Chân dung một chàng trai trẻ - Chương V - Phần 1

Chương V.

Stephen
uống cạn cốc nước chè thứ ba và bắt đầu nhai những mẩu bánh mì khô nằm rải
rác xung quanh cậu, mắt nhìn chằm chằm vào chiếc bình đựng nước màu đen. Những
giọt nước màu vàng đang được múc ra như một hố nước và bình đựng thì trông
giống vũng nước. Hình ảnh này làm cậu nhớ lại kí ức về nước bẩn đen đen trong
nhà tắm tại trường Clongowes. Cạnh khuỷu tay cậu có một chiếc hộp đựng các
phiếu cầm đồ đã bị lục ra và cậu vẩn vơ cầm lên bằng những ngón tay dính mỡ hết
tờ này đến tờ khác những tờ giấy ghi chép xanh và trắng có các nét chữ nguệch
ngoạc nhàu nát ghi những cái tên của người đi cầm đồ như Dali hay MacEvoy.

Một
đôi giày ống.

Một
áo bành tô của đàn ông.

Ba
đồ lặt vặt và mảnh vải trắng.

Một
quần của đàn ông.

Sau
đó Stephen đặt chúng sang một bên, trầm ngâm nhìn nắp của chiếc hộp có những
đốm lằn nhỏ, và lơ đãng hỏi:

-
Bây giờ đồng hồ chạy nhanh mức độ nào nhỉ?

Mẹ
cậu thường đặt hẹn giờ chiếc đồng hồ báo thức chạy bằng pin hiện đang nằm
nghiêng trên bệ lò sưởi cho tới khi kim đồng hồ chỉ mười hai giờ kém mười lăm
phút và sau đó đặt lại vị trí cũ.

-
Đã một tiếng hai mươi lăm phút trôi qua, mẹ cậu nói. Bây giờ là mười giờ hai
mươi phút. Con trai bé bỏng, con cố gắng dậy và đến giảng đường đúng giờ
đấy nhé.

-
Đổ đầy nước để cho con tắm nhé! - Stephen nói.

-
Katey, đổ đầy nước để cho anh Stephen tắm nhé.

-
Boody, đổ đầy nước để cho anh Stephen tắm nhé.

-
Không được! Em đang bận rất bận. Maggy! Đổ đầy nước để cho anh Stephen tắm nhé!


khi chiếc bồn sứ đã được đổ đầy nước và đôi găng tay giặt quần áo cũ đặt bên
cạnh bồn nước, Stephen để cho mẹ cậu cọ rửa cổ mình và luồn tay vào các hốc tai
và lỗ mũi.

-
Thế đấy! Một trường hợp hi hữu - mẹ cậu nói, - khi một sinh viên đại học bẩn
thỉu đến nỗi phải để mẹ tắm cho.

-
Nhưng nó làm mẹ cảm thấy vui và hạnh phúc, - Stephen điềm tĩnh nói.

Một
tiếng huýt sáo chói tai vang lên từ trên lầu và mẹ cậu dúi mạnh chiếc khăn tắm
âm ẩm vào tay cậu và nói:

-
Lau người đi và nhanh chóng đi đến trường học những điều hay lẽ phải.

Lại
một cái huýt sáo chói tai khác vang lên kéo dài và giận dữ.

-
Được rồi, cha ạ?

-
Thằng anh chó cái lười nhác của mày đã đi học chưa?

-
Rồi, cha ạ.

-
Chắc chắn chứ?

-
Vâng, cha ạ.

-
Hừm!


em gái quay trở lại, ra hiệu cho Stephen nhanh chóng và nhẹ nhàng đi ra khỏi
nhà bằng cửa hậu. Stephen cười to và nói:

-
Cha đúng là có ý tưởng kì lạ về vấn đề giới tính nếu ông ấy nghĩ rằng con chó
cái là một thằng đàn ông.

-
Ôi chao, thật là một điều thật sự bất kính đáng hổ thẹn, Stephen ạ - mẹ cậu
nói, - và con sẽ cảm thấy hối hận khi đã quyết định bước chân vào trường Đại học.
Mẹ biết rằng nó đã thay đổi con rất nhiều.

