Hàn Mặc Tử anh tôi - Chương 5 - Phần 1

CHƯƠNG V

BỆNH HOẠN VÀ THI VĂN

Hơn năm mươi năm nay, nhiều người vẫn cho bệnh nan y đã ảnh
hưởng thơ Hàn Mặc Tử. Không ai để ý đến một chứng bệnh đã ảnh hưởng đời sống và
văn thơ Anh từ trước khi chưa mang ác bệnh.

Trong quá trình sống chung bên Anh, tôi ghi nhận Anh có hiện
tượng tâm thần, phát sinh, có lẽ, sau tai nạn xảy ra kì lạ trong đời Anh và ảnh
hưởng sâu đậm vào trí óc Anh khiến hình thể Anh cũng thay đổi. Bệnh đó đã được
nhiều người bạn tôi, chuyên khoa tâm lí sau này xác nhận là hiện tượng “névrose”,
một chứng rối loạn thần kinh nào đó, mà con người vẫn còn sáng suốt và suy cảm
bén nhạy. Vẫn làm chủ được trí óc mình.

Khi còn nhỏ, tôi được biết một nhà nho hỏng thi, đi đâu, ngồi
đâu, cũng lảm nhảm đọc ngũ kinh, tứ truyện không đầu không đuôi, nhưng làm thơ
vẫn nhớ đủ niêm luật.

Gặp ai cũng lễ phép hỏi: “Lạy ngài, chữ TIÊN viết mấy nét?”
thơ chỉ làm đến nửa bài, dừng lại lẩm bẩm “Không biết chữ TIÊN viết mấy nét
đây.”

Ai cũng thương ông, thường gọi đùa là “Tiên ông thiếu nét”,
ông chỉ cười bao dung nhưng không chấp xét kẻ phàm tục.

*

1. BỆNH TÂM THẦN?

Trong chương II, tôi đã cẩn thận ghi lại nhiều đổi thay nơi
người Anh khi từ Huế rồi.

Những đam mê thể thao, thể dục có phần kì dị đến các hiện tượng
sinh hoạt khác thường sau khi tai nạn bị chìm ngoài bờ biển.

Anh thay đổi cả tâm tính cả hình thể, trở nên ít nói, sống nội
tâm xa vắng. Mọi người không ai hiểu tâm sự Anh, ngay cả những người bạn thân
nhất.

Tuy nhiên, Anh nói rất nhiều và rất thật thà trong văn thơ
Anh:

Mặc dầu, lời thơ rất đẹp, ý thơ rất tình, nhưng xuyên qua, vẫn
có đôi chữ, đôi lời với nhiều ngụ ý, bày tỏ nỗi lòng Anh. Nếu không theo dõi nếp
sống hằng ngày, thì nhận xét về Anh không khỏi có phần phiến diện.

Tôi hiểu được phần lớn tính nết và ước mơ Anh, nên nghĩ Anh
có thể mang một thứ bệnh tâm thần nào đó.

Vốn từ nhỏ được giáo dục theo tư tưởng Khổng Mạnh sống theo
niềm tin Kitô giáo, Anh hầu như bị ảnh hưởng sự gò bó của giáo lí, của đạo đức
quân tử, trong cảm nghĩ và ngay cả trong vấn đề sinh lí tự nhiên.

Tình cảm Anh rất bén nhạy. Những xúc động mạnh rất ảnh hưởng
đến tinh thần Anh.

Rõ ràng nhất là những thay đổi về tính tình sau tai nạn suýt
chết ở bờ biển (nói ở chương II) mà tôi đã được chứng kiến.

Có thể là một ảo ảnh kì lạ in sâu vào tâm trí Anh mà gia đình
nghĩ Anh đã được trong thấy Đức Mẹ hiện ra với Anh, khiến Anh xuất thần sợ hãi.
Đó là giây phút Anh đã chết đi mà sống lại và mỗi lần nghĩ đến Anh run sợ đến ớn
lạnh. Anh đã ghi lại cảm giác đó trong “Ave Maria”.

Maria! Linh hồn tôi ớn lạnh.

