Chân dung một chàng trai trẻ - Chương IV - Phần 1
Chương IV.
Ngày
Chủ nhật là để tưởng nhớ sự linh thiêng huyền bí của Chúa Ba Ngôi. Ngày thứ Hai
là để tưởng nhớ Thánh thần. Ngày thứ Ba là để tưởng nhớ những thiên thần hộ
mệnh. Ngày thứ Tư dành cho thánh Giê-su, thứ Năm cho lễ thiêng liêng nhất trong
nhà thờ, thứ Sáu cho Chúa Giê-su thống khổ, thứ bảy cho Đức mẹ đồng trinh.
Mỗi
buổi sáng Stephen lại tự làm cho mình trở nên thiêng liêng bởi một hình ảnh
huyền bí. Một ngày của cậu bắt đầu với những đề nghị đầy quả quyết trong mọi
khoảnh khắc hay hành động tuân theo ý của Giáo hoàng quyền uy với một buổi cầu
nguyện sớm. Không khí trong lành của buổi sáng kích thích lòng mộ đạo kiên
quyết của Stephen. Mỗi khi cậu quỳ xuống cùng đám con chiêu mộ đạo, đọc theo
lời thì thầm của cha xứ trong quyển kinh đã đánh dấu, cậu thường lén nhìn người
mặc lễ phục đang đứng trong ánh sang le lói giữa hai ngọn nến, và tưởng tượng
rằng cậu đang quỳ xuống trong buổi lễ dưới hầm mộ.
Cuộc
sống thường ngày của cậu được sắp đặt trong thế giới của tôn giáo. Cậu cầu
nguyện cho các linh hồn đã lìa xác hàng trăm năm để họ được trú ngụ tại
nơi thanh thoát. Nhưng cái sự chiến thắng về tâm linh với những lần hành xác
không hoàn toàn thỏa nguyện lời cầu của cậu, bởi cậu không bao giờ biết được
phải tự trừng phạt bao nhiêu trên thế giới trần tục thì mới bù đắp được cho
những linh hồn thống khổ. Sợ hãi nếu bị vứt vào giữa ngọn lửa dưới địa ngục
trừng phạt mà chỉ khác với địa ngục thông thường ở chỗ nó không vĩnh cửu, hành
động hối cải của cậu có lẽ không lớn hơn một giọt sương đọng lại, hằng
ngày cậu chèo lái linh hồn qua những vòng tuần hoàn cầu nguyện ngày càng
tăng.
Mỗi
buổi trong ngày, phân chia bởi những gì cậu cho là nghĩa vụ và bổn phận mà
cậu phải thực hiện trong cuộc sống, đều tập trung quanh sức mạnh tâm linh.
Cuộc đời cậu có vẻ như đã được kéo về gần với sự bất diệt: mọi suy nghĩ, lời
nói, và hành động, ý thức có thể chuyển động lung linh trên thiên đường. Đôi
khi cảm giác của cậu về những ảnh hưởng trực tiếp này rõ ràng, sinh động đến
mức cậu dường như cảm giác được linh hồn mình đã hiến dâng, rõ như những ngón
tay ấn vào bàn phím của máy gửi tiền để xem số tiền chi tiêu trên thiên đường,
không giống như một con số mà giống như một cột hương trầm mỏng manh hay là một
bông hoa mảnh mai.
Vòng
tràng hạt mà cậu luôn mang theo trong túi quần để cậu có thể lầm nhầm đọc
kinh trong lúc đi bộ qua các khu phố cũng biến thành những vòng nhỏ bằng hoa
siêu thực, đến nỗi dường như không màu sắc, không mùi vị và không tên. Mỗi ngày
cậu đọc ba chương nhỏ của quyển kinh đến đến mức linh hồn cậu lớn lên mạnh
mẽ trong ba tư tưởng thần học: trung thành với Chúa trời, Người đã tạo ra cậu, hi
vọng vào Chúa Giê-su, Người đã chuộc lại lỗi lầm cho cậu, và tình yêu Chúa
thánh thần Người đã làm cậu trở nên mộ đạo. Cậu xin Đức mẹ Mary nhân danh niềm
vui, sự đau khổ và vinh quang của bà cầu nguyện cho ba vị Chúa.