-
Chúc cả nhà một buổi sáng tốt lành - Stephen nói, mỉm cười và giơ những ngón
tay hôn gió ra hiệu chào tạm biệt.

Con
đường nhỏ đằng sau các dãy nhà ngập nước. Stephen nhẹ nhàng cẩn trọng đặt chân
xuống giữa những bãi rác trên đường. Cậu nghe thấy tiếng một bà xơ điên la
hét trong nhà thương điên phía bên kia của bức tường.

-
Đức Chúa Giê-su! Ôi Đức Chúa Giê-su!

Stephen
giũ sạch tiếng kêu đó ra khỏi tai mình bằng cách bực bội hất đầu lên, vội vàng
bước tiếp và loạng choạng băng qua những đống rác trên đường. Trái tim cậu đau
nhói bởi những việc lộn xộn xảy ra xung quanh và trong chính ngôi nhà mình.
Stephen cảm thấy ghê tởm và khinh ghét cái nơi cậu đang sống: Tiếng huýt sáo
của cha cậu, những lời trách móc của mẹ cậu, quá nhiều tiếng gào thét gàn dở
bên kia bức tường mà cậu không nhìn thấy được ai là tác giả giống như
những tiếng nói hăm dọa xúc phạm và hạ thấp niềm hãnh diện về tuổi trẻ của
cậu. Stephen chửi rủa và đẩy những tiếng vang của chúng ra khỏi trái tim cậu.
Khi cậu đi xuống đại lộ và cảm nhận được ánh sáng xám mờ của buổi sáng đang
tràn lên người mình, xuyên qua những tán lá cây còn đọng những giọt nước
và Stephen cũng ngửi thấy mùi của lá cây ướt và vỏ cây. Tâm hồn cậu trĩu nặng
bởi cuộc sống nghèo khổ tồi tàn.

Những
cành cây nặng trĩu bởi nước mưa trên đại lộ luôn gợi lên những kí ức trong tâm
trí cậu. Như thường lệ là kí ức về các cô gái, những người phụ nữ
trong các vở kịch của Gerhart Hauptmann; kí ức về những nỗi đau u uất của
họ và mùi thơm ngát rơi xuống từ những tán lá còn ướt trộn lẫn với một niềm vui
trầm lắng. Buổi sáng dạo quanh thành phố đã bắt đầu, Stephen biết trước rằng
khi băng qua khu vực bẩn thỉu ở Fairview cậu sẽ nghĩ về bài tụng ca tu viện của
Newman. Rồi khi cậu bước dọc theo phố North Strand, vẩn vơ nhìn vào cửa sổ các
cửa hàng thực phẩm, cậu sẽ nhớ lại sự hài hước cay độc của Guido Cavalcanti và
mỉm cười bởi những sản phẩm khắc bằng đá của Baird ở quảng trường Talbot;
tinh thần của Ibsen sẽ thổi qua cậu như một cơn gió buốt thấu xương, cái hay
trong sự ương ngạnh và tính khí bất thường của trẻ con; băng qua một cửa hàng
bán đồ biển, băng qua đại lộ Liffey cậu sẽ hát lại bài hát của Ben Jonson, nó
bắt đầu như sau:

Tôi
không cảm thấy buồn tẻ hơn ở nơi tôi đang nằm nghỉ.

Tâm
trí cậu mệt mỏi trong sự tìm kiếm bản chất của cái đẹp trong tư tưởng của
Aristotle và Aquinas rồi thường xuyên chuyển sang thích thú về trong những bài
hát thanh nhã dưới triều đại của nữ hoàng Elizabet. Tâm trí cậu, trong vỏ bọc
của một thầy dòng ngờ vực thường đứng dưới bóng những ô cửa sổ trong thời đại
đó để nghe tiếng nhạc nhạo báng của người chơi đàn luýt hay nghe tiếng cười
sảng khoái của gái điếm cho đến khi tiếng cười đó nhẹ dần thành một đoản khúc
tan biến theo thời gian, của lòng tự trọng sai lệch bị nhốt kín làm nhức nhối
niềm tự hào thầy dòng của cậu và kéo cậu ra khỏi nơi ẩn náu.

