để xem đã, - chị
nhẹ nhàng đáp.
Chị ra dấu mang máy
lại.
Cô y tá lăn chiếc
máy điện đồ sộ đến cạnh giường, Với sự giúp đỡ của cô y tá thứ hai, Anna điều
chỉnh lại các bánh xe và cắm điện.
Tiếng rù rù đều đặn
tràn ngập căn phòng. Ngồi dựa vào gối, Duncan chờ được gắn các cực điện với nỗi
lo âu mỗi lúc một tăng lên. Những phút kế tiếp sẽ định đoạt sự thành công của
ca mổ. Anh gần như nghẹn thở khi thấy các bắp cơ lần lượt phản ứng với những
kích thích điện. Khi đó anh hiểu ra là mình đã hoàn toàn lành bệnh.
- Bây giờ thì chúng
ta không còn phải lo gì nữa, - Anna nói, - đương nhiên anh còn phải mất vài
tuần xoa bóp và chạy điện. Nhưng cứ tin tôi đi… (Chị nói với vẻ giễu cợt, khô
khan) cánh tay anh tốt như còn mới nguyên vậy.
- Tôi hiểu điều đó,
- anh giản dị trả lời. - Ngay bây giờ tôi đã có thể nhận ra điều đó. Chị xem
này.
Trước khi người ta
kịp ngăn anh, anh đã nhanh nhẹn thử cố gắng và chụp lấy cái ly để trên bàn
ngủ.
- Khoan, dừng lại, -
cô y tá hốt hoảng kêu lên, - anh sẽ đau đấy!
Nhưng Anna đã chăm
chú theo dõi Duncan và ra dấu bảo cô ta đừng ngăn cản anh.
Va họ sững nhìn anh
đưa chiếc ly lên môi, uống rồi đặt nó xuống bàn. Từ khi bị sốt tê liệt đến nay,
đây là lần đầu tiên anh có thể làm một động tác như vậy.
- Thế đấy! - Cô y tá
trưởng thốt lên hoàn toàn mất hết vẻ căng thẳng. - Ông Stirling ạ, sau việc vừa
rồi tôi không cảm thấy an toàn chút nào khi ở cạnh ông, chỉ một lát nữa, ông có
thể sẽ quẳng bàn ghế vào đầu tôi đấy!
Sau khi hai cô y tá
đã ra khỏi phòng, Duncan và Anna im lặng trong giây lát.
- Tôi mang ơn chị
nhiều quá, Anna ạ! - Cuối cùng anh nghiêm trang nói. - Ngay ngày đầu, chị đã mở
ra cho tôi thế giới của âm nhạc, hội họa, văn chương. Chị đã mở mang kiến thức
cho tôi, đã dạy tôi. Chị đã tìm cho tôi việc làm khi tôi cần. Nhờ chị, tôi đã
học được cách tạo ra cho mình một cái nhìn rộng, sâu về y khoa. Và bây giờ chị
còn…
Giọng anh nghẹn
lại.
- Trời đất! Thôi đủ
rồi, Stirling! Người Tô Cách Lan các anh thật là những kẻ ủy mị ngốc nghếch!
Tôi chẳng từng nói với anh là tôi thích thành công à? Tôi sẽ ghi lại trường hợp
của anh vào quyển sách tôi soạn đấy, kèm với hàng tá hình ảnh và họa đồ…
- Dù có như vậy đi
nữa, chị cũng phải cho phép tôi cám ơn chị, Anna ạ. Điều tuyệt vời là chị đã tiến
hành ca mổ này hoàn toàn chỉ vì tình bạn, bỏ ngoài tai tất cả những lời gièm
pha.
- Anh Duncan thân
mến ạ, - chị đột ngột cắt ngang, - hóa ra anh lại phải giảng cho tôi một bài
học triết lý à? Tôi nghĩ rằng tôi đáng được thưởng một cái gì hơn thế
chứ?
