Trăng lạnh - Phần I - Chương 13
CHƯƠNG
13
Amelia Sachs cho xe trờ tới, rồi dừng lại trước Ron
Pulaski. Sau khi anh nhảy vào, cô hướng về phía bắc và nổ máy.
Chàng cảnh sát trẻ thông báo với cô chi tiết cuộc gặp
Jordan Kessler. Anh nói thêm: “Ông ta có vẻ sống đúng luật. Một người tử tế. Nhưng
tôi nghĩ tự tôi phải kiểm tra lại chỗ bà Creeley để khẳng định được mọi điều, về
những gì Kessler đạt được nhờ vào cái chết của Creeley. Bà ta bảo rằng bà ta
tin tưởng ông ta và chuyện làm ăn phát đạt. Nhưng tôi vẫn chưa chắc chắn nên
tôi đã gọi điện cho luật sư của Creeley. Hi vọng việc đó được tán thành.”
“Tại sao lại không tán thành?”
“Không biết. Chỉ là tôi đã nghĩ tới việc gọi điện.”
“Chẳng bao giờ có vấn đề gì khi làm việc quá nhiều
trong cái nghề nghiệp này”, Sachs bảo Pulaski. “Chỉ có vấn đề khi làm không
đủ.”
Pulaski lắc đầu. “Khó mà hình dung được có ai làm việc
cho Lincoln mà lại lười biếng.”
Sachs cười đầy ẩn ý. “Thế luật sư đã nói gì?”
“Về cơ bản cũng vẫn những điều mà Kessler và bà vợ
đã nói. Ông ta mua phần của Creeley theo đúng giá thị trường. Tất cả đều hợp
pháp. Kessler nói người bạn làm ăn với ông ta đã uống nhiều hơn và bắt đầu chơi
bạc. Bà vợ thì bảo tôi rằng bà ta ngạc nhiên khi biết chuyện đó. Chồng bà ta
chưa bao giờ là loại đàn ông quanh quẩn ở Atlantic City.”
Sachs gật đầu. “Chơi bạc, biết đâu có dính dáng đến
băng nhóm nào ở đấy. Làm ăn với bọn họ, hoặc chỉ là sử dụng ma túy để giải trí.
Rửa tiền, cũng có thể. Anh có biết ông ta được hay thua không?”
“Mất một khoản lớn, xem chừng là thế. Tôi tự hỏi liệu
có phải ông ta đã tìm tới một kẻ cho vay nặng lãi để đập vào chỗ thua không. Nhưng
bà vợ bảo chỗ thua đó chẳng to tát gì, so với thu nhập của ông ta và toàn bộ
tài sản. Vài trăm nghìn chẳng gây tổn hại mấy. Bà ta thực sự không thích
thú chuyện này, chị có thể hình dung ra… Kessler nói mối quan hệ giữa ông ta và
tất cả các khách hàng đều tốt đẹp. Nhưng tôi cứ đề nghĩ ông ta cung cấp danh
sách. Tôi nghĩ chúng ta nên tự trao đổi với họ.”
“Tốt”, Sachs bảo Pulaski. Rồi cô nói thêm: “Tình
hình đang trở nên lằng nhằng hơn. Có một cái chết nữa. Cướp của, giết người, có
lẽ thế.” Cô trình bày về cuộc gặp gỡ với Gerte và nói tới Frank Sarkowski. “Tôi
cần anh lần lại hồ sơ vụ này.”
“Chị yên chí đi.”
“Tôi…”
Sachs ngừng lời. Cô vừa nhìn vào gương chiếu hậu và
cảm thấy trong bụng giật mình đánh thót một cái. “Hừm.”
“Gì vậy?”, Pulaski hỏi.
Sachs không trả lời mà thong thả rẽ phải, chạy qua
vài khối phố nữa và rồi đột ngột rẽ trái. “Chà, có lẽ là chúng ta có một cái
đuôi. Trông thấy nó mấy phút trước. Con Merc cũng vừa rẽ theo chúng ta. Đừng, đừng
nhìn.”
Đó là một chiếc Mercedes màu đen, cửa sổ xe gắn kính
tối.
Sachs lại đột ngột rẽ và đạp phanh dừng lại. Chàng cảnh
sát trẻ bật tiếng kêu vì bị dây an toàn giật mạnh. Chiếc Mercedes vẫn chạy thẳng.
Sachs ngoái nhìn, không đọc được biển số, nhưng nhận ra đó là một chiếc AMG, một
đời xe mới cải tiến và đắt tiền của dòng xe Đức này.
Sachs quay đầu xe nhưng đúng lúc ấy một chiếc xe tải
giao hàng đỗ bên cạnh một chiếc xe đã đỗ từ trước, chặn đường họ. Khi cô vượt
được lên thì chiếc Merc đã biến mất.
“Theo chị đó là kẻ nào vậy?”