Toàn
bộ sự hiểu biết và truyền thuyết mà cậu tin tưởng và hằng ngày say mê nghiền
ngẫm đến mức cậu không để ý quan tâm đến các mối quan hệ bạn bè của
tuổi thanh xuân. Chỉ là phần nhỏ trong những câu châm ngôn của Aristotle
về thư pháp và tâm lí học và một bản tóm tắt học thuyết triết học tìm hiểu về
thánh Thomas. Sự suy nghĩ của cậu là bóng tối nhập nhòa hoài nghi không niềm
tin, sáng loè trong những phút chốc nhờ khả những chớp sáng của khả năng trực
giác xuất hiện. Nhưng chớp sáng ấy chói lọi đến mức trong phút chốc, thế
giới bị tàn lụi xung quanh chân cậu như bị lửa đốt. Rồi sau đó lưỡi của cậu trở
nên thật nặng nề và cậu bắt gặp những ánh mắt thiếu thiện chí của những
người khác do cậu cảm thấy tinh thần của cái đẹp đã trùm lên cậu giống như một
chiếc áo choàng và trong sự mơ mộng ít nhất cậu đã được làm quen với sự thanh
cao. Nhưng khi niềm tự hào ngắn ngủi trong im lặng ấy không còn nữa trong cậu,
cậu vui mừng khi tìm thấy chính mình vẫn còn ở giữa cuộc sống cộng đồng, tiếp
tục không e sợ đi qua sự bẩn thỉu, ầm ĩ của thành phố với một trái tim bừng
sáng

Bên
cạnh hàng rào công trường ở ven con kênh, cậu bắt gặp một người đàn ông mắc
bệnh lao phổi có khuôn mặt như búp bê và chiếc mũ không vành đi về phía
cậu thẳng xuống sườn dốc dưới cầu, với những bước đi ngắn, cài chặt khuy
chiếc áo choàng màu sô-cô-la và gập chiếc ô lại một gang hay hai gang tay
giống như chiếc gậy chỉ đường. Bây giờ chắc là mười một giờ, cậu
ngẫm nghĩ, nhìn chăm chú vào thời khóa biểu để xem giờ học. Chiếc đồng hồ
trong nhật kí nói với cậu rằng bây giờ là năm giờ kém năm nhưng khi cậu vừa
quay mặt trở lại, cậu nghe thấy tiếng chuông đồng hồ đâu đó gần chỗ cậu điểm
mười một tiếng rõ ràng chính xác sau mỗi khoảng thời gian bằng nhau nhưng
Stephen không biết tiếng chuông đồng hồ này từ đâu đến. Cậu cười to khi nghe
thấy tiếng chuông này vì nó làm cậu nghĩ đến McCann. Và Stephen nhìn thấy
McCann, một thằng béo lùn mập trong chiếc áo thể thao và chiếc quần ống
túm cùng với một chùm râu dê gian xảo, đang đứng hóng gió tại góc phố Hopkins.
McCann nói:

-
Stephen, mày là một thằng bất mãn xã hội, thu mình vào trong vỏ ốc. Còn tao thì
không như vậy. Tao là người theo chế độ dân chủ và tao sẽ làm việc và
đấu tranh cho một xã hội tự do và bình đẳng trong mọi tầng lớp, mọi giới
tính cho mọi quốc gia của châu Âu trong tương lai.