- Hãy tha lỗi cho
tôi, chị Anna ạ. Cũng vì tôi rất biết ơn chị nhưng lại có quá ít khả năng để
chứng tỏ điều ấy.
- Anh có thể giúp
tôi nhiều lắm, Duncan ạ. Tôi không hoàn toàn không lợi dụng như anh tưởng đâu.
Tôi muốn anh hợp tác với tôi. Tôi muốn anh lo về phần cơ thể bệnh lý của các
cuộc khảo cứu của tôi, tôi muốn anh trả nợ tôi bằng cách ấy đấy. Nhưng thôi,
sau này chúng ta sẽ có dư thì giờ để bàn cãi chuyện này. Trong khi chờ đợi tay
anh thật khỏe, tôi vừa chợt nghĩ là cô y tá chăm sóc anh đã lầm lẫn tai
hại.
- Sao?
- Cô ấy đã gọi anh
là “ông” Stirling. Trong khi đó, kể từ sáng nay, chức danh đúng của anh là “bác
sĩ ” Stirling (chị mỉm cười với anh). Chính bác sĩ Inglis đã báo cho tôi hay
tin ấy khi tôi tới đây. Ông ta rất náo nức về tin này. Duncan ạ, anh đã đạt hết
các môn thi. Hơn thế nữa, anh còn được bằng khen của Ban Giám khảo.
Anna mở cửa, sau khi
nhìn lại lần cuối bộ mặt sững sờ của Duncan, chị nhanh nhẹn bước ra khỏi
phòng.
Duncan tựa vào gối
và lặng đi một lúc lâu, rồi từ từ, anh mới hiểu ra tương lai của mình sẽ như
thế nào. Một cách vô thức, anh cử động cánh tay trước đây đã bị bại liệt và nắm
tay lại. Một cảm giác về quyền lực tràn ngập trong anh.
Thình lình, anh
chống một tay lên và lôi từ trong cái ví cũ sờn của mình một tấm ảnh nhỏ và một
cánh hoa rừng ép khô. Đó là tấm hình của Margaret và cành hoa rừng mà cô đã
tặng anh cách đây hằng bao năm. Anh biết là cô ta đang đi nghỉ mát.
“Bây giờ ta đã có
một cái gì đó để dâng hiến cho nàng khi nàng trở về ”, anh thầm nghĩ, lòng bỗng
dâng lên một tình cảm thiết tha.
Một buổi sáng cuối
tháng bảy đẹp trời, Duncan mặc áo blouse trắng, đứng chờ Overton ở cửa khoa của
bác sĩ Inglis, tại bệnh viện Victoria.
Sáu tuần trước đó,
khi Duncan xuất viện, bác sĩ khoa trưởng đã chỉ định anh làm bác sĩ nội trú
trong khoa ông, khoa lớn nhất của bệnh viện Victoria.
- Tôi vẫn luôn tin
tưởng vào tài anh, anh Stirling thân mến ạ. - Ông vừa nói vừa vỗ vai anh.
Duncan cười thầm khi
nhớ lại buổi gặp đầu tiên với bác sĩ Inglis, khi ấy vẻ bi quan của ông tí nữa
đã phá vỡ hết mọi hi vọng của anh.
- Và nói riêng giữa
chúng mình với nhau, - ông nói thêm, - tôi muốn nhấn mạnh lòng tin tưởng của
tôi vào anh mặc dù gần như khắp nơi… trong tỉnh và… hừm, hừm… ở cả nhà tôi nữa,
có những người đã cố khuyên tôi đừng giao cho anh chức vụ này.
Rồi, nắm lấy cánh
tay Duncan, ông dẫn anh đến một phòng thí nghiệm trang bị theo những kĩ thuật
tiên tiến nhất.
Duncan đã đến ở khu
dành cho anh trong bệnh viện và giờ đây, thật là sung sức nhờ vào hai bàn tay
đều lành lặn, anh đã lăn xả với tất cả sức lực của mình vào cái công việc mà từ
bao lâu nay, anh vẫn hằng mong ước.