Mỗi
ngày trong tuần, Stephen cầu nguyện nhiều hơn lên để một trong số bảy món quà
của Chúa thánh thần có thể đến với linh hồn cậu và mỗi ngày bảy tội lỗi trong
qua khứ có thể bị gạt bỏ. Mỗi ngày cậu cầu nguyện cho một món quà nhất định,
tin tưởng rằng nó đến với cậu, dù đôi khi cậu cảm thấy lạ rằng trí khôn, hiểu
biết và tri thức về bản chất khác nhau đến mức chúng phải được cầu nguyện tách
biệt với nhau. Dù vậy cậu tin rằng trong sự tiến bộ của linh hồn, khó khăn này
sẽ vượt qua được khi mà linh hồn tội lỗi của cậu đã được cứu rỗi khỏi sự yếu
đuối và được thoát tục bởi thánh thần. Stephen càng ngày càng tin tưởng hơn,
không còn lo lắng, bởi sự tĩnh mịch linh thiêng ẩn chứa một thế giới vô hình
của Chúa - người bênh vực, và những biểu tượng của Người là chim bồ câu và cơn
gió lớn, huyền bí, bất diệt. Vì Chúa, cha xứ tiến hành các buổi lễ cầu nguyện
mỗi năm một lần, mặc áo choàng đỏ tươi như những ngọn lửa.
Hình
tượng mà qua đó bản chất và quan hệ của Chúa Ba Ngôi được thể hiện trong
những cuốn sách thánh cậu đọc – Thượng đế trầm ngâm suy tưởng toàn bộ sự bất
diệt giống như trong một chiếc gương. Sự hoàn hảo của chúa và từ đó Cha và
Con sinh ra Chúa con và thánh thần từ bất diệt – được dễ dàng chấp nhận bởi suy
nghĩ và cảm giác của cậu vì sự uy nghi đáng kính không thể hiểu được hơn là một
lập luận đơn giản rằng Chúa thương yêu linh hồn cậu từ cõi vĩnh hằng, từ rất
lâu trước khi Stephen được sinh ra trong cõi đời này; từ rất lâu trước khi có
sự tồn tại của thế giới.
Stephen
đã nghe thấy những cái tên về những niềm đam mê của tình yêu và hận thù
tuyên bố đầy trọng thể trên vũ đài và trên bục giảng kinh. Cậu đã thấy
chúng được trình bày trang trọng trong những quyển sách và cậu đã tự hỏi tại
sao linh hồn cậu không thể cho họ ẩn náu trong bất cứ thời điểm nào hay bắt đôi
môi cậu thốt ra những cái tên đó với sự nhận thức tội lỗi. Đôi khi một chút
giận thoáng qua người cậu nhưng cậu không bao giờ để nó biến thành một thứ
cảm giác cố hữu và cậu thường cho nó bay qua như một vết lướt qua làn da. Cũng
có lúc cậu cảm thấy một chút ham muốn kì lạ nhưng rất nhỏ và tinh tế thoáng
xuyên qua người, nhưng rồi cũng bay đi nhanh để lại trong tâm trí cậu một vẻ
thờ ơ. Đó cũng là thứ tình yêu và lòng hận thù duy nhất ẩn chứa trong tâm hồn
cậu.
Cậu
không còn nghi ngờ gì về thực tế của tình yêu nữa, bởi chính Chúa cũng đã
yêu linh hồn của mình với tình yêu linh thiêng vĩnh hằng. Dần dần khi tâm hồn
cậu trưởng thành, cậu thấy cả thế giới đều tạo ra từ tình yêu và quyền lực bao
la của Chúa. Mỗi giây phút của cuộc sống trở thành một món quà linh
thiêng, dù chỉ là một chiếc lá mong manh treo trên cành cây cũng do công của
Ngài tạo thế sinh thành và cậu cần phải cảm ơn ngài về điều đó. Thế giới vật
chất này không còn tồn tại trong tâm hồn của cậu, nó chứng tỏ sự tồn tại của
sức mạnh và tình yêu của Chúa. Cậu cảm thấy sự bao trùm của Chúa lên khắp tâm
hồn cậu đến mức cậu tự hỏi cậu cần phải sống trên cõi đời này làm gì. Ý thức về
chân lí vĩnh hằng có mặt ở khắp nơi khắp chốn khiến tâm hồn cậu quay trở lại
với cầu nguyện, hành lễ, kính Chúa, hành xác, và đó là lần đầu tiên cậu thấy
một cảm giác ấm áp như một sự sống mới sinh hay sự tinh khiết của tâm hồn.