Mười
một giờ! Thế là Stephen lại muộn học. Hôm này là thứ mấy nhỉ? Cậu dừng lại một
hãng tin tức và đọc những dòng tít của áp phích cổ động. Thứ Năm. Mười giờ đến
mười một giờ: tiếng Anh; mười một giờ đến mười hai giờ: tiếng Pháp; mười hai
giờ đến một giờ: vật lí. Stephen cảm thấy rất thích thú với giờ học tiếng
Anh và cảm nhận thấy bồn chồn áy náy và vô dụng, thậm chí ở khoảng cách
đó. Stephen nhìn thấy những cái đầu của các bạn cùng lớp cúi xuống ghi
chép trong vở ghi những điểm quan trọng cần phải ghi chú, những định nghĩa
cần thiết, và các thí dụ hoặc ngày sinh ngày mất, những tác phẩm quan trọng,
phê bình ủng hộ hay phản biện. Đầu cậu không cúi xuống khi suy tưởng mông
lung. Cậu nhìn xung quanh một lớp học nhỏ ít sinh viên hay nhìn ra ngoài cửa sổ
băng qua những khu vườn hoang vắng bốc lên những mùi hôi thối như mùi xác
chết để lâu. Một cái đầu nữa, ngay đằng trước, trên hàng ghế đầu tiên, ở
tư thế đối diện trực tiếp với cái đầu đang cúi xuống giống như cái đầu của linh
mục kiêu hãnh đọc lời tuyên bố trước hòm thánh đối với những người
cầu nguyện xung quanh ông ta. Tại sao lại vậy khi nghĩ về Cranli? Tại
sao Stephen sẽ không bao giờ dựng lên được trước mắt mình toàn bộ hình dáng của
cơ thể của Cranli, chỉ là cái đầu và khuôn mặt nó? Ngay cả bây giờ, trước
khung cảnh xám xịt của buổi sáng, Stephen nhìn thấy nó trước mặt cậu giống như
một bóng ma trong giấc mơ, khuôn mặt của cái đầu xấu xí hay là khuôn nắn từ mặt
người chết. Đó là khuôn mặt của một cha xứ, giống cha xứ: một chiếc mũi có
cánh mũi rộng, đôi môi dày tái nhợt và nụ cười uể oải. Rồi cậu ngay lập tức nhớ
lại cậu đã nói như thế nào với Cranli về mọi sự băn khoăn, lo âu và niềm
ham muốn mãnh liệt trong tâm hồn cậu, ngày này qua ngày khác, đêm này qua đêm
khác, và cậu chỉ nhận được sự trả lời bằng sự im lặng lắng nghe của cậu ta. Cậu
sẽ tự nói với mình đó là khuôn mặt của một linh mục tội lỗi. Ông ta lắng nghe
những lời xưng tội của người khác, những người mà ông ta không có quyền tuyên
bố tha thứ. Nhưng điều đó làm cậu lại cảm thấy trong kí ức cậu xuất hiện một
cái nhìn chằm chằm từ đôi mắt đen nhánh của một phụ nữ.

Qua
hình ảnh đó, Stephen có một ý niệm mơ hồ khám phá về một hang động tối tăm đầy
suy đoán nhưng rồi ý niệm đó ngay lập tức biến mất. Cậu cảm giác đó chưa phải
là lúc để bước vào trong. Nhưng bóng tối với sự bơ phờ của người bạn cậu xem ra
lan tỏa trong không gian quanh cậu một luồng hơi mỏng manh chết chóc. Cậu thấy
bản thân mình tình cờ liếc nhìn hết con chữ này sang con chữ khác bên phải hay
bên trái cậu rồi dửng dưng tự hỏi tại sao chúng bỗng chốc lại tạo ra cảm giác
im lặng trống rỗng đến như vậy. Cho đến khi tất cả truyền thuyết quay trở lại
tâm trí cậu giống như những con chữ được đánh vần và linh hồn cậu co thắt lại,
thở dài với tuổi tác khi tiếp tục bước trên một nhánh nhỏ của đống ngôn
ngữ chết chóc. Ý thức của chính Stephen về ngôn ngữ trở nên yếu dần đi và dần
dần lộ ra chính những từ thực sự mà chúng bắt đầu kết hợp tán loạn trong những
nhịp điệu bất thường:

Cây
thường xuân rên rỉ trên bức tường, Và kêu rên cuộn xoắn lấy bức tường,

Cây
thường xuân vàng bò trên bức tường,

Cây
thường xuân, thường xuân cuộn xoắn trên tường.


ai đã từng nghe những câu nói ngớ ngẩn đó không? Lạy Chúa toàn năng! Ai đã từng
nghe cây thường xuân kêu rên trên bức tường? Cây thường xuân vàng; không
có vấn đề gì. Cả cây thường xuân vàng nữa. Thế còn cây thường xuân trắng như
ngà voi thì sao nhỉ?