Những ngày làm việc
của anh thật hào hứng và khẩn trương. Anh thức dậy lúc bảy giờ và ghi chép các
quan sát của mình cho tới giờ ăn điểm tâm. Sau đó, buổi sáng được dành cho việc
đi theo bác sĩ Inglis khám bệnh tại khoa, việc này là cả một bài tập tính kiên
nhẫn ở Duncan vì tính chậm chạp của bác sĩ khoa trưởng đã trở thành truyền
thuyết trong bệnh viện. Sau bữa cơm trưa ăn vội vàng, tiến hành một loạt các
cuộc thử nghiệm sinh hóa thì đã sáu giờ chiều. Buổi tối, đi rảo lại khoa với
Overton, bây giờ là phó giám đốc bệnh viện, một phó giám đốc rất hãnh diện về
tầm quan trọng và bo bo giữ quyền lực của mình.
Sau sáu tuần lễ mệt
phờ người, một nỗi bất mãn kì lạ đã làm giảm đi nhiệt tình của Duncan. Anh
không để ý đến sự đều đặn nhàm chán của công việc, cũng bỏ mặc những biểu lộ
hợm hĩnh nhỏ nhen của Overton, nhưng càng ngày, nỗi ước muốn tạo mối dây liên
lạc thật sự giữa anh và bệnh nhân càng trở nên mong manh, và điều đó làm anh
thất vọng.
Anh ngẩng đầu khi
nghe tiếng bước chân vang lên trong hành lang. Thì ra là Overton. Anh đợi anh
ta lại gần:
- Overton này, tôi muốn bàn với anh về ca Walters.
- Walters nào? Tớ đang bận, tớ sắp đi ăn cơm trưa.
- Việc này quan trọng đấy, Overton. Walters là anh chàng
bệnh nhân ở giường số bảy, tôi thấy anh ta có những triệu chứng hô hấp hơi kì
lạ. Tình trạng anh ta đã trở nặng nhiều lắm.
- Vậy cậu muốn tớ làm cái quỷ gì cho nó?
Duncan biết rằng đêm qua Overton đã đi khiêu vũ tới tận đêm
khuya với cô y tá Damson, và vì những lí do có lẽ liên quan đến cô y tá xinh
đẹp ấy, anh ta có vẻ bực bội.
- Bọn tớ đã làm tất cả những gì có thể làm được.
- Tất cả, ngoại trừ việc tìm ra cái gì không ổn (Giọng
Duncan đanh lại). Trong tuần, ngày nào cũng thế, tôi cứ phải dành hết thì giờ
để làm các xét nghiệm xuẩn ngốc không chút ích lợi nào, trong lúc ấy thì bệnh
nhân cứ chết dần chết mòn.
- Chẩn đoán không rõ ràng, - Overton nhanh chóng đáp, -
chúng ta không thể làm gì hơn. Ông sếp nghĩ là một ca thiếu máu ác tính.
- Theo ý tôi, đó đơn thuần và giản dị chỉ là một ca mủ màng
phổi. Cần phải chọc dò màng phổi. Nếu không, bệnh nhân sẽ chết.
- Ai thèm hỏi ý kiến cậu? Nên nhớ đến chỗ đứng của cậu ở
đây, Stirling ạ. Chỉ vì ý thích nhất thời nên bác sĩ khoa trưởng mới đem cậu
vào đây. Có khối người nghĩ rằng đây không phải là chỗ dành cho cậu.
Và hắn ta tiếp tục đi. Duncan nhìn hắn bỏ đi xa, mặt căng
ra vì giận.
Chiều hôm ấy, anh được một giờ rảnh. Như thường lệ, anh
dùng nó với Anna. Anh có được nỗi thích thú tinh nghịch trong việc thách thức
những lời gièm pha trong tỉnh.
Chị pha cho anh một ly cà-phê và ngạc nhiên về sự im lặng
bất thường của anh.
- Có chuyện gì thế? Lại có ai nói gì về chúng ta à?