Những bức họa hay tượng trong chốn tôn nghiêm đều trở thành hình tượng tâm hồn
đang cầu nguyện trong mắt cậu, khiêm nhường và yếu đuối trước Đấng cứu thế.
Cậu
cũng đã được cảnh báo trước về nỗi nguy hiểm của sự sung sướng quá về tinh
thần và không cho phép mình được lơi là việc cầu nguyện dù chỉ là chút ít. Cậu
thà hành xác để chuộc lại quá khứ tội lỗi còn hơn là trở thành người của thánh
nhưng luôn bị đe dọa bởi nỗi nguy hiểm trên. Mỗi giác quan của cậu phải tuân
thủ theo một kỉ luật nghiêm ngặt. Để hành thị giác, cậu tự tạo cho mình
một lệ phải luôn nhìn xuống và không được liếc mắt sang phải hay trái hay nhìn
lại đằng sau khi đi trên đường. Cặp mắt cậu luôn phải tránh khi gặp ánh mắt phụ
nữ. Đôi khi cậu phải kìm nén cái nhìn một cách đột ngột, ngước mắt nhìn
lên khi đang đọc dở câu kinh và đóng quyển kinh lại. Để hành thính giác, cậu
gào đến vỡ cả giọng và không bao giờ hát hay huýt sáo, và không bao
giờ tránh né những âm thanh kinh khủng như tiếng dao sắc lướt trên bàn hay
tiếng thảm bị xé. Tra tấn khứu giác khó hơn vì cậu không ngại thứ mùi khó chịu
nào cả, kể cả ở bên ngoài như phân hay mùi của chính cậu, và cậu cũng thường so
sánh và thử nghiệm các mùi này với nhau. Cuối cùng thì cậu cũng tìm được
một thứ mùi mà mũi của cậu có phản ứng, đấy là mùi của một loại cá
giống hệt mùi nước tiểu để lâu ngày. Mỗi khi có dịp cậu lại cố tình hít cái mùi
này. Để hành vị giác, cậu luôn lập cho mình thói quen nghiêm ngặt khi ngồi vào
bàn ăn, thực hiện những buổi nhịn ăn ở nhà thờ và lôi kéo tâm trí ra khỏi các
loại thức ăn. Nhưng để tra tấn xúc giác cậu phải vận dụng tất cả sự sáng tạo.
Cậu không bao giờ đổi tư thế nằm trên giường, ngồi trong tư thế khó chịu nhất,
chịu đựng ngứa ngáy và đau đớn, không dùng lò sưởi, quỳ gối trong suốt buổi lễ,
mặc kệ cho mồ hôi ướt đầm cổ để cho ngứa ngáy, khi không đọc kinh trong khi lần
tràng hạt thì kẹp chặt hai tay vào nách không cử động.
Đến
khi Stephen kết thúc một đợt cầu nguyện và hành xác, cậu rất ngạc nhiên khi
thấy mình dễ bị thương tổn bởi những khiếm khuyết hết sức trẻ con và không
đáng. Những lời cầu nguyện và đợt tuyệt thực không giúp cậu đè nén cơn
giận khi mẹ cậu hắt hơi hay có ai làm ngắt quãng buổi cầu nguyện của cậu.
Cậu còn phải cố gắng nhiều để kiềm chế được những cơn bực bội như thế. Khi so
sánh với những người thầy của mình kìm nén các cơn giận, mặt đỏ tía tai,
môi rung lên, cậu thấy hơi nản chí. Để hòa nhập với dòng chảy cuộc sống luôn
tiếp diễn còn khó hơn những tuyệt thực hay cầu nguyện, và cậu luôn không
cảm thấy hài lòng với chính mình, nó làm tâm hồn cậu thấy khô khan và nảy sinh
hoài nghi. Tâm hồn cậu trải qua một thời kì trống rỗng và những buổi lễ
đều trở nên khô khan. Lời xưng tội của cậu bị biến thành lối thoát cho những
khiếm khuyết dù là nhỏ nhất. Những buỗi lễ cậu tham gia không mang đến cho
cậu cảm giác bị thu phục như những lần cậu đến thánh đường thiêng liêng nhất.
