Dặm Xanh - Chương 57 - Phần 1

57.

Khoảng hai giờ mười lăm phút chiều, bà bạn Elaine Connelly của tôi đến phòng sưởi nắng, nơi tôi đang ngồi, những trang tự truyện cuối cùng được xếp ngay ngắn trước mặt. Gương mặt bà tái xanh và có những vệt sáng dưới mắt. Tôi nghĩ bà ấy đã khóc.

Về phần tôi, tôi nhìn. Chỉ có thế. Nhìn ra ngoài cửa sổ, bàn tay phải phập phồng ở cổ tay. Nhưng dù sao cũng là cơn phập phồng thanh thản. Tôi cảm thấy trống rỗng, chỉ còn lớp vỏ ngoài khô khốc. Một cảm giác vừa khủng khiếp vừa tuyệt vời.

Thật khó mà đón ánh mắt của Elaine - tôi sợ sẽ thấy lòng căm ghét và sự khinh bỉ trong đó - nhưng không có. Buồn bã và ngạc nhiên, nhưng yên ổn. Không căm ghét, không khinh bỉ và không hoài nghi.

- Cô muốn xem phần còn lại không? - Tôi hỏi. Tôi vỗ vào chồng bản thảo bằng bàn tay đang đau. - Ở đây, nhưng tôi hiểu nếu cô không sớm...

- Điều em muốn không phải là vấn đề. - Bà nói. - Em phải biết câu chuyện ra sao, mặc dù sự việc anh xử tử hắn không còn là điều nghi ngờ. Sự can thiệp của Chúa với một chữ hoa C được đề cao quá lố trong cuộc sống của người phàm, em nghĩ thế. Nhưng trước khi đọc những trang này... Paul...

Bà ấy dừng lại, như thể không biết chắc nên nói tiếp như thế nào. Tôi chờ đợi. Đôi khi bạn không thể giúp người khác. Thậm chí đừng cố giúp còn tốt hơn.

- Paul, anh viết trong đây như thể anh có hai con lớn vào năm 1932 - không chỉ một, mà hai đứa. Nếu không phải anh đã kết hôn với Janice của anh khi lên mười hai và chị ấy mười một tuổi, đại khái như vậy, thì...

Tôi khẽ mỉm cười.

- Chúng tôi còn trẻ khi lấy nhau - nhiều người dân vùng đồi núi đều thế, cả mẹ tôi nữa - nhưng không trẻ đến mức đó.

- Vậy thì anh bao nhiêu tuổi? Em luôn luôn cho rằng anh trạc tám mươi, bằng tuổi em, thậm chí có thể trẻ hơn một chút, nhưng theo tập truyện này...

- Tôi được bốn mươi tuổi vào năm John bước trên Dặm Đường Xanh. - Tôi trả lời. - Tôi sinh năm 1892. Như thế tôi được một trăm lẻ bốn tuổi, trừ khi tôi tính sai.

Elaine trố mắt nhìn tôi, không nói nên lời.

Tôi đưa ra phần bản thảo còn lại, nhớ đến cách mà John đã chạm vào người tôi trong xà lim. Anh sẽ không nổ tung, gã nói, khẽ mỉm cười trước ý tưởng đó, và tôi thì không... Nhưng rốt cuộc điều gì đó đã xảy ra cho tôi. Điều gì đó lâu dài.

- Cô hãy đọc phần còn lại. - Tôi nói. - Những câu trả lời mà tôi biết có cả trong đấy.

- Tốt lắm. - Bà thầm thì. - Em hơi sợ, em không thể nói dối về điều đó, nhưng... thôi được. Anh sẽ ở đâu?

Tôi đứng lên, vươn vai, lắng nghe tiếng cột sống lách cách trên lưng. Một điều tôi biết chắc là cảm giác chán chường đến chết với căn phòng sưởi nắng.

- Ra ngoài sân bóng croquet đi. Vẫn còn có thứ tôi muốn cho cô xem, ở đằng kia.

- Nó... ghê không? - Trong dáng vẻ bẽn lẽn của bà tôi nhìn thấy bà thời con gái, khi đàn ông đội nón rơm vào mùa hè và khoác áo lông gấu chuột vào mùa đông.

- Không. - Tôi mỉm cười đáp lại. - Không ghê.

- Được rồi. - Bà cầm lấy những trang giấy. - Em đem những thứ này xuống phòng em đã. Gặp lại anh ngoài sân bóng... - Bà lật nhanh bản thảo, đánh giá. - Bốn tờ sao? Đúng vậy không?

- Hoàn toàn. - Tôi trả lời, nghĩ đến gã quá đỗi tò mò Brad Dolan. Đến lúc ấy hẳn là gã đã đi khỏi.

Bà đưa tay ra véo tôi một cái rồi ra khỏi phòng. Tôi đứng tại chỗ một lúc, nhìn xuống bàn, ghi nhận sự thật rằng cái bàn lại trống trải một lần nữa, ngoại trừ khay điểm tâm mà Elaine đã đem cho tôi sáng hôm ấy, những trang viết rải rác của tôi sau cùng đã ra đi. Cách nào đó tôi không thể tin mình đã xong xuôi... và như bạn thấy đấy, vì tất cả đã được viết sau khi tôi ghi lại cuộc hành hình John Coffey và giao mớ trang giấy cuối cùng cho Elaine, tôi vẫn chưa xong. Và ngay cả vào lúc đó, một phần bản thân tôi biết tại sao.

Alabama.

Tôi nhón lấy khoanh bánh mì nướng cuối cùng trên khay, đi xuống cầu thang và ra ngoài sân bóng croquet. Ở đấy tôi ngồi dưới ánh nắng, ngắm nhìn một số cặp bạn già và một nhóm bốn người, chậm chạp nhưng vui nhộn đi qua, tay vung vẩy gậy đánh bóng, suy ngẫm những ý tưởng của một ông già và mặc cho ánh nắng sưởi ấm bộ xương già nua của tôi.

Khoảng hai giờ bốn mươi lăm phút, ca làm việc từ ba đến bảy giờ chậm rãi bắt đầu ở bãi để xe và đến ba giờ thì những nhân viên ca ngày đã ra về. Phần lớn đi theo nhóm nhưng tôi thấy Brad Dolan đi một mình. Một hình ảnh vui vẻ; xét cho cùng, có lẽ thế giới chưa hoàn toàn sụp đổ xuống địa ngục. Một trong những quyển truyện cười của hắn thò ra khỏi túi quần sau. Lối đi đến bãi để xe vắt ngang qua sân bóng nên hắn nhìn thấy tôi, nhưng hắn không vẫy tay cũng không nhăn nhó. Với tôi thế là tốt. Hắn chui vào chiếc xe Chevrolet cũ có dán hàng chữ: Tôi Đã Thấy Chúa Và Tên Ông Ấy Là Newt. Rồi hắn lên đường đến bất cứ nơi nào hắn đi khi không hiện diện ở đây, rải ra sau lưng hắn một vệt dài nhớt máy loại giảm giá.

Đến khoảng bốn giờ, Elaine nhập bọn với tôi như bà ấy đã hứa. Ánh mắt bà cho thấy bà đã khóc thêm một chút. Bà quàng tay quanh người tôi, siết chặt.

- John Coffey tội nghiệp. - Bà nói. - Và Paul Edgecombe cũng tội nghiệp nữa.

Paul tội nghiệp, tôi nghe giọng Janice. Chàng thân yêu tội nghiệp.

Elaine lại bật khóc. Tôi ôm bà, ở đó trên sân bóng croquet dưới ánh nắng xế chiều. Bóng chúng tôi nhìn như thể đang nhảy múa. Có lẽ đang ở trong phòng Dạ Vũ Tưởng Tượng như chúng tôi thường nghe trên radio vào thời đó.

Sau cùng bà đứng lên trong sự kiềm chế, lui ra khỏi vòng tay tôi. Bà tìm một mẩu giấy Kleenex trong túi áo và lau nước mắt.

- Paul, chuyện gì xảy ra cho vợ ông Giám thị? Chuyện gì xảy ra với Melly?

- Bà ấy được xem là điều thần kì của thời đại, ít nhất là đối với các bác sĩ của Bệnh viện Indianola. - Tôi trả lời. Tôi nắm tay bà và chúng tôi bắt đầu bước đến lối đi ra khỏi bãi để xe của nhân viên, vào trong rừng, về phía chái nhà bên cạnh bức tường giữa Georgia Pines và thế giới của những người trẻ.

- Bà ấy chết - vì đau tim, không phải vì u não - sau mười hay mười một năm. Tôi nghĩ vào năm 43. Hal chết vì đột quỵ vào khoảng ngày tấn công Trân Châu cảng - có thể đúng vào ngày Trân Châu cảng, theo như tôi nhớ, như vậy bà ấy thọ hơn chồng hai năm. Khá mỉa mai.

- Còn Janice?

- Hôm nay tôi chưa chuẩn bị tinh thần cho chuyện đó. - Tôi trả lời. - Tồi sẽ kể cho cô nghe vào dịp khác.

- Anh hứa chứ?

- Hứa. - Nhưng đấy là một lời hứa mà tôi không bao giờ làm tròn. Ba tháng sau ngày chúng tôi cùng vào rừng (lẽ ra tôi đã nắm tay bà nếu không phải vì sợ làm đau những ngón tay co rúm và sưng tấy), Elaine Connelly lặng lẽ chết trên giường. Cũng như Melinda Moores, cái chết là kết quả của một cơn đau tim. Người hộ lí phát hiện ra bà kể rằng nét mặt bà bình an, như thể tử thần đến bất ngờ và không đau đớn nhiều. Tôi hi vọng anh ta nói đúng. Tôi yêu Elaine. Và tôi nhớ bà ấy. Bà ấy và Janice và Brutal và tất cả bọn họ.

Chúng tôi đến chái nhà thứ hai trên lối mòn, cái bên cạnh tường. Nó đứng lùi lại phía sau trong một bụi thông, mái nhà xệ và cửa sổ đóng ván đan xen và lốm đốm vào những chiếc bóng. Tôi dợm bước về phía nó. Elaine nấn ná một thoáng, vẻ sợ hãi.

- Không sao. - Tôi trấn an. - Thật mà. Vào đi.

Cửa không có chốt - đã từng có nhưng bị giật văng ra - vì thế tôi dùng một mảnh bìa cứng gập đôi để chặn lại. Tôi rút mảnh bìa cứng ra, bước vào trong chái nhà. Tôi bỏ mặc cho cánh cửa mở rộng tùy ý vì bên trong tối đen.

- Paul, cái gì?... Ồ. Ồ! - Tiếng “ồ” thứ hai thiếu chút nữa trở thành tiếng hét.

Một cái bàn đã được đẩy sang bên. Trên bàn là một đèn pin và một túi giấy nâu. Trên sàn nhà có một hộp xì gà hiệu Hava-Tampa mà tôi đã lấy được của nhà thầu nước ngọt và máy bán kẹo cho viện dưỡng lão. Tôi đã yêu cầu anh ta đưa thứ đặc biệt và vì công ty cũng bán các sản phẩm thuốc hút nên anh ta dễ dàng tìm được. Tôi đề nghị trả tiền - chúng là những tiện nghi giá trị khi tôi còn làm việc ở Cold Mountain, như đã kể cho bạn nghe - nhưng anh ta chỉ cười xòa.

Trố mắt nhìn qua thành hộp là một cặp mắt hạt thị sáng rỡ.

- Ông Jingles. - Tôi thấp giọng giới thiệu. - Lại đây. Lại đây gặp quý bà, anh bạn.