Bây
giờ từ đó nổi lên trong óc Stephen, rõ ràng hơn và sáng sủa hơn cả ngà voi được
cưa ra từ chiếc răng nanh của những con voi. “Ngà voi, ngà voi,
ngà voi, ngà voi” trong tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Italia, và tiếng
La-tinh đều có từ ngà voi. Một trong những ví dụ đầu tiên mà cậu được học bằng
tiếng La-tinh là: “Người Ấn độ xuất khẩu ngà voi.” Và Stephen nhớ lại khuôn mặt
vẻ miền bắc chua ngoa của thầy hiệu trưởng người đã dạy cậu phân tích về phép
biến thái Ovid trong tiếng Anh lịch sự, gây ra một sự kì quái khi nói đến thịt
lợn, thịt bụng, và thịt thăn hun khói. Stephen đã được học một chút ít về
cấu trúc câu trong tiếng La-tinh từ một quyển sách nhỏ của một linh mục người
Bồ Đào Nha viết rằng.

Những
nhà hùng biện tổng kết, những nhà thơ biến tướng các câu thơ.

Những
cơn khủng hoảng, sự chiến thắng và sự li khai trong lịch sử La Mã cổ đại được
truyền sang cho Stephen trong vài từ nhàm chán: trong cơn khủng hoảng to lớn
như thế. Và cậu đã cố gắng quan sát kĩ trong đời sống xã hội của thành phố của
những thành phố trên khắp thế giới thông qua câu “hãy bỏ đầy xu vào chiếc
bình” mà thầy hiệu trưởng đã diễn tả một cách sinh động. Những trang sách bị hư
mòn vì thời gian của Horace chẳng bao giờ cảm thấy lạnh khi bị sờ vào ngay cả
khi những ngón tay của cậu đang lạnh buốt. Chúng là những trang sách của nhân
loại và năm mươi năm trước đó, chúng đã được những ngón tay của John
Duncan Inverarity và em trai ông ta William Malcolm Inverarity lật giở. Đúng
vậy, đó là những cái tên quý phái trên những trang bỏ trống mờ xỉn ở phần đầu
cuốn sách. Thậm chí với những nhà nghiên cứu tiếng La-tinh dốt nát như Stephen,
những câu thơ mờ đục vẫn ngát hương như thể chúng được đặt trong những cây mía,
hoa oải hương, và cỏ roi ngựa trong suốt những tháng năm đó. Nhưng chúng làm cậu
bị tổn thương khi nghĩ rằng cậu sẽ không bao giờ là một người như mong
muốn nhưng là một vị khách bẽn lẽn trong bữa tiệc về văn hóa thế giới và
rằng những kiến thức của thầy tu dưới dạng thức mà cậu đang tiến đến một
triết lí mĩ học. Những kiến thức của thầy tu đó không được phát triển thêm nữa
trước thời đại cậu sống.

Tảng
đá xám tạc Chúa Ba ngôi bên trái cậu được đặt nặng nề trong sự ngu dốt của
thành phố giống như một tảng đá vô tri vô giác đặt trong một vòng tròn cồng
kềnh. Hình ảnh này làm tâm trí cậu chìm xuống và trong khi cậu đang cố gắng đi
theo con đường này để bàn chân cậu thoát khỏi xiềng xích của lương tâm
cách tân. Stephen đến gần bức tượng kì quặc của thi sĩ dân tộc đất nước
Ireland.

Stephen
nhìn bức tượng ấy không một chút giận dữ vì mặc dù sự uể oải của cơ thể và của
linh hồn trườn qua nó giống như bọn sâu mọt vô hình, qua bàn chân nặng
nề và ngược lên những nếp gấp của chiếc áo choàng và xung quanh cái đầu
hèn hạ, mà xem ra nó là một ý thức khiêm nhường của sự làm nhục. Nó là một Firbolg
trong chiếc áo choàng mượn tạm của Milesian. Rồi cậu nghĩ về một người bạn khác
của cậu - Davin, một sinh viên quê mùa. Có một sự đùa giỡn giữa họ với những
cái tên, nhưng chàng nông dân nghèo trẻ trung nhẹ nhàng chịu đựng nói:

-
Tiếp tục đi Stevie! Táo có một cái đầu bướng bỉnh. Cậu có thể nói bất cứ
điều gì cậu muốn. Không quan trọng đối với tớ.