Cuốn sách cậu dùng trong những viếng thăm này là một cuốn sách cổ đã bị lãng
quên do thánh Alphonsus Liguori viết, nét chữ đã mờ. Đọc cuốn sách này
làm cậu thấy như sống lại một thế giới tình yêu đã tàn. Một giọng nói
hư vô ve vuốt tâm hồn với những cái tên và câu chuyện, nâng tâm hồn lên từ
những ngọn núi sư tử, và tâm hồn đáp lại với một giọng nói vô thanh như vậy rồi
đầu hàng: Sẽ nằm trên ngực của ta.
Ý
tưởng đầu hàng này đã lôi cuốn tâm trí của cậu khi tâm hồn cậu bị mê hoặc bởi
giọng tha thiết của thể xác thì thầm trong khi cậu đang cầu nguyện và thiền
định. Nó mạnh đến mức cậu có cảm giác trong một giây lát, một tia hành động hay
ý nghĩ cũng có thể làm hỏng tất cả những gì cậu đạt được. Cậu cảm thấy như
có một dòng nước đang dâng lên dưới đôi chân trần của cậu, chỉ trực chờ cậu ngã
xuống để vuốt ve da thịt nóng bỏng của cậu. Vào đúng lúc đó khi cậu sắp
ngã gục trước tội lỗi thì cậu lại thấy mình đứng trên một bờ đất khô, cậu
vừa được lí trí cứu thoát và dòng nước ngày một xa và rồi lại quay trở lại ve
vãn chân cậu. Một sức mạnh lí trí và mãn nguyện lắc mạnh tâm hồn cậu và cậu vẫn
chưa đạt được gì, cũng chưa làm hỏng gì.
Sau
khi đã nhiều lần khước từ những cơn cám dỗ, Stephen cảm thấy mình rơi vào một
mớ bòng bong và tự hỏi liệu sự cao thượng mà cậu không muốn đánh
mất có dần dần bị tước đi không. Không có gì là chắc chắn cả. Phải khó
khăn lắm cậu mới quay lại được ý thức về sự cao thượng của mình, rằng cậu
đều cầu Chúa trong mỗi cơn cám dỗ và Chúa ắt phải ban cho cậu sự cao thượng mà
cậu ước. Tần suất và cường độ của các cơn cám dỗ ít nhất cũng cho cậu thấy
những điều tai nghe về sự thử thách của các thánh. Những cơn cám dỗ đó cũng
chứng minh rằng bức tường thành của tâm hồn không hề bị đổ và cái xấu luôn cố
tình hãm hại nó.
Thường
thường sau khi cậu thú nhận sự nghi ngờ và lưỡng lự - lơ đễnh trong khi cầu
nguyện, một cử động của sự giận dữ nhỏ nhen của tâm hồn, hay là một
sự bướng bỉnh không dễ nhận ra trong lời nói và hành động – cậu phải
nghe lệnh của giáo sĩ xưng tội và phải kể hết các tội lỗi phạm phải trong
quá khứ rồi giáo sĩ tuyên bố rằng các tội đã được tha thứ. Stephen kể
tội trong sự xấu hổ và tủi nhục và một lần nữa cảm thấy ăn năn. Nó làm bẽ
mặt và làm ô danh cậu khi nghĩ rằng cậu sẽ không bao giờ được hoàn toàn vô tội,
cho dù cậu có thể sống thiêng liêng như thế nào hay có bất cứ đức tính tốt hay
sự hoàn thiện nào. Một cảm giác không ngừng nghỉ về tội lỗi sẽ luôn hiện hữu
trong cậu: cậu sẽ xưng tội, ăn năn hối lỗi và sẽ được xá tội; xưng tội và ăn
năn hối lỗi và sẽ được xá tội một lần nữa! Vô ích. Có lẽ lần xưng tội quá vội
vàng bởi nỗi sợ kinh hoàng về địa ngục không được thực hiện tốt? Có thể vì lo
đến số phận bất hạnh sắp xảy ra với cậu nên cậu chưa thực sự đau buồn vì
tội lỗi? Nhưng Stephen biết biểu hiện chắc chắn nhất chứng minh rằng sự
xưng tội của cậu thực hiện tốt và cậu thực sự hối hận vì tội lỗi đã gây ra
chính là những thay đổi trong cuộc sống của cậu.
-
Ta đã cải thiện cuộc đời ta chưa nhỉ? - Stephen hỏi chính mình.
*
* * * * *