Anh lắc đầu:
- Không, đó chỉ là tôi đang thích thú về sự nhận môn của
mình vào ngành y học cơ khí hóa. Thật là thú vị, - anh giễu cợt nói tiếp, - khi
được chơi với ống hút, ống nghiệm, thử biến diễn cơ bản, trong khi đó, chỉ cần
áp tai vào ngực một bệnh nhân khoảng mười phút là đã có thể nói anh ta mắc bệnh
gì.
Chị chăm chú nhìn anh:
- Đừng coi thường những vũ khí của nền y học hiện đại,
Duncan ạ.
Anh bùng nổ:
- Điều này đã làm tôi không yên từ bao tuần nay! Tôi muốn
làm việc với hai bàn tay tôi chứ không phải với những ống nghiệm; chính những
ống nghiệm đã làm tê liệt ngành nghề chúng ta! Đương nhiên một phần cũng do
những bác sĩ bị thoái hóa bởi đồng tiền gây ra, nhưng đó chỉ là phân nửa của
mối nguy hại. Điều tệ hại hơn cả là, trong hệ thống hiện nay của chúng ta,
nhiều thầy thuốc đã không còn những đức tính thật sự quan trọng như cá tính,
khả năng tạo niềm tin ở bệnh nhân, tài chẩn đoán chính xác. Họ không còn muốn
tự mình làm việc gì nữa. Luôn luôn phải có một cô y tá, một cô xét nghiệm viên,
và ngay cả một cái máy đa năng để làm hết mọi việc thay cho họ. Ngay lúc này,
một người đang hấp hối trong khoa của tôi bởi vì sự thật bị bưng bít đằng sau
một rừng họa đồ, đường biểu diễn, bài tính và xét nghiệm.
Sự im lặng của Anna rõ ràng là chống lại những điều Duncan
vừa nói.
- Đã đến lúc anh cần có một quan điểm khoa học về công việc
của anh hơn.
- Thế còn quan điểm nhân đạo thì sao? Chẳng lẽ tôi phải vứt
bỏ nó à? - Anh giận dữ hỏi.
- Tại sao không? Rồi anh sẽ thấy là nó chẳng quan trọng bao
nhiêu khi anh bắt đầu với môn cơ thể học bệnh lý.
Sững người, anh nhìn chị.
- Chắc anh không quên là cả hai chúng ta sắp thành một tổ
nghiên cứu? Tôi sẽ cần đến một chuyên gia về môn cơ thể bệnh lý trong cuộc
nghiên cứu về mối liên lạc giữa các dây thần kinh – cơ.
- Cuộc nghiên cứu của chị?
- Cứ gọi là của
chúng ta đi. Anh hãy nhớ là anh đã thật sự bị cột vào tôi (chị mỉm cười bí
hiểm, và khéo léo chuyển câu chuyện sang một hướng khác). Còn bây giờ, thì hãy
thoải mái thư giãn một chút. Để tôi đàn cho anh nghe vài bản nhạc của
Bach.
Chị đã không giải
quyết được những khó khăn của anh mà trái lại, còn tạo thêm một khó khăn
mới.
oOo
Anh ra về sớm hơn
thường lệ và đi thẳng vào bệnh viện. Anh dừng lại bên giường số bảy.
Bệnh nhân Walters là
một thanh niên hai mươi hai tuổi, rõ ràng đang ở trong tình trạng nguy kịch: đôi
môi khô nứt nẻ, đôi mắt dại đi, hơi thở ngắn, tất cả đã nói lên điều đó. Trong
ánh sáng mờ của những ngọn đèn đêm, vẻ suy tư của Duncan tăng lên. Anh luồn tay
dưới áo bệnh nhân và sờ vào bộ ngực đang thở hổn hển với sự nhạy cảm âm thầm
của xúc giác.
Anh vội quay lại và
ra dấu gọi cô y tá trực:
- Cô làm ơn đem cho
tôi phim phổi của anh ta.
Năm phút sau, cô y
tá quay lại đưa phim. Một cô y tá khác và hai cô phụ việc đi kèm, chiếc bàn đầy
dụng cụ lấy máu, máy hấp, ly có khắc nấc, tất cả cái đám dụng cụ thường
lệ.
Duncan vắn tắt ra
lệnh:
- Tôi chỉ cần một
cây kim chọc thôi, cô làm ơn đưa cho tôi.
Anh đang cúi mình
trên bệnh nhân thì một tiếng mở cửa làm anh chợt ngẩng đầu lên. Bác sĩ Overton
đang đi rảo khám đêm như thường lệ.
- Thế này là nghĩa
gì?
Mặc dù nhỏ, nhưng
giọng anh ta đầy gay gắt.
Duncan đứng thẳng
lại:
- Nếu anh chịu khó
kiên nhẫn một chút thì sẽ rõ.
Overton đỏ mặt
lên:
- Cậu có điên không?
Cậu không được phép điều trị bệnh nhân này khi chưa có lệnh của tôi.
- Có nhất thiết phải
chờ lệnh của anh mới được cứu sống anh ta không?
Một khoảng im lặng
bất bình xảy ra ở các cô y tá. Người bệnh rời cặp mắt khỏi bộ mặt tái nhợt của
Overton và nhìn vẻ quả quyết và lạnh lùng trong đôi mắt Duncan. Anh ta yếu ớt
định nắm lấy tay áo Duncan.
- Cứ làm đi, bác sĩ,
- anh hổn hển nói, - tôi van anh, hãy làm tất cả những gì anh có thể làm được
cho tôi nhẹ bớt.
- Tôi báo trước cho
cậu biết…(giọng Overton to lên) là cậu phải chịu trách nhiệm.
Duncan ném sang anh
ta một cái nhìn thách thức. Anh mạnh dạn cầm cây kim. Anh cảm thấy hai thái
dương đập mạnh khi đâm cây kim chọc dò vào ngực bệnh nhân. Sau một thoáng chờ
đợi, gần như không chịu đựng nổi, dòng mủ đặc và vàng vọt ra từ ổ abcès trong
màng phổi với một lực mạnh đến nỗi dòng mủ như sẽ không bao giờ có thể
cạn.
Walters thở một hơi dài thoát nạn. Mặt Overton tái đi và
trán hắn ta lấm tấm mồ hôi. Duncan bình thản lau cây kim trên miếng gạc và ra
lệnh cho cô y tá:
- Cô mang anh ta
sang phòng E nhé. Sau một đêm ngủ ngon, anh ta sẽ khỏe hẳn đấy.
- Tôi đã cảm thấy
khỏe rồi! (Những giọt nước mắt sung sướng lăn trên má Walters) Bây giờ tôi đã
có thể thở được rồi. Cầu trời ban phước lành cho bác sĩ!
oOo
Sáng hôm sau, trong
khi đi thăm bệnh, Duncan nhận thấy bác sĩ Inglis nhìn anh với vẻ khác thường.
Khi họ chỉ còn một mình, vị khoa trưởng bối rối mời anh nghe ông nói. Sau khi
đã nhiều lần hắng giọng, ông nhận xét:
- Hình như giữa anh
và bác sĩ Overton không được hòa thuận cho lắm, phải không Stirling?
- Thưa thầy, đúng
thế.
Nét mặt của vị khoa
trưởng dịu xuống. Ông bật cười:
- Tôi cũng
thế.
Rồi ông nghiêm lại
và bảo thêm, với vẻ thận trọng cố hữu:
- Nhưng dẫu sao,
Stirling thân mến ạ, tôi vẫn mong là anh đừng cãi lộn với đồng nghiệp của anh
thì tốt hơn. Tôi không cần phải nói thì anh cũng hiểu là anh đang có nhiều thế
lực chống đối. Và từ đó, hậu quả có thể gây phiền cho anh. Rất thật tình, tôi
mong không có gì phiền phức xảy ra cho anh. Nhưng, trong tương lai, tôi đòi hỏi
anh nên tôn trọng ngôi thứ hơn một chút.
Sự bình phục của
Walters tiến triển nhanh chóng. Khi Duncan kí giấy xuất viện cho anh thanh niên
mang nặng lòng biết ơn ấy, anh không thể ngăn nổi ý tưởng là nếu anh đã tôn
trọng các ngôi thứ hơn thì giờ này, anh sẽ phải kí giấy khai tử thay vì giấy
xuất viện.
Vào một buổi chiều
của tuần sau đó, Duncan sửa soạn ra về sau khi đã hoàn tất các công việc trong
ngày thì nghe tiếng gõ cửa. Trước khi anh kịp nói câu “Mời vào” thì cửa đã mở
và Margaret hiện ra trước mặt anh.
- Anh thấy chưa,
rồng đến nhà tôm đây này.
- Margaret! - Anh
nôn nao thốt lên, - tôi không biết là cô đã về!
- Ba tôi phải trở về
gấp vì có công chuyện. Vụ thành lập công ty điện lực mới đấy mà.
Anh chậm rãi
nói:
- Cô thật là dễ
thương khi đến thăm tôi!
- Ôi! (Cô ta cười
nhẹ). Tôi đến nhắn một tin mới cho bác Inglis và luôn tiện ghé sang thăm
anh.
Cô đưa mắt đánh giá
anh trong chiếc áo blouse trắng.
Một làn sóng hạnh
phúc bất chợt tràn ngập lòng Duncan. Anh đã nhớ cô ta biết bao! Anh đã mong chờ
cô ta trở về với biết bao nôn nóng. Bây giờ, anh không còn phải bối rối tìm lời
nữa. Anh không còn là anh chàng tàn tật khốn khổ, không có tương lai của ngày
nào nữa. Hiện tại, anh biết là cao vọng của anh có thể mang anh lên tới đỉnh
vinh quang.
- Margaret này, -
anh nói, - tôi có chuyện muốn nói với cô.
Nghe giọng nói khác
thường của anh. Margaret ngước nhìn anh, mắt tròn lên vì ngạc nhiên giả
tạo:
- Gì thế? Miễn không
phải là chuyện đời tư của anh.
Anh bước xích lại
một bước:
- Đây không phải là
chuyên mới về đời tư của tôi, nó đã có từ khá lâu rồi, Margaret ạ, từ lúc tôi
hãy còn là một chú bé con cùng một nàng công chúa sống trong tháp ngà xa
xôi.
Cô ta nhìn anh với
nụ cười trên môi:
- Anh nói khéo thật!
Thế ai là cô công chúa của anh?
- Cô không đoán ra
ư, Margaret?
- Anh muốn nói là
tôi sao?
Anh trả lời bằng
cánh hoa rừng ép khô được rút ra từ ví mình.
- Cô không nhớ cành
hoa này à? Cành hoa mà cô đã tặng tôi?
- Không.
- Lúc ấy ở gần bờ
sông, một ngày tôi đi câu và gặp cô.
- À… đúng rồi! Thế
ra anh đã giữ nó trong suốt ngần ấy năm?
Anh ra dấu thừa
nhận. Margaret cảm thấy sự thận trọng khuyên cô nên dừng lại, nhưng tính hợm
hĩnh của cô không thể ngăn cô tiếp tay thổi lên ngọn lửa tình yêu mà cô vừa cảm
nhận ở anh.
- Tôi không thể nói
hết cho anh nỗi hãnh diện của tôi.
Anh nắm lấy tay cô:
- Margaret, tôi đã chờ quá lâu cái phút tôi có quyền nói
với cô điều ấy. Tôi yêu cô. Tôi hiểu là tôi sẽ thành công, và sẽ có thành công
để dâng nó lên cô…
Anh trở nên gần như mù quáng, tiếp tục nói:
- Cô chịu nhận lời cầu hôn của tôi chứ? Khi tôi đã thành
danh, khi tôi đã có một chỗ đứng trong xã hội, cho cả cô và tôi?