Run như run, thần tử thấy long nhan

Run như run hơi thở chạm tơ vàng

Một thứ run rẩy toàn thân, khi Anh cảm ứng với hiện tượng mà
ánh sáng lạ nào làm mờ hẳn ánh mắt Anh. Và tôi đã trông đôi mắt Anh đó lạc thần
ngơ ngác.

Thơ Anh tuy tình tứ say sưa, nhưng chỉ gói ghém trong quan niệm
đạo hạnh, không hề buông thả thác loạn. Tôi ghi nhận Anh hay ngâm câu Kinh thi.

Quan quan thư cư.

Yểu điệu thục nữ v.v...

Với Anh, yêu đương là sự trìu mến, quấn quít bên nhau, như
đôi chim. Người tình phải là trang thục nữ, tương thân nhi tương kính. Và Anh
đã chọn Hoàng Hoa nữ sĩ, một thục nữ như vẽ lại tình Thôi Oanh Oanh và Trương
Quân Thụy.

Ta là trai khí huyết ước nữ

Người thục nữ sinh giữa thời vô
thượng

Đó là tình yêu trọng lễ nghĩa,
không phải tình xác thịt, như kinh thánh nói về Tôbia và người vợ.

Một sự gặp gỡ giữa Khổng giáo và
Thiên Chúa giáo.

Trong cuốn “Hàn Mặc Tử”, ông Trần
Thanh Mại xem Anh là một nhà thơ có nguồn cảm thụ lực mạnh, thậm chí con người
Anh có thể rung động theo giây tơ để rồi như chính Anh có thể phát ra âm thanh
của điệu đàn.

Những lúc Anh ngâm thơ, trạng
thái như xuất thần, toàn thân run rẩy, buông thả theo ý thơ để cảm thụ đến tận
cùng.

Anh thường khen những bài thơ
thác loạn của môn phái Baudelaire, mà cấu trúc tài tình của thi sĩ đã dẫn dắt
Anh đến tận cùng ý thơ với nguồn cảm thụ kì lạ đó.

Có lẽ Anh đã khám phá ra tình yêu
xác thịt thật là ghê rợn chăng?

Anh viết ra cảm nghĩ đó trong đề
tựa cho tập thơ “Tinh huyết” của Bích Khê. Bấy giờ là giai đoạn Anh vào Saigon
sống giữa một xã hội buông thả trụy lạc.

Và đó cũng là giai đoạn đấu tranh
nội tâm đầu tiên của Anh giữa hai nguồn thơ dâm loạn và trinh trắng.

Anh đã thắng, vì thơ Anh vẫn giữ
được khoảng cách với ý thơ cuồng loạn của thời đại.

Tuy nhiên sự giằng co nội tâm
trong chiến trường tình dục càng làm anh trở nên thầm lặng hơn, nhất là sau cuộc
thử thách lớn với mối tình Mộng Cầm, trong đó cám dỗ xác thịt đẩy Anh đến gần bờ
sa ngã.

Dầu vậy, Anh vẫn còn bình tĩnh tự
vệ.

Vườn chói lọi thì tình yêu phải
ngợp

Tiết trinh còn em phúc hậu hơn
thơ

...

Tôi nín lặng âu là tôi mắc cỡ...

Trong lứa tuổi đôi mươi, những
chàng trai mới lớn trong tình trạng sức khỏe bình thường, đều muốn tìm hiểu vấn
đề sinh lí với người khác phái. Anh Trí cũng vậy. Anh đọc “Les fleur du mal” và
nhiều tác giả môn đồ phái Baudelaire nên rất giàu tưởng tượng.

Thế nhưng, tôi ví Anh là một cao
thủ nội lực. Anh chế ngự tài tình những dồn ép để rồi phát tiết ra những bài
thơ tình tứ cao đẹp.

Anh đã thất bại trong mối tình Mộng
Cầm, chỉ vì Anh không theo kịp cảm nghĩ người con gái mới đó, vì một phần khác
Anh sợ phạm tội, mà sợ phạm tội thì đúng hơn.

Anh không thể ngồi yên mà không
nói lên những khát khao dồn ép. Những điều mà sách vở nói về tình yêu, về xác
thịt, có thể ám ảnh dễ dàng Anh. Cho nên lòng Anh ngày càng nén chặt mơ ước
không được thỏa mãn. Những hiện tượng rụt rè lo ngại của Anh, theo tôi nghĩ là ảnh
hưởng của nền giáo lí nghiêm khắc mà một linh mục như những linh mục thời bấy
giờ, quan niêm vấn đề tình dục ngoài lề luật giáo hội là trọng tội, gớm ghiếc đến
đỗi các thánh chẳng dám nói đến tên. Thời bấy giờ dù có trao đổi, hiểu biết cặn
kẽ sinh lí trong lề luật Hội thánh mà thôi, giữa người tín hữu và vị lãnh đạo
tinh thần (Linh hướng) cũng đã rất hiếm hoi rồi. Chỉ còn sách vở và bạn bè.
Sách vở thì ấm ớ trong lối hành văn, bạn bè thì đừng hòng mà anh Trí tâm sự.

Về mặt xã hội, những tiếp xúc
giao tế với bạn bè khác phái, mà hơi có vẻ thân mật một chút, cũng đủ để bị phê
phán, dòm ngó như đã phạm tội chùng lén rồi, mặc dù giữa thanh thiên bạch nhựt,
cố nhiên, trở thành đề tài cho dư luận đàm tiếu.

Bởi vậy, nếu Anh không có một căn
bản giáo dục vững chắc, cộng với cảm nghĩ nghiêng ngửa chửa chứng bệnh tâm thần
đó, Anh có thể trở thành kẻ đói khát tình dục mà hậu quả khó có thể đo lường.

Lòng Anh luôn tràn đầy cảm nghĩ
yêu đương, chỉ một tấm ảnh, một cơn nắng sáng, một buổi chiều thu, hay chiếc áo
vàng thoáng qua cũng khơi mạch thơ Anh ào ạt tuôn ra như suối dữ. Chứng bệnh mà
Anh đang sống với nó, theo tôi nghĩ nằm trong một thứ dây thần kinh mong manh,
nhưng tiếp thu bén nhạy và ghi đậm mãi trong đầu óc Anh. Thơ Anh vì vậy mang
nhiều cảm ứng, nhiều từ ngữ lạ lùng, khó hiểu mà bệnh hoạn ghi nhận và bắt nhớ
lâu dài.

Tôi xin đơn cử một ví dụ: Đó là
chữ Phượng Trì mà thỉnh thoảng thấy xuất hiện trong nhiều bài thơ Anh.

“Hôm ấy, hai anh em chúng tôi đi
xem một cuốn phim Tàu “Hỏa thiêu Hồng Liên tự”.

Nội dung là một câu chuyện kiếm
hiệp được dựng lên trong bối cảnh mà vua Càn Long lợi dụng các môn phái võ hiệp
để đánh phá ngôi chùa Hồng Liên, một cứ điểm quan trọng nhằn chống lại triều
đình Mãn Thanh thời bấy giờ.

“Xong trận chiến, Cam Phượng Trì
người anh hùng lỗi lạc, phái Nga Mi, lên đỉnh núi cao, nhìn xuống chiêm ngưỡng
chiến công đã đạt.

Anh rùng mình khi thấy bao nhiêu
bạn bè anh đã bị tàn sát. Buồn rầu quay gót phi thân lên ngọn núi lấy đà dùng
thuật phi hành bay mãi lên cao cho đến khi mất dạng.

Một nữ hiệp là Diệp Tiểu Thanh, vốn
yêu mến anh chạy theo tìm. Tiếng nàng gọi: Phượng Trì, Phượng Trì... vang dội
khắp nơi mà con phượng hoàng vĩ đại đó không quay trở lại.”

Hai tiếng Phượng Trì ám ảnh anh
Trí một cách kì lạ say đắm, đến nỗi đêm sau Anh đi một mình xem chiếu lại. Anh
xuýt xoa khen ngợi liền mấy hôm. Anh nói “Phượng Trì, cái tên thật là tuyệt,
nghe như bay lên! Bay lên cao! Hay quá.”

Hai tiếng đó đã tạo cho Anh ý niệm
bay về trời mà trong bài thơ “Ave Maria” ở đoạn cuối. Anh lập lại bốn lần, một
cách gắm bó ước ao tha thiết.

Phượng Trì, Phượng Trì, Phượng
Trì, Phượng Trì

Thơ tôi bay suốt một đời chưa thấu.

Hồn tôi bay đến bao giờ mới đậu.

Trên triều thiên ngời chói vạn
hào quang

Đoạn cuối bài thơ này, anh Trí đã
phỏng dịch theo bài hát rất quen thuộc hồi đó trong nhà thơ. Bài “Au ciel! Au
ciel” (Cantiques de la Jeuneses) mà cũng là bài hát trong gia đình, cha tôi đã
dạy các con hát với cây đàn harmonnium nhỏ.

Bài “AU CIEL! AU CIEL”:

Coupet:

J’irai la voir un jour

Au ciel dans ma patrie

Oui j’irai voir Marie

Ma joie et mon amour.

Refrain:

Au ciel, au ciel, au ciel

J’irai la voir un jour

Au ciel, au ciel, au ciel

J’irai la voir un jour

(Đại ý: trên trời nơi quê hương
tôi, tôi có ngày gặp lại mẹ Marie, niềm hoan lạc và yêu mến của tôi).

Anh có vẻ rất thích chí, khi tìm
được hai chữ “Phượng Trì” để thay thế “Au ciel, au ciel”, mà Phượng Trì lại rất
gần gũi với biểu tượng Phượng Hoàng của Anh, âm điệu lại nhịp nhàng ăn khớp với
bản thánh ca nhịp 6/8 đó.

*

Khẩu khí Phượng Hoàng được ông Trần
Thanh Mại cho là siêu phàm tiên cốt. Nói về lối dùng chữ của Hàn Mặc Tử ông Mại
viết:

“Tài nghệ diễn tả ấy sở dĩ tài
tình là vì thi sĩ có một khoa dụng ngữ tuyệt phẩm dồi dào. Nó dung hòa được
danh từ xưa và nay, những ngôn pháp Á và Âu, lại ảnh hưởng ở cả hai nguồn văn
hóa Phật giáo và Thiên Chúa giáo.

Anh thỉnh thoảng đưa vào thơ những
chữ mà người đọc bất thần bị lúng túng, nếu không đọc trọn bài thơ để nắm vững
ý chính của Anh.

Anh dùng cả Đao li, Đâu suất hay
Ngạ quỷ của Phật giáo trong câu:

... Bay từ Đao li đến Đâu suất...

Đàng Ngạ quỷ phơi nhiều trong gấm
vóc

Bước êm ru như hoan lạc mời
đưa...

Anh còn dùng cả những danh từ Đẩu
số, đưa vào các bài thơ mà ý nghĩa đôi khi rất ngộ nghĩnh, chẳng hạn như trong
bài thơ:

TRƯỜNG THỌ

... Đưa tay vơ cùng cầm nguyệt
mênh mang

... Chan chứa ý li tao sảng sốt

Chế Lan Viên quỳ dâng tràng chuỗi hột

Cầu khúc tinh hằng chiếu mạng người thơ

Đọc bài này, tôi không nén cười được: “À, Anh lại lộn xộn rồi!”.
Chế Lan Viên quỳ dâng tràng chuỗi hột? Chuỗi gì đây mà lại cầu nguyện với tử vi
Đẩu số! Anh tính chuyện bắt cá hai tay sao?.”

Anh cười lớn: “Dâng tràng hạt đủ rồi! Cầu với ai cũng được.”

(Khúc tinh là hai sao Văn Khúc, Vũ Khúc thuộc cánh văn chương
uy dũng nổi danh quán thế của khoa Tử vi).”

Cũng như khi Anh viết bài “Ave Maria”, Anh cũng mở đầu bằng
câu chào mừng:

“Như song lộc triều nguyên ơn phước cả”

Đây là một lời chúc tụng đặc biệt Á Đông mà Anh táo bạo dùng
để thay thế lời sứ thần Gabriel khi xuống truyền tin Thánh nữ:

“Kính mừng Bà đầy ơn phước, Thiên chúa ở cùng Bà.”

Anh Trí cho câu song lộc triều nguyên cũng có một ý nghĩa cao
trọng như thế mà lại còn có màu sắc Đông phương, gần gũi hơn với dân tộc.

Thời bấy giờ, người ta cố đưa tinh thần dân tộc vào trong các
lĩnh vực văn chương mĩ thuật để dần dần tiến sâu vào mục tiêu chính trị, xã hội.