Sachs sang số mạnh. “Có thể chỉ ngẫu nhiên thôi. Thực
sự rất ít khi bị bám đuôi. Và, hãy tin tôi đi, không bao giờ có ai
lại làm việc đó trong một chiếc xe giá một trăm bốn mươi nghìn đô la cả.”
* * *
Chạm vào cái thân thể lạnh giá, cô thợ cắm hoa đang
nằm trên nền xi măng, gương mặt trắng như những bông hồng bạch vương vãi khắp
sàn.
Cái thân thể lạnh giá, lạnh giá như vầng Trăng Lạnh,
nhưng vẫn mềm mại, cái chết chưa khiến nó cứng lại.
Cắt rời từng mảnh trang phục ra, chiếc áo cánh, chiếc
áo nịt ngực…
Sờ mó…
Tận hưởng…
Đây là những hình ảnh đổ xuống trong ý nghĩ của
Vincent Reynolds khi gã ngồi trước tay lái chiếc Band-Aid-di động nhìn chằm chằm
sang xưởng hoa tối om bên kia phố, thở gấp, thấy cái điều gã sẽ làm với Joanne.
Ngấu nghiến trong cơn đói khát.
Những âm thanh chen vào sự tưởng tượng của Vincent. “Nút
giao thông bốn mươi hai, các anh có thể… Người ta muốn dựng thêm hàng rào tại
Nassau và Pine. Gần khán đài duyệt binh.”
“Rõ, chúng tôi làm được. Hết.”
Những câu trao đổi này không tạo ra mối đe dọa nào đối
với Gerald Duncan và bởi vậy Vincent tiếp tục sự tưởng tượng của gã.
Tận hưởng, sờ mó…
Vincent hình dung rằng kẻ giết người lúc này đây hẳn
đang lôi Joanne xuống sàn, buộc ngửa cô ra. Rồi gã cau mày. Liệu Duncan có đang
sò mó những chỗ ấy không? Ngực cô, giữa hai đùi cô?
Vincent ghen.
Joanne là bạn gái của gã, chứ đâu phải của
Duncan. Mẹ kiếp! Nếu anh ta muốn đ., anh ta hãy tự đi mà tìm lấy một đứa con
gái ngon lành…
Nhưng rồi Vincent bảo mình phải bình tĩnh lại. Nỗi
đói khát khiến cho người ta thành ra thế đấy. Nó khiến người ta điên rồ, ám ảnh
người ta giống như những kẻ trong những bộ phim đẫm máu mà Vincent vẫn xem. Duncan
là bạn mình. Nếu anh ta có muốn làm thử cô ấy một tí, hãy mặc kệ anh ta. Bọn gã
có thể dùng chung cô ấy mà.
Vincent sốt ruột nhìn đồng hồ đeo tay. Lâu quá. Duncan
đã bảo gã rằng thời gian không phải thứ gì đó tuyệt đối. Một số nhà khoa học từng
tiến hành làm một thí nghiệm. Họ đặt một chiếc đồng hồ ở tít trên cao trong một
cái tháp và một chiếc khác ngang mực nước biển. Chiếc trên cao chạy nhanh hơn
chiếc dưới thấp. Một quy luật vật lí nào đấy. Xét về mặt tâm lí, Duncan lại nói
thêm, thời gian cũng mang tính tương đối. Nếu người ta đang làm một việc mà người
ta yêu thích, thời gian trôi mau. Nếu người ta đang chờ đợi, thời gian lê bước
chậm chạp.
Giống hệt bây giờ. Nhanh lên nào, nhanh lên.
Thiết bị dò sóng bộ đàm nằm trên bảng đồng hồ lại
kêu lách tách. Thêm các thông tin về giao thông, Vincent nghĩ.
Nhưng gã đã lầm.
“Trung tâm gọi bất cứ đơn vị nào đang ở khu Hạ
Manhattan. Hãy di chuyển đến phố Spring, phía đông Broadway. Yêu cầu tìm kiếm
các của hiệu hoa xung quanh đấy, liên quan đến hai vụ án mạng tại cầu tàu phố
Hai mươi hai và con hẻm phố Cedar đêm hôm qua. Hãy di chuyển thận trọng.”
“Lạy Chúa, lạy Chúa.” Vincent làu bàu thành tiếng
to, dán mắt vào thiết bị dò sóng bộ đàm. Nhấn phím gọi lại trên điện thoại, gã
liếc nhìn ngược lên phía đầu phố – chưa thấy bóng dáng cảnh sát đâu cả.
Một hồi chuông, hai hồi…
“Nghe máy đi!”
Tách. Duncan không nói gì – bọn gã đã có kế hoạch
trước như vậy. Nhưng Vincent biết là gã nghe máy.
“Ra ngay! Mau nào! Cảnh sát đang đến.”
Vincent nghe thấy một tiếng thở yếu ớt. Điện thoại
ngắt kết nối.
“Xe 337 đây. Ba phút nữa là chúng tôi tới nơi.”
“Roger, 337, chú ý… Thông tin bổ sung, chúng tôi nhận
được một báo cáo, lúc mười giờ ba mươi tư phút, