Người trong ảnh - Chương 30 - 31

Chương ba mươi

CHẠY TRỐN

Người nằm trên sàn trân trân nhìn
họ. Mũ và kính của hắn đã rơi đâu mất trong cuộc vật lộn. Hắn không thể cải
trang lâu hơn nữa. Những nét vẽ trên lông mày bợt ra để lộ rõ đây là Roger
Bassington- ffrench. Lúc này hắn nói bằng giọng nam cao rất đẹp:

- Trời! Tôi biết! Một người bị
trói như anh không thể ném chiếc giày lên cửa sổ được. Nhưng vì chiếc giày của
anh nằm trên những mảnh kính vỡ nên tôi không chú ý nữa.

Vì không ai trả lời nên hắn nói
tiếp:

- Các người đã thắng cuộc. Việc
kết thúc bất ngờ và dễ chịu. Tôi đã làm cho các người hiểu lầm.

- Không phải là anh thất bại
hoàn toàn. Chính anh là người viết bức thư mạo danh Bobby, đúng không?

- Tôi có tài bắt chước.

- Anh đã bắt cóc Bobby như thế
nào?

Roger có vẻ thích chí khi kể lại
câu chuyện.

- Khi anh ta vào lâu đài La Grange thì tôi nấp
trong một bụi cây bên đường. Khi anh ta bị rơi từ cành cây xuống và chạy thoát
ra ngoài, đợi cho yên tĩnh trở lại tôi đập vào gáy anh ta bằng chiếc dùi cui
cao su. Tôi mang anh ta vào xe của tôi và cho xe chạy tới đây. Sáng sớm hôm sau
tôi trở lại lâu đài Merroway.

- Còn Moira? - Bobby hỏi - Anh đã
bắt và mang cô ta đi đâu?

Roger lại cười.

- Anh Bobby, giả mạo là một nghệ
thuật có ích.

- Đồ thú vật!

Frankie vội can thiệp. Sự tò mò
của cô chưa được thỏa mãn và người bị cầm tù có vẻ chưa nói hết.

- Tại sao anh lại cải trang thành
bác sĩ Nicholson?!

- Tại sao ư? (có vẻ như Roger
đang hỏi lại chính mình). Để xem tôi có thể đánh lừa được hai người không. Các
người cho Nicholson là kẻ có tội. Đơn giản chỉ vì ông ta đã hỏi một cách nghiêm
chỉnh về vụ tai nạn của các người. Đó là cái tật kì cục của ông ta: làm sáng tỏ
mọi chi tiết.

- Như vậy bác sĩ Nicholson vô tội
ư? - Frankie hỏi.

- Vô tội như đứa trẻ mới sinh ra.
Nhưng ông ta đã giúp đỡ tôi rất nhiều khi hỏi về vụ tai nạn của cô. Một buổi
sáng, cô gọi điện thoại, tôi đứng gần đấy, tôi nghe thấy người tài xế gọi cô là
“Frankie”. Tai tôi rất thính. Tôi hỏi đi nhờ xe, cô đã nhận lời, nhưng sau khi
tôi nói mình không đi nữa thì cô lại có vẻ như được an ủi. Tại sao cô không
thích ông ta nói về những nhầm lẫn của mình? Người ta không thể thấy trước
được mọi vấn đề. Những kế hoạch lập ra đôi khi cũng bị đổ vỡ ví dụ như thất bại
của tôi lúc này.

- Tôi muốn biết thêm một chi tiết
nữa - Frankie hỏi - Ai là Evans?

- Không. Cô không biết ư? - Roger
Bassington- ffrench phá lên cười rồi hỏi lại - Thật là kì cục! Đó là điểm có
thể chứng tỏ người ta còn quá ngu ngốc.

- Anh muốn ám chỉ điều gì?

- Không... tôi nói tôi đấy thôi.
Nếu các người không biết ai là Evans, thì tại sao tôi lại phải giải thích cho
các người! Tôi giữ lại cho mình một điều bí mật nhỏ.

Tình huống thật khác thường.
Roger Bassington- ffrench là tù nhân của ho, bị trói chặt, nằm trên sàn nhà lại
có vẻ là người thắng cuộc.

- Tôi có thể biết dự kiến của các
người không? - Hắn hỏi họ.

Chưa ai nghĩ đến chuyện này.
Bobby lẩm bẩm mấy câu trong đó có danh từ cảnh sát.

- Đó là cách giải quyết đúng nhất
- Roger công nhận - Hãy gọi điện thoại cho đồn cảnh sát gần nhất và nộp tôi cho
họ. Người ta sẽ ghép tôi vào tội bắt cóc. Thật là khó chối cãi nhưng tôi
sẽ nói tôi đang theo đuổi một mối tình không thể cưỡng lại được.

Nói xong Roger nhìn Frankie làm
cô đỏ mặt lên.

- Anh phải trả lời về vụ giết
người!

- Chứng cứ đâu, các vị? Các vị
không thể cung cấp một chứng cứ nào cả.

- Badger! - Bobby bảo bạn - Cậu ở
lại đây để canh chừng kẻ ranh mãnh này trong khi tôi đi gọi điện thoại cho cảnh
sát.

- Hãy cẩn thận - Frankie góp ý
kiến - Có thể có bọn tay chân trong nhà này.

- Ở đây chỉ có một mình
tôi thôi - Roger khẳng định.

- Tôi không tin anh - Bất chợt
Bobby nói.

Anh cúi xuống để kiểm tra các nút
giấy trói.

- Hắn không thể cựa quậy được nữa
rồi. Chúng ta cùng đi và khóa cửa lại.

- Anh đa nghi quá, anh bạn -
Roger nói - Nếu muốn thì anh cầm lấy khẩu súng trong túi tôi.

Coi khinh giọng điệu chế giễu của
tù nhân, Bobby cúi xuống lấy khẩu súng.

- Coi chừng! Súng đã nạp đạn rồi
đấy.

Bobby cầm lấy cây nến và cả ba
cùng ra khỏi phòng để lại Roger một mình trong đó. Bobby khóa cửa cẩn thận rồi
cho chìa khóa vào túi, tay vẫn lăm lăm khẩu súng.

- Tôi đi trước.

- Một con c-c-chim kì... kì cục -
Badger nói về người đang nhốt trong kho đồ cũ.

- Dù sao hắn cũng là kẻ biết chơi
- Frankie nói.

Ngay lúc này cô vẫn còn một chút
cảm tình với con người kì lạ ấy.

Một cầu thang nhỏ dẫn lên lầu
một. Trên đây hoàn toàn yên lặng. Bobby nhìn thấy một chiếc máy điện thoại
trong phòng xép.

- Chúng ta hãy kiểm tra những căn
phòng trước khi đi xa hơn. Coi chừng có kẻ đánh đằng sau chúng ta.

Badger mở cửa từ căn phòng này
đến căn phòng khác. Ba căn phòng đều trống không, vào căn phòng thứ tư, họ thấy
một người nằm trên giường.

- Đây là Moira! - Frankie kêu
lên.

Hai chàng trai tiến lại. Moira
hãy còn thở, có lẽ cô ta mới chỉ ngất đi thôi.

- Cô ta ngủ ư? - Bobby lo ngại
hỏi.

- Tôi cho rằng người ta đã cho cô
ấy uống thuốc ngủ - Frankie nói.

Cô quan sát căn phòng và thấy một
ống tiêm đặt trên chiếc đĩa để trên gờ cửa sổ. Bên cạnh là chiếc đèn cồn và một
hộp kim tiêm.

- Cô ta sẽ tỉnh lại thôi nhưng dù
sao chúng ta cũng phải gọi một bác sĩ.

Cả ba người cùng đi xuống gác
xép. Bobby gọi điện thoại cho cảnh sát địa phương tuy anh rất khó giải thích sự
việc. Cảnh sát cho đây là một chuyện bông đùa.

Bobby gác máy và thở dài. Anh
cũng yêu cầu một bác sĩ, cảnh sát hứa sẽ mời giúp anh.

Mười phút sau, một chiếc xe hơi
đậu trước ngôi nhà Tudor Cottage. Một viên thanh tra, một viên công tố đứng
tuổi xuống xe.

Sau khi giải thích mọi chi tiết
của sự việc, Bobby và Frankie dẫn họ lên kho đồ cũ. Bobby mở cửa... và
đứng sững lại: giữa nhà chỉ có một đống giây thừng và trên giường có một chiếc
ghế.

Roger Bassington-ffrench không
còn ở trong phòng nữa. Hắn đã trốn thoát theo ô cửa sổ nhỏ trên trần nhà.

- Làm thế nào mà hắn có thể cởi dây
trói được - Bobby kêu lên.

- Có thể trong túi hắn có
dao nhíp - Frankie nhận định.

- Nhưng hai tay bị trói ở đằng
sau kia mà?

Viên thanh tra húng hắng ho.
Những nghi ngờ đầu tiên của ông xuất hiện. Ông cho rằng cảnh sát đã bị
mang ra để bông đùa.

Bobby và Frankie phải
giải thích một lúc lâu nhưng chưa thuyết phục nổi ông thanh tra.

Ông bác sĩ bắt tay vào việc.

Sau khi xét nghiệm, ông tuyên bố
người phụ nữ bị đầu độc bằng moóc-phin hoặc một chất gì
đó lấy ra từ thuốc phiện. Ông cho rằng cô ta sẽ tỉnh lại vào
lúc bốn hoặc năm giờ tới.

Ông yêu cầu đưa người bệnh vào
một trạm cấp cứu gần đấy.

Bobby và Frankie không có ý kiến
gì. Họ nói tên tuổi của mình cho viên cảnh sát ghi lại và rời khỏi Tudor
Cottage. Theo mệnh lệnh của viên thanh tra, họ tới trọ tại khách sạn bảy ngôi
sao.

Bị mọi người coi là kẻ gian, ba
người trở về phòng của mình; một phòng hai giường cho Bobby, Badger và một
phòng nhỏ hơn cho Frankie.

Một vài phút sau Bobby nghe thấy
tiếng gõ cửa.

Frankie bước vào.

- Tôi nghĩ đến việc - cô báo tin -
Nếu viên thanh tra cảnh sát cứ khăng khăng cho rằng chúng ta bịa chuyện thì tôi
có thể chứng minh là tôi đã bị đánh thuốc mê bằng clô-rô-phoóc.

- Tại sao?

- Tôi vẫn như đang bị say sóng.

Chương ba mươi mốt

CÂU CHUYỆN CỦA FRANKIE

Suốt ngày mệt nhọc sáng hôm sau
Frankie dậy muộn. Mười giờ ba mươi thì cô xuống nhà để ăn sáng. Bobby đang đợi
cô.

- Cuối cùng thì cô đây rồi,
Frankie - Bobby nói.

- Xin chào, anh bạn - Frankie nói
và đi lấy một chiếc ghế - Sáng nay anh gọi món ăn đấy.

- Cô dùng gì? Trứng hay là thịt
nguội?

- Tôi muốn có trà và vịt quay...
Nhưng anh làm sao vậy?

- Đó là hậu quả của cú đánh vào
gáy... chắc chắn nó ảnh hưởng đến não. Tôi cảm thấy như mình là một con người
mới, suy nghĩ nhanh chóng, sáng suốt mọi vấn đề.

- Chúng tôi muốn biết kết quả suy
nghĩ của anh.

- Có đây. Tôi vừa làm việc trong
nửa tiếng đồng hồ với thanh tra Hammond.
Lúc này, Frankie, đến lượt cô đùa giỡn đấy.

- Bobby, anh không nên nghĩ...

- Tôi nói lúc này kia mà. Chúng
ta phải tìm ra cái bí mật căn bản của vụ này. Chúng ta không tóm cổ Roger
Bassington-ffrench về tội bắt cóc... Tôi muốn người ta bắt hắn về tội giết
người.

- Chúng ta sẽ không đạt được cái
đó đâu. - Frankie tuyên bố.

- Đây là điều tôi nói - Bobby xác
nhận - Cô dùng trà nữa đi.

- Moira ra sao rồi?

- Tình hình xấu. Cô ta sợ chết
khiếp khi tới trạm cấp cứu. Người ta đã gửi cô đi Londres để vào một trại điều
dưỡng ở Queen’s Gate. Ở đấy cô ta sẽ được an toàn.

- Chị ta vốn thiếu can đảm.

- Ai cũng phải sợ kẻ giết người
như loại Roger Bassington-ffrench.

- Hắn không tìm cách giết chị ta
đâu. Hắn muốn sát hại chúng ta kia.

- Bây giờ, Frankie, chúng ta bắt
tay vào việc. Việc trước tiên là điều tra về cái chết và bản di chúc
của ông John Savage...

- Nếu thủ phạm là Roger
Bassington-ffrench thì đó là một bản di chúc giả... vì hắn có tài bắt chước nét
chữ.

- Hắn vừa phạm tội giả mạo, vừa
phạm tội giết người.

Frankie gật đầu.

- Tôi đã được xem bản di chúc.
Những người làm chứng là Rose Cludleigh, người nấu bếp và Albert Mere,
người làm vườn. Chúng ta dễ dàng tìm ra những người này. Cũng có cả các ông
Elford và Leigh là các công chứng viên xác nhận bản di chúc. Ông Spragge nói
hai ông này là những người đứng đắn.

- Tốt. Chúng ta bắt đầu từ đây.
Frankie, cô đi gặp các ông ấy. Cô biết rõ loại việc này hơn tôi; tôi, tôi sẽ đi
tim bà Rose Cludleigh và ông Albert Mere.

- Badger ra sao rồi?

- Anh chàng không dậy trước buổi
trưa được đâu.

- Chúng ta phải giúp anh ấy về
mặt công ăn việc làm - Frankie nói - Anh ấy đã cứu chúng ta thoát
chết.

- Khốn thay, anh chàng không giỏi
về tính toán kinh doanh, sẽ lại lúng túng thôi... Bây giờ, Frankie, cô nghĩ thế
nào về cái này?

Anh đưa cho bạn một mẩu giấy dày
hơi nhem nhuốc... một tấm ảnh.

- Lão Cayman - Frankie nói ngay -
Anh thấy nó ở đâu?

- Tôi nhặt được nó dưới máy điện
thoại đêm hôm qua.

- Rõ ràng là vợ chồng nhà Cayman
còn có tên là Templeton nữa.

Cùng lúc ấy người hầu gái mang
thức ăn tới. Frankie cho cô ta xem tấm ảnh.

- Cô có biết ai đây không? - Cô
hỏi.

Cái đầu nhỏ bé cúi xuống, cô
ngưòi hầu nhìn tấm ảnh.

- Tôi đã nhìn thấy người này,
nhưng tôi không nhớ đây là ai... A! đúng rồi, đây là người sống ở Tudor
Cottage... Ông Templeton. Ông ta và vợ đã ra nước ngoài rồi.

- Cô biết những gì về ông này?

- Không nhiều lắm. Ít khi họ tới
đây... chỉ một vài lần vào dịp cuối tuần thôi. Bà Templeton là một phụ nữ xinh
đẹp. Họ ở Tudor Cottage khoảng sáu tháng... cho đến khi một ông giàu có chết đi
để lại toàn bộ gia tài cho bà Templeton. Sau đó họ rời khỏi làng. Nhưng họ chưa
bán nhà. Hình như họ cho bạn bè mượn lại để nghỉ cuối tuần. Có bạc triệu thì không
ai sống ở đây.

- Gia đình họ có một bà nấu bếp
tên là Rose Coudleigh, đúng không?

Nhưng cô hầu bàn không biết. Cô
bỏ đi sau khi trả lời mình không biết ai là người nấu bếp trong ngôi nhà ấy.

Điều đó rõ ràng là vợ chồng nhà
Cayman đã rời khỏi đây, nhưng chúng còn để lại chỗ ở cho bè lũ.

Theo sự phân công của Bobby.
Frankie đi mua bán một vài thứ về tắm giặt sau đó lên chiếc Bentley và phóng đi
còn Bobby thì đi tìm ông Albert Mere, người làm vườn.

Hai người trở về khách sạn vào
giữa trưa.

- Thế nào? - Bobby hỏi.

Frankie lắc đầu.

- Có lẽ đây không phải là di chúc
giả. Tôi đã nói chuyện với ông Elford, một ông già đáng mến. Ông ấy đã hỏi thăm
chúng ta sau sự việc đêm hôm qua. Sau đó tôi hỏi ông về ông Savage. Tôi nói
rằng mình đã gặp thân nhân của ông này, họ cho rằng đây là di chúc giả. Ngay
lập tức, ông già nổi giận. Ông nói không thể như vậy được. Chính ông đã ngồi
nói chuyện với ông Savage... Ông Elford còn yêu cầu ông Savage đến văn phòng
của mình để hoàn chỉnh lại bản di chúc nữa.. Anh biết rõ, đây là công việc phải
viết nhiều trang giấy chứ không nói đến việc...

- Tôi không biết. Tôi chưa bao
giờ viết di chúc.

- Còn tôi thì đã hai lần rồi. Lần
cuối cùng là sáng hôm nay. Tôi phải kiếm cớ để gặp một ông chưởng khế.

- Cô để lại gia tài của mình cho
ai?

- Cho anh...

- Thật là dại dột! Nếu Roger
Bassington-ffrench cho cô về chầu với tiên tổ thì tôi cũng bị hắn treo cổ.

- Tôi khồng nghĩ như vậy. Như đã
nói, sốt ruột muốn cho chóng xong việc này, ông Savage đã gọi người nấu bếp và
người làm vườn đến làm chứng. Sau đó ông Elford mang bản di chúc về bảo quản
cẩn thận trong két sắt của mình.

- Tố cáo việc làm di chúc giả
không đứng vững nữa.

- Không thể tố cáo làm giả khi
chính mắt thấy người ta ký tên vào văn bản. Cũng rất khó tố cáo tội giết
người vì ông bác sĩ chứng kiến giây phút cuối cùng của ông Savage cũng đã qua
đời. Những người mà chúng ta quen biết thì mới đây chừng hai tháng thôi.

- Danh sách những người chết ngày
càng dài thêm - Bobby nhận xét.

- Còn ai nữa?

- Ông Albert Mere.

- Và anh nghĩ rằng bọn chúng đã
giết những người này ư?

- Đúng thế. Riêng về ông Albert
Mere thì không dám khẳng định. Đó là ông già bảy mươi hai tuổi rồi.

- Có thể đây là cái chết tự
nhiên. Thế còn bà Rose Cludleigh thì sao?

- Phải, sau khi thôi việc ở nhà
Templeton, bà ta đã lên phía bắc nước Anh để lấy chồng, người chồng chưa cưới
sau bảy năm chờ đợi. Nhưng bà đã bị mọi người quên lãng. Có lẽ cô thử tìm cách
hỏi chuyện bà ta xem sao.

- Tôi sẽ cố gắng... Badger đâu
nhỉ?

- Trời! Tôi hoàn toàn quên mất
anh ấy.

Bobby đứng lên và chạy ra khỏi
phòng. Một vài phút sau, anh trở lại.

- Anh chàng vẫn còn ngủ nhưng sắp
dậy bây giờ.

- Nào chúng ta đi thăm bà nấu
bếp.

Bà Rose Cludleigh nay tên là bà
Pratt sống trong một ngôi nhà nhỏ có đồ gỗ chắp vá và những con chó bằng sứ. Bà
Pratt là một phụ nữ to béo.

- Bà thấy không, tôi đã trở lại -
Bobby báo tin.

Bà Pratt thở mạnh, nhìn hai người
mà không nói gì.

- Chúng tôi quan tâm đến việc bà
đã giúp việc gia đình bà Templeton một thời gian - Frankie giải thích.

- Đúng thế, thưa cô.

- Bây giờ họ đang sống ở nước
ngoài - Frankie nói tiếp cố gắng tỏ ra mình là người bạn của gia đình.

- Người ta nói như vậy.

- Bà đã làm việc với gia đình này
lâu chưa?

- Gia đình nào, thưa cô?

- Gia đình bà Templeton.

- Ồ! Không... chỉ có hai tháng
thôi.

- Tôi tưởng rằng bà ở đấy lâu
hơn.

- Có lẽ cô nói về Gladys, bà hầu
phòng. Bà ta đã làm việc ở đấy sáu tháng.

- Hai người cùng chung sống với
nhau ư?

- Vâng, bà ấy làm hầu phòng, tôi
nấu bếp.

- Bà ấy ở đâu khi ông Savage qua
đời?

- Cô nói gì?

- Bà có ở Tudor Cottage khi ông Savage
qua đời không?

- Ông Templeton không chết... đó
là điều tôi biết. Ông ấy đi ra nước ngoài.

- Không phải là ông Templeton mà
là ông Savage kia.

Bà Pratt ngơ ngác nhìn họ.

- Người để lại toàn bộ tài sản
cho bà Templeton ấy.

Một tia chớp thoáng qua óc bà
Pratt.

- A! Vâng thưa cô... Cái ông mà
người ta đến làm biên bản sau khi chết ấy ư?

- Đúng là ông ấy. Ông ta thường
đến Tudor Cottage, đúng không?

- Tôi không biết. Tôi mới tới đây
làm việc. Bà Gladys thì biết đấy.

- Nhưng bà đã ký làm chứng
vào bản di chúc kia mà?

Bà Pratt có vẻ không hiểu gì.

- Bà có nhìn thấy ông Savage ký
vào một tờ giấy và sau đó thì bà ký tiếp không?

Lại một tia chớp nữa.

- Vâng, thưa cô. Tôi và ông
Albert. Chưa bao giờ tôi làm việc này nên tôi không muốn, nhưng bà Gladys đã
bảo tôi không sao cả khi ông Elfort có mặt ở đấy. Đó là ông chưởng khế đứng
đắn.

- Ai yêu cầu bà ký tên? - Bobby
hỏi.

- Bà chủ, thưa ông. Bà chủ vào
bếp bảo tôi đi tìm ông Albert lên một căn phòng rất đẹp trên lầu với bà ấy (bà
ta đã nhường phòng này cho khách). Ông khách đang nằm... ông ta từ Londres đến
và đến nơi thì ông ta nằm ngay. Đây là lần đầu tiên tôi thấy ông ta. Ông Elfort
cũng đứng trong phòng. Ông chưởng khế bảo tôi không nên sợ hãi gì, chỉ việc ký
tên vào dưới chữ ký của ông khách... Ký xong tôi còn ghi thêm địa chỉ nữa. Ông
Abert cũng là như vậy. Trở về tôi nói với bà Gladys là trông ông ta quá ốm yếu.
Bà Gladys bảo trước kia ông ta rất mạnh khoẻ, sau bị một tai nạn gì đó ở
Londres.

- Và ông Savage, cái ông ký vào
tờ giấy như bà nói, chết khi nào?

- Ngay sáng hôm sau, thưa cô. Đêm
trước ngày chết ông ta vào phòng và yêu cầu không ai làm phiền ông. Sáng hôm
sau, Bà Gladys vào trong phòng để quét dọn thì ông ta đã tất thở, trên giường
có bì thư đề: “Kính gửi ông Chánh án”. Ô! Bà Gladys bị một phen hú vía. Sau đó
thì điều tra, biên bản và mọi việc khác. Hai tháng sau, bà Templeton bảo tôi bà
ấy đi ra nước ngoài và đã sắp xếp cho tôi một việc ở miền bắc nước Anh. Trước
khi đi bà ta còn tặng tôi một kỷ niệm rất đẹp.

Đến đây bà Pratt tỏ ra thích nói
chuyện.

Frankie đứng lên.

- Tôi xin cảm ơn bà về những tin
tức ấy. Xin phép bà... (Frankie nhét vào tay bà một tờ giấy bạc). Chúng tôi đã
làm mất thì giờ của bà.

- Cảm ơn cô. Chúc cô và chồng cô
may mắn.

Frankie đỏ mặt và vội vàng đi ra.
Bobby ở lại hỏi thêm bà nấu bếp một vài câu gì đó rồi đi theo Frankie.

- Tôi tin rằng cô đã làm cho bà
Pratt nói tất cả những gì bà ta biết.

- Phải, tất cả đều đã rõ ràng.
Không nghi ngờ gì nữa, ông Savage đã tự tay ký vào bản di chúc và nỗi lo sợ mắc
chứng ung thư là thực tế. Người bác sĩ giỏi ở Harley Street có thể bị mua
chuộc. Vì ông Savage đã ký bản di chúc rồi nên chúng đã nhanh chóng loại bỏ ông
ta, sợ rằng ông thay đổi ý kiến.

- Nhưng làm thế nào chứng
minh được điều này?

- Chúng ta có thể giả thiết mụ
Templeton đã cho ông Savage “uống một cái gì đó”, nhưng chúng ta không có chứng
cứ. Có thể Roger Bassington-ffrench là người đã viết bức thư gửi ông chánh án.
Một lần nữa, làm thế nào để chứng minh được? Đã lâu như vậy thì bức thư ấy có
thể bị hủy đi sau khi đã đưa ra trước toà.

- Và chúng ta cùng đi đến một câu
hỏi hóc búa: Roger Bassington-ffrench quỷ quyệt cùng bè lũ đang giấu giếm chúng
ta điều gì?

- Cái đó làm cô đặc biệt quan tâm
ư, Frankie?

- Không... Nhưng dù sao có một
chi tiết làm tôi bãn khăn mãi. Vì lí do nào mà mụ Templeton lại đi tìm
người làm vườn để ký vào bản di chúc trong khi bà hầu phòng vẫn ở trong nhà? Tại
sao không là bà hầu phòng?

- Không ai cho cô câu
trả lời ư, Frankie?

Bobby hỏi câu đó bằng một giọng
rất lạ lùng khiến Frankie quá đỗi ngạc nhiên.

- Khi cô ra khỏi nhà tôi ở lại
hỏi bà Pratt về tên họ của bà Gladys.

- Rồi sao nữa?

- Bà hầu phòng tên là Evans!

Báo cáo nội dung xấu