Phong trào thơ mới bành trướng mạnh mẽ trong hướng đổi mới đó
và cụ thể hơn nữa là Trường thơ loạn của nhóm bạn bè Hàn Mặc Tử cũng muốn làm một
cái gì cho dân tộc.

Tôi còn nhớ Sở kiến trúc Đông Dương cũng đã chuyển hướng về ý
thức dân tộc Đông Phương trong cải cách lại kiến trúc cho hòa hợp với Âu và Á.
Một mẫu nhà rất được tán thưởng là kiểu “Eurasien” (Âu – Á) để thay thế cái kiểu
mẫu của Pháp và châu Âu đang áp dụng.

Ngay cả trong hội họa, ảnh tượng Đức Trinh nữ Maria ít còn rập
theo mẫu của nước ngoài, mà được minh họa với nét và màu nhẹ nhàng trong bóng
dáng một Người mẹ Việt Nam hiền từ tươi thắm.

Bởi vậy cho nên, khi viết bài “Ave Maria”, Anh cũng đã làm một
chút cách mạng bằng những ngôn từ đặc biệt mà Anh nói là Kinh kính mừng riêng của
Anh dâng cho Đức Mẹ Việt Nam.

Bốn chữ “song lộc triều nguyên” này Hàn Mặc Tử mượn trong
khoa tử vi Đẩu số có từ đời Đại Tống bên Tàu, nói về Đại Quý cách của người được
Trời ban cho nhiều ân sủng cao trọng không ai bằng:

– Song lộc là Hóa lộc và Lộc tồn đều là Phúc lộc tinh.

– Hóa lộc nói về lợi lộc trần thế và vinh quang.

– Lộc tồn là sao Thiên lộc, lộc bởi trời vô tận, có một ý
nghĩa thiêng liêng ơn phù trợ và cứu giải. Ngoài ra còn ban ơn thông tuệ về văn
chương uyên thâm quán thế.

– Triều là hương về, chầu về.

– Nguyên là bản mệnh.

Hàn Mặc Tử rất thích bộ sao này, vì chính Anh cũng có bộ sao
đó trong bản số. Mặc dầu không đắc sách lắm nhưng Anh rất hãnh diện và tin tưởng
sẽ được nhiều ơn phù trợ bởi Trời.

Vì vậy mà lòng Anh tràn ngập nỗi vui sướng, hồ hởi như là đã
được Mẹ nhận lời lòng biết ơn và yêu mến của Anh.

Cho nên suốt bài thơ, Anh không hề bày tỏ một lời nào bi lụy
có thể làm mất đi nét trong sáng huyền diệu mà Anh dâng lên.

Như song lộc triều nguyên ơn phước cả

Dâng cao dâng, thần nhạc sáng hơn trăng

Thơm tho bay cho đến cõi thiên đàng

Huyền diệu biến thành muôn kinh trọng thể.

Anh tự hào có đầy đủ ơn thánh mà Mẹ đã biết rồi. Trí khôn Anh
cũng thừa hưởng thần trí của các vị Thánh, cho nên Anh tự xem Anh cũng là
Thánh:

... Tôi no rồi ơn vỏ lộ hòa chan.

Tấu lạy Bà, Bà rất nhiều phép lạ

Ngọc như ý vô tri còn biết cả

Huống chi tôi là Thánh thể kết tinh...

Nhớ lại một hiện tượng trên bờ biển xa xưa, mà ánh sáng chói
lòa đã làm cho Anh Trí ớn lạnh run rẩy đến lạc thần vì mơ hồ có Mẹ đến quá gần:

Maria! Linh hồn tôi ớn lạnh

Run như run, thần tử thấy long nhan

Run như run, hơi thở chạm tơ vàng

Nhưng lòng vẫn thấm nhuần ơn trìu mến

Anh xúc động đến rơi lệ và thì thầm cảm tạ ơn phù trợ Mẹ đã cứu
thoát Anh trong tai nạn đó.

Lạy Bà là Đấng tinh tuyền thánh vẹn

Giàu nhân đức, giàu muôn lộc từ bi

Cho tôi dâng lời cảm tạ phò nguy

Cơn lâm luỵ vừa trải qua dưới thế.