Tôi ngồi xổm xuống - đau đớn, nhưng cố nén - và chìa tay ra. Thoạt tiên tôi nghĩ lần này nó không vượt qua nổi thành hộp, nhưng con chuột làm được với cú nhảy cuối cùng. Nó lật nghiêng một bên rồi đứng dậy và chạy đến với tôi. Một chân sau tập tễnh, vết thương do Percy gây ra đã tái phát khi ông Jingles già đi. Tuổi già, già nua. Ngoại trừ phần trên đầu và chóp đuôi thì bộ lông của nó đã hoàn toàn hóa xám.

Con chuột nhảy lên lòng bàn tay tôi. Tôi nhấc tay lên và nó vươn cổ ra, ngửi hơi thở của tôi, tai quặp ra sau, cặp mắt nhỏ khao khát. Tôi chìa tay về phía Elaine, bà đang nhìn con chuột với đôi mắt tròn xoe ngạc nhiên, miệng hé mở.

- Không thể được. - Bà thốt lên và nhướng mắt nhìn tôi. - Ôi Paul, không phải là... không thể được!

- Xem đi. - Tôi đáp. - Rồi hãy nói thế.

Từ cái túi trên bàn tôi lấy ra một ống chỉ mà tôi tự tô màu - không phải với bút chì hiệu Crayola mà Magic Markers, một phát minh nằm mơ cũng không thấy vào năm 1932. Thế nhưng cái ống chỉ vẫn đẹp. Sáng loáng như cái của Del, có lẽ hơn nữa. Thưa quý ông quý bà, tôi nghĩ. Xin chào mừng quý vị đến với gánh xiếc chuột!

Tôi lại ngồi xổm xuống và ông Jingles chạy ra khỏi lòng bàn tay tôi. Nó đã già nhưng vẫn say mê như bao giờ. Từ lúc tôi lấy ống chỉ ra khỏi túi, nó không còn để ý đến bất cứ thứ gì khác. Tôi lăn ống chỉ qua sàn nhà nứt nẻ, không bằng phẳng, và nó lập tức đuổi theo. Nó không chạy với tốc độ cũ nữa và thật đau lòng khi nhìn nó tập tễnh, nhưng tại sao lại phải chạy nhanh hoặc vững vàng? Như tôi đã nói, con chuột đã già, một con chuột Bành Tổ. Ít nhất là sáu mươi tư tuổi.

Nó đuổi kịp cái ống chỉ, vốn đập vào bức tường bên kia rồi nẩy ngược lại. Con chuột đi vòng qua, rồi nằm xuống bên cạnh ống chỉ. Elaine dợm bước đến nhưng tôi ngăn bà lại. Sau một khoảnh khắc, ông Jingles đứng lên được. Một cách chậm chạp, rất chậm chạp, nó dùng mũi đẩy cái ống chỉ trở lại chỗ tôi ngồi. Lần đầu tiên khi đến đây - tôi phát hiện ra nó đang nằm trên bậc thềm dẫn đến nhà bếp theo tư thế đó, như thể đã di chuyển một quãng đường xa và kiệt sức - nó vẫn còn đủ sức điều khiển ống chỉ bằng chân trước, như nó đã làm những năm tháng trước kia trên Dặm Đường Xanh. Nhưng cái mũi thì vẫn điêu luyện như trước kia. Nó chỉ phải di chuyển từ đầu ống này sang đầu kia để giữ đúng lộ trình. Khi đến chỗ tôi, tôi nhặt nó lên bằng một tay - con chuột nặng không hơn một cái lông chim - và tay kia nhặt ống chỉ. Đôi mắt sáng của nó không hề rời khỏi cái ống chỉ.

- Paul, đừng làm lần nữa, Paul. - Elaine thổn thức nói. - Nhìn nó diễn trò em không chịu đựng nổi.

Tôi hiểu cảm xúc của bà ấy nhưng nghĩ là sai khi yêu cầu tôi điều đó. Con chuột thích rượt đuổi và lấy ống chỉ về; sau bao nhiêu năm, nó vẫn còn ưa thích như thế. Tất cả chúng ta nên cảm thấy may mắn trong niềm đam mê của mình.