Qua
những cái môi của người bạn mình, cái tên giản dị của người theo đạo Cơ
đốc thân mật chạm vào Stephen lần đầu tiên được nghe khi cậu nói chuyện một
cách trang trọng với những người bạn khác. Cậu thường ngồi trong phòng của
Davin ở phố Granthman, lơ đãng nhìn những đôi ủng được khâu cẩn thận của
những người bạn cậu nằm trên tường từng cặp từng cặp một và nhắc lại
những câu thơ cho những đôi tai đơn giản của các bạn cậu và những ngữ điệu
của những câu khác là những tấm mạng trùm lên lòng ham muốn mãnh liệt và tâm
trạng chán nản của chính cậu. Tâm hồn thô lỗ của Firbolg và của những
thính giả của cậu làm tâm hồn cậu đi theo rồi hất nó quay trở lại một lần nữa,
rồi lại kéo nó về bằng một quãng ngắt kì quặc gây nên một sự chú ý lịch sự
của một bài nói tiếng Anh cổ lỗ, hay bằng một sức mạnh của niềm vui sướng
trong những tâm hồn khéo léo. Davin ngồi xuống chân của Michael Cusack,
người Ireland – ngay lập tức và bất ngờ phản kháng do khả năng hiểu biết rộng
hay do cảm giác thẳng thắn hay do cái nhìn thẫn thờ lo sợ nằm trong đôi mắt,
một nỗi khiếp sợ của linh hồn của ngôi làng Ireland đói kém mà ở đó lệnh giới
nghiêm vẫn là nỗi sợ hãi về đêm.

Sát
cánh cùng với kí ức về những hành động dũng cảm của bác Mat Davin, một lực
sĩ, chàng nông dân tôn thờ huyền thoại buồn bã của Ireland. Những câu
chuyện tầm phào của đám bạn sinh viên cố gắng diễn tả lại một cuộc
sống tẻ nhạt của trường học với bất kì giá nào lại rất thích nghĩ về chàng như
một thanh niên từ miền Đông đến. Bà bảo mẫu của cậu đã dạy cậu tiếng Ireland và
hình thành trong tâm trí cậu óc tưởng tưởng đơn sơ về những hiểu biết về
thần thoại Ireland. Cậu đứng về phía thần thoại mà ở đó không có tâm hồn
riêng về một khía cạnh nào của cái đẹp và về những câu chuyện dài rắc rối
đã thần thánh hóachúng lên như khi chúng mô tả theo chu kì với cùng một thái độ
ứng xử theo Công giáo La Mã, thái độ của một nông nô hoàng gia láu cá. Bất cứ
suy nghĩ hay cảm giác gì đến với cậu từ nước Anh hay thông qua văn hóa Anh, thì
tư tưởng của cậu vẫn chống lại việc tuân theo một khẩu lệnh: Và ở thế giới bên
ngoài nước Anh, cậu chỉ biết đội lính lê dương của Pháp mà cậu muốn được tham
quan.

Kết
hợp giữa tham vọng này với sự hóm hỉnh của một thanh niên trẻ tuổi, Stephen
thường gọi anh chàng này là một trong những con ngỗng thuần hoá.

Vào
một đêm nọ, sự hăng hái nhiệt tình của chàng nông dân bị kích thích bởi
thứ ngôn ngữ quá khích hay quá bóng bẩy mà nhờ đó Stephen thoát khỏi sự im lặng
lạnh lẽo của một sự nổi loạn tri thức, và thứ ngôn ngữ đó cũng đã gợi lên một
ảo tượng khác lạ trong tâm trí Stephen. Cả hai đang chậm chạp bước về phía căn
phòng của Davin qua những con phố tối tăm, chật hẹp của những người Do Thái bần
cùng.

-
Stevie à! Cuối thu và đầu đồng năm ngoái, một việc xảy ra với tớ và tớ cũng
chưa nói với ai cả, cậu là thằng đầu tiên mà tớ kể đấy. Tớ không nhớ rõ là
tháng mười hay tháng mười một. Tháng mười, vì nó xảy ra trước khi mình
bước vào trường đại học.

Stephen
quay sang nhìn bạn mình với đôi mắt biết cười được tôn lên thêm bởi sự tự
tin của cậu và nhận được nhiều sự đồng cảm với giọng nói nhẹ nhàng
khiêm nhường của người nói.

-
Cả ngày hôm đó tớ không ở chỗ của tớ tại Buttevant ngày. Chẳng biết cậu có
biết Buttevant ở đâu không? Tớ xem trận bóng gậy giữa hai đội Những Chàng
trai xứ Croke và đội Thurles. Không biết sợ, Chúa ơi! Stevie! Đó là một trận
đấu nghẹt thở. Fonsy Davin, anh họ tớ bị ngã trầy cả da nhưng anh ấy vẫn xông
lên cùng các tiền đạo trong hiệp hai và quát tháo như một thằng điên. Tớ sẽ
không bao giờ quên được ngày hôm đó. Một cầu thủ đội Crokes vụt quả bóng ngay
trước mặt anh ấy và tớ thề trước Chúa là anh ấy nằm trong tầm giao bóng và trái
bóng lướt qua thái dương anh ấy. Ôi! Có chúa chứng giám, nếu như trái bóng
đi vào đầu chắc là anh ấy toi mất.

-
Tớ rất mừng là anh ấy đã thoát được, - Stephen nói và cười lớn, - nhưng chắc
chắn đó không phải là một điều gì đó lạ lẫm đến với cậu?

-
Đúng vậy, tớ nghĩ rằng chuyện đó không làm cậu quan tâm đến nhưng ít ra là
những tiếng ầm ào sau trận đấu làm cho tớ lỡ chuyến tàu trở về nhà và tớ không
có may mắn được đi nhờ xe của bất cứ ai cả cứ như tớ đang gặp vận đen. Ngày hôm
đó, có một buổi cầu nguyện ở Castletownroche và toàn bộ xe của cả nước đều
ở đó. Thế nên, không còn cách nào khác, tớ hoặc là ở đó hoặc phải đi lang thang
khỏi nơi đó để tìm chỗ ngủ. Rồi tớ bắt đầu đi và khi đến chân đồi Ballihoura
thì trời tối, còn hơn mười dặm nữa mới đến Kilmallock mà đường thì rất
vắng. Không thấy tu viện Cơ đốc giáo nào trên đường đi và cũng không nghe thấy
một âm thanh nào cả. Trời tối đen như mực. Cuối cùng, sau khi qua chỗ rẽ bên
đường, tớ nhìn thấy một căn nhà tranh nhỏ và ánh sáng hắt ra từ cửa sổ. Tớ
tiến đến và gõ cửa. Một giọng nói cất lên hỏi tớ từ đâu đến và tớ trả lời
rằng tớ vừa xem trận đấu ở Buttenvant và đang đi bộ về nhà. Tớ hỏi xin một cốc
nước để uống cho đỡ khát. Một lát sau, một phụ nữ trẻ mở cửa và mang cho tớ một
ca sữa to. Cô ấy trong bộ đồ ngủ ngắn cũn như thể đang chuẩn bị lên giường ngủ.
Khi cô ấy ra mở cửa, tóc cô ấy đang xõa xuống và tớ nhận ra rằng cô ấy đang
mang thai. Cô ấy nói chuyện với tớ một hồi lâu ở cửa nhà và tớ lấy làm
ngạc nhiên vì khi đó ngực và vai cô ấy gần như lộ hết ra ngoài. Cô ấy hỏi tớ có
mệt không và có muốn ngủ lại đó một đêm không? Cô ấy nói rằng chỉ có một mình
cô ở trong nhà vì buổi sáng chồng cô đã đi tiễn em gái ở thị trấn Nữ hoàng.
Stephen à! Và trong suốt thời gian nói chuyện, mắt cô ấy không dời mặt tớ và cô
ấy tiến lại sát tớ hơn nữa đến mức tớ có thể nghe thấy tiếng thở của cô ấy. Khi
tớ trả lại cái ca, cô ấy nắm lấy tay tớ và kéo tớ qua ngưỡng cửa ngôi nhà và
nói: “Vào nhà và ngủ lại ở đây đêm nay nhé! Anh không phải ngại đâu. Chẳng có
ai ở đây cả ngoài chúng ta…” Tớ quyết định không vào. Tớ cảm ơn cô ấy và tiếp
tục đi trong tâm trạng bồn chồn. Tại chỗ rẽ đầu tiên trên đường, mình quay
lại nhìn và vẫn thấy cô ấy ta đang đứng ở cửa.

Những
lời cuối cùng trong câu chuyện của Davin vang lên trong kí ức Stephen và hình
ảnh của người phụ nữ trong câu chuyện làm cậu nhớ lại những người phụ
nữ ở nông thôn đứng trước cửa nhà mà cậu đã từng nhìn thấy ở Clane khi
chiếc xe buýt chở học sinh băng qua, giống như một linh hồn đánh thức ý thức
của chính nó trong bóng tối, kín đáo và cô đơn biểu hiện bởi đôi mắt, giọng
nói, cử chỉ của một phụ nữ không dùng mưu mẹo, mời gọi người lạ lên giường.

Một
bàn tay đặt lên cánh tay cậu và một giọng nói trẻ trung kêu lên:

-
Chà! Anh chàng hào hoa. Mua cho bạn gái của anh đây. Anh ơi! Mở hàng cho em đi
anh! Anh mua bó hoa xinh đẹp này nhé?

Những
bông hoa màu xanh được giơ lên trước mặt cậu và đôi mắt xanh trẻ trung của cô
ta nhìn Stephen thật ngây thơ trong trắng. Cậu dừng lại cho đến khi hình ảnh đó
biến mất và cậu chỉ nhìn thấy một bộ quần áo rách rưới, mái tóc rối bù và một
khuôn mặt lanh chanh.

-
Mua đi anh! Cho bạn gái xinh đẹp của anh mà!

- Nhưng anh không có tiền - Stephen nói.

-
Anh mua mấy bông tuyệt đẹp này nhé? Chỉ một xu thôi!

-
Em có nghe thấy anh nói gì không? - Stephen hỏi, hướng thẳng về phía cô ấy. -
Anh nói là anh không có tiền. Bây giờ anh nói lại cho em một lần nữa nhé!

-
Ồ, không sao! Chắc chắn một ngày nào đó anh sẽ có tiền. Chúa phù hộ anh - cô
gái trả lời ngay lập tức.

-
Có thể - Stephen trả lời. - Nhưng anh không nghĩ là sẽ có tiền trong tương lai.

Cậu
vội vàng rời khỏi cô gái bán hoa, sợ lời mời chào thân mật chuyển thành những
lời mắng nhiếc, chửi rủa. Cậu ước được thoát khỏi con đường này trước khi cô ta
chào mời một người khách khác: một người đi du lịch từ Anh sang hay một sinh
viên của trường Chúa Ba Ngôi. Phố Grafton, nơi Stephen đi bộ, kéo dài cái
khoảng khắc túng quẫn chán nản. Ở đầu đường, một phiến đá được dựng lên để
tưởng nhớ Wolfe Tone và cậu nhớ lại rằng cha cậu và cậu đã từng ở đây. Cậu cay
đắng nhớ lại cảnh tượng phô trương rẻ tiền đó. Có bốn người Pháp đang dừng
lại và một trong số họ - một người béo - đang tươi cười cầm và treo
vào một chiếc gậy tấm thiếp có in dòng chữ: “Đất nước Ireland muôn năm!”

Nhưng
những cây xanh trong tuổi thanh xuân của Stephen có mùa thơm của nước mưa và
nước mưa làm ngập mặt đất tỏa ra một mùi hương chết chóc. Một mùi hương trầm
phảng phất bốc lên từ rất nhiều trái tim xuyên qua lớp đất tơi xốp. Những người
đi trước nói với cậu là linh hồn của thành phố thối rữa này đã bị co rút lại
với thời gian để cho một mùi hương chết chóc tỏa lên từ mặt đất và cậu biết rằng
trong khoảnh khắc khi cậu bước vào trường học tối tăm, cậu sẽ ý thức được sự
thối rữa hơn cả ở Buck Egan và Burnchapel Whaley.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3