Rồi say sưa cuồng mạn, so sánh bài thơ Anh, kinh kính mừng của
Anh, đang bay đến cõi Thiên Đàng hiệp với lời chúc tụng của thiên sứ Gabriel

Hỡi sứ thần Thiên Chúa Gabriel

Khi người xuống truyền tin cho Thánh nữ

Người có nghe xôn xao muôn tinh tú

Người có nghe náo động cả muôn trời

Người có nghe thơ mầu nhiệm ra đời.

...

Giòng thao thao bất tuyệt của Nguồn thơ

Bút tôi reo như châu ngọc đền vua

Để ca tụng bằng hương hoa sáng láng

Bằng tràng hạt bằng sao mai chiếu sáng

Một đêm xuân là rất đỗi Anh linh

Vì bài thơ này là tràng hạt mân côi đầy tình yêu mến Mẹ.

Đây rồi, đây rồi, chuỗi ngọc vàng kính

Thơ cầu nguyện là thơ quên tử ý

...

Cho tình tôi nguyên vẹn tơ trăng rằm

Thơ trong trắng như một khối băng tâm...

Trong trạng thái xuất thần, bài “Ave Maria” đưa Anh đi rất xa
trong cõi trời mênh mông mơ ước, pha trộn mộng và thực với những hình ảnh quen
thuộc của Đức Trinh Nữ, của sứ thần Gabriel. Những kinh kính mừng trong tràng hạt
vang dội mãi không dứt trong đầu óc Anh: Ave, Ave, Ave...

Ave Maria! Reo như châu ngọc thơm tho như hoa hương, sáng như
thất bảo, làm xôn xao tinh tú, náo động muôn trời và vạn vật.

Ave Maria dài bất tận mà “thơ tôi bay suốt một đời chưa thấu...”

Chưa bao giờ, có bài thơ nào mà Anh biểu lộ được hết tiêu
phong đạo cốt như trong bài “Ave Maria” mà Anh nói là bài thơ đắc ý nhất trong
cuộc đời Anh.

AVE MARIA

Như song lộc triều nguyên ơn phước cả

Dâng cao dâng, thần nhạc sáng hơn trăng

Thơm tho bay cho đến cõi Thiên Đàng

Huyền diệu biến thành muôn kính trọng thể.

Và Tổng lãnh thiên thần quỳ lạy Mẹ

Tung hô câu dường hạ ngớp châu sa

Hương xông lên lời ca ngợi sum hòa

Trí miêu duệ của muôn vì Rất Thánh

Maria linh hồn tôi ớn lạnh

Run như run, thần tử thấy long nhan

Run như run hơi thở chạm tơ vàng

Nhưng lòng vẫn thấm nhuần ơn trìu mến

Lạy Bà là Đấng tinh tuyền thánh vẹn

Giàu nhân đức, giàu muôn lộc từ bi

Cho tôi dâng lời cảm tạ phò nguy

Cơn lâm luỵ vừa trải qua dưới thế

Tôi cảm động rưng rưng hai hàng lệ

Giòng thao thao bất tuyệt của Nguồn thơ

Bút tôi reo như châu ngọc đền vua

Trí tôi hớp bao nhiêu là khí vị...

Và trong miệng ngậm câu ca huyền bí

Và trong tay nắm chặt nạm hào quang.

Tôi no rồi ơn vỏ lệ hòa chan

Tấu lạy Bà, Bà rất nhiều phép lạ

Ngọc như ý vô tri còn biết cả

Huống chi tôi là Thánh Thể kết tinh

Tôi ưa nhìn Bắc đẩu rạng bình minh

Chiếu cùng hết, khắp ba ngàn thế giới

Sáng nhiều quá cho thanh âm vời vợi

Thơm dường bao cho miệng lưỡi không khen

Hỡi sứ thần Thiên Chúa Gabriel

Khi người xuống truyền tin cho Thánh nữ

Người có nghe xôn xao muôn tinh tú

Người có nghe náo động cả muôn trời

Người có nghe thơ mầu nhiệm ra đời

Để ca tụng bằng hoa hương sáng láng

Bằng tràng hạt, bằng sao mai chiếu rạng

Một đêm xuân là rất đỗi anh linh.