- Trong túi cũng có kẹo bạc hà. - Tôi nói. - Kẹo bạc hà Canada. Tôi nghĩ nó vẫn thích - nó sẽ hít ngửi không ngừng nếu tôi đưa cho nó một cục - nhưng hệ tiêu hóa của nó quá tệ, không ăn được. Thay vào đó, tôi đem đến bánh mì nướng.

Tôi lại ngồi xổm xuống, bẻ một mẩu bánh nhỏ mà tôi mang theo từ phòng sưởi nắng, đặt xuống sàn nhà. ông Jingles hít ngửi mẩu bánh, rồi nhặt lên và bắt đầu ăn. Đuôi con chuột gọn gàng cuộn quanh người. Nó thanh toán xong mẩu bánh rồi ngước nhìn, vẻ chờ đợi.

- Đôi khi bọn già chúng tôi có thể làm cô ngạc nhiên trước tính háu ăn của chúng tôi. - Tôi nói với Elaine và đưa bánh cho bà. - Cô thử xem.

Bà ấy bẻ một mẩu bánh khác và bỏ lên sàn nhà. Ông Jingles tiến lại gần, hít ngửi, nhìn Elaine... rồi nhặt lên và bắt đầu thưởng thức.

- Cô thấy chưa? - Tôi nói. - Nó biết cô không phải là một lính gác theo thời vụ.

- Paul, nó từ đâu đến?

- Không có manh mối. Một hôm vào sáng sớm, tôi ra ngoài đi dạo thì nó đã ở đây, nằm trên bậc thềm nhà bếp. Tôi biết ngay nó là ai nhưng vẫn lấy một ống chỉ từ giỏ đột xuất trong phòng giặt để thử cho chắc. Và tôi lấy cho nó một hộp xì gà, lót bằng thứ vải mềm nhất tôi tìm được. Nó cũng như chúng ta, Ellie ạ, tôi nghĩ thế - phần lớn ngày tháng chỉ chết cứng ở một nơi chốn buồn phiền. Nhưng nó chưa mất tất cả lòng ham sống. Nó vẫn còn thích cái ống chỉ và một cuộc thăm viếng của anh bạn già Khu E. Sáu mươi năm tôi giữ kín câu chuyện về John Coffey trong lòng, sáu mươi hoặc hơn và bây giờ tôi đã kể. Để tôi biết mình cần gấp rút và làm điều đó trong khi còn kịp. Vì tôi cũng như nó - đang đến nơi ấy.

- Đến đâu?

- Ổ, cô biết mà. - Tôi trả lời và chúng tôi ngắm nhìn ông Jingles một lúc trong yên lặng. Rồi không vì lí do gì để có thể kể cho bạn nghe, tôi lại ném ống chỉ ra, mặc dù Elaine đã yêu cầu tôi không làm. Về mặt nào đó, có lẽ chỉ vì chuyện con chuột rượt đuổi một ống chỉ giống như người già có phiên bản ân ái chậm rãi và cẩn thận của họ - có thể bạn không muốn xem chuyện đó, bạn vốn còn trẻ và tin rằng khi bước vào tuổi xế chiều, một ngoại lệ sẽ được tạo ra trong trường hợp của bạn, nhưng họ vẫn còn muốn ân ái.

Ông Jingles đuổi theo ống chỉ lần nữa, rõ ràng là đau đớn, và cũng rõ ràng (ít nhất đối với tôi) bằng tất cả lòng vui thích mê đắm ngày xưa.

- Cửa sổ Isinglass. - Elaine thì thào, nhìn con chuột đang chạy.

- Cửa sổ Isinglass. - Tôi đồng ý và mỉm cười.

- John Coffey chạm vào con chuột theo cách anh ta chạm vào anh. Anh ta không chỉ làm cho anh tốt lên so với những điều tồi tệ mắc phải lúc ấy, anh ta còn khiến cho anh... gì nào, đề kháng?

- Tôi nghĩ nói thế là hay.

Báo cáo nội dung xấu