Margaret chịu đựng cái nhìn của anh lâu đến mức cô có thể
chịu được. Rồi cô chợt thở dài và cúi mặt xuống:
- Đáng lí tôi không bao giờ nên để anh nói tiếp, - cô nói
thầm với vẻ bối rối giả tạo, - thật ra tôi cũng rất có cảm tình với anh, và vì
vậy, tôi rất thích nghe những lời anh nói với tôi.
- Thế tại sao cô lại định ngăn không cho tôi nói tiếp? -
Anh hỏi.
Margaret từ từ gỡ găng tay ra:
- Nhưng… thế anh không nhận ra là…
Cô giơ bàn tay ra, để lộ chiếc nhẫn đính hôn to mà cô đeo ở
ngón đeo nhẫn.
- … Tôi ngạc nhiên là anh đã không để ý đến nó. Nó quá to
mà… và quá đẹp nữa!
Duncan sững người. Cuối cùng anh mới có thể chậm chạp nói
từng lời, khó khăn:
- Tôi dốt lắm về những chuyện này, Margaret ạ. (một khoảng
thời gian dài im lặng) Đây là một cái nhẫn rất đẹp.
Anh lại im, cố gắng tìm lời:
- Thế anh ấy là ai
thế?
Nhưng anh cũng đoán
ra câu trả lời, trước khi nghe cô kịp nói:
- Thì… đương nhiên
là Euen, bác sĩ Overton ấy. Chúng tôi vẫn yêu nhau từ hồi nào đến giờ. Chính vì
vậy mà tôi đến đây gặp anh. Để anh chúc mừng tôi và chúc tôi được hạnh
phúc.
Anh cố không để lộ
nỗi đắng cay ra giọng nói:
- Tôi hết lòng chúc
cô thật nhiều hạnh phúc và luôn may mắn.
- Hẳn anh cũng công
nhận rằng chúng tôi đã tạo được một cuộc hôn nhân hoàn thiện về mọi mặt, - cô
nói tiếp, - chúng tôi giống nhau ở rất nhiều điểm. Và chức vụ mới của Euen ở
viện Wallace sẽ giúp cho chúng tôi sống ở Edimbourg. Ba tôi đã hứa cho một căn
nhà thật tuyệt. Anh biết đấy, mọi người đều nghĩ là chỉ trong một vài năm nữa,
anh ấy sẽ có cơ hội để trở thành giám đốc.
- Hai người sắp làm
đám cưới?
- Tháng tới. Anh
phải tới dự đám cưới chúng tôi. Tôi mời tất cả những người đã từng theo đuổi
tôi đấy. Sẽ thật tuyệt anh ạ!
Vẻ hời hợt của cô
xói vào lòng anh như một nhát dao và, trong một thoáng, anh chợt thấy lóe lên
cái nhận thức về tính phù phiếm nhỏ mọn của cô. Nhưng nhận thức đó chỉ thoáng
qua. Rồi ngay lập tức, nỗi đau buồn về tình yêu lại xâm chiếm lấy anh, và với
giọng nói hoàn toàn thành thật, anh thốt lên:
- Nếu tôi có thể
giúp được gì cho cô, bất cứ lúc nào, cô cứ việc bảo tôi, đừng e ngại gì
cả.
Cô bóp nhẹ tay anh
và định trả lời thì một tiếng còi xe vang lên bên ngoài.
- Euen đến đấy!
Chúng tôi định đi chơi khúc côn cầu trước khi dùng trà.
Cô vui vẻ chìa tay
cho Duncan và quay ra.
- Tạm biệt nhé!
Thôi, anh khỏi mất công tiễn tôi ra cửa. Tôi phải đi vội đây, kẻo trời tối đến
nơi rồi.
Duncan đứng bên cửa
sổ, nhìn theo cho đến khi chiếc xe biến mất. Anh bực mình khi phải nhìn nụ cười
đắc thắng của Overton, vẻ sở hữu bình thản của hắn khi giúp Margaret bước lên
xe.
oOo