Đây rồi, đây rồi, chuỗi ngọc vàng kính

Thơ cầu nguyện là thơ quên tử ý

Trượng phu lời và Tông đồ triết lí

Là nguồn trăng yêu mến Nữ Đồng Trinh

Là nguồn đau chầu lạy Nữ Đồng Trinh

Cho tôi thắp hai hàng cây bạch lạp

Khói trang nghiêm sẽ dâng lên tràn ngập

Lút trí khôn và ám ảnh hương lòng

Cho sốt sắng cho đê mê nguyện ước.

Tấu lạy Bà, lạy Bà đầy ơn phước

Cho tình tôi nguyên vẹn tơ trăng rằm

Thơ trong trắng như một khối băng tâm

Luôn luôn reo trong hồn, trong mạch máu

Cho vỡ lở cả muôn ngàn tinh đẩu

Cho đê mê âm nhạc và thanh hương

Chim hay tên ngọc đá niết tuổi vàng

Lòng vua chúa cũng như lòng lê thứ

Sẽ ngây ngất bởi chưng thơ đầy ứ

Nguồn thiêng liêng yêu chuộng Mẹ sầu bi.

Phượng Trì, Phượng Trì, Phượng Trì, Phượng Trì

Thơ tôi bay suốt một đời chưa thấu

Hồn tôi đến bao giờ mới đậu

Trên triều thiên ngời chói vạn hào quang.

(Sao lục nguyên bản)

Sống bên cạnh Anh, hiểu biết tâm bệnh Anh, dò xét những trạng
thái xuất thần của Anh, tôi hằng lo sợ không khéo Anh lại trở thành một “Tiên ông
thiếu nét” nói ở trên chăng? May thay Anh ngày càng minh mẫn và sâu sắc.

Phải chăng thân xác phàm tục Anh bị huỷ hoại tàn phá, như phá
đi một thứ rào cản, cho thần trí Anh được khai thông, mà hiện tượng tâm thần bệnh
hoạn chỉ là những dây thần kinh bén nhạy giúp Anh rung cảm dễ dàng trước những
hình ảnh tuyệt vời trong cõi mộng bao la mà bài “Ave Maria” đã ghi lại khi Anh
lần hạt mân côi?

Những ngôn từ thế tục cũng được Anh nâng cao và thánh hóa như
những lời chúc tụng cao trọng vì chính Anh cũng tự nhận là Thánh.

*

Ngoài kĩ thuật vay mượn từ ngữ xuất xứ từ nhiều nơi, hoặc do
cảm nhận một ý niệm, Anh Trí còn tế nhị và sâu sắc trong lối thơ tả tình.

Thơ Anh tuy say sưa lai láng nhưng dùng chữ rất khéo léo, sắp
xếp thật rõ ràng để đánh giá mỗi bài thơ, mỗi mối tình cho khác biệt nhau.

Ở Hoàng Hoa thì Anh tình nghĩa rụt rè, thật thà trong “Hồn
Cúc”

Khăn áo hôm nay tề chỉnh quá

Muốn ôm hồn cúc ở trong sương

Ở Mộng Cầm, quen thuộc trong bài “Say nắng”:

Hồn tôi mắc cỡ là vì

Không quen thưởng thức cái gì ngất
ngây

Ở Mai Đình, suồng sã hơn:

Nàng, ôm nàng hai tay ta ghì chặt

Ôi! Khoái trá...

Ở Thương Thương, cảm nghĩ trần tục
được chuyển qua tình tứ của hoa lá suối chim, mà hình ảnh vẫn dựa vào cảnh trí
đã sống qua.

Dựa vào Mộng Cầm:

Suối reo:

Mát tê đi như da thịt nàng dâu

Cởi xiêm cởi áo ra nào.

Dựa vào Hoàng Hoa:

Chim hót:

Chim ơi hót khúc tương giao

Có người thục nữ lần vào thiên thai.

Dựa vào Mai Đình:

Chàng:

Em là hoa mười phương

Anh là mây tứ xứ

Gặp nhau ở cạnh tường

Tưởng tượng về Thương Thương (có vẻ huyền hoặc)

Thương Thương em, trời cho ta kì ngộ

Nói cho ra thần diệu mà vàng bay.

*

Báo cáo nội dung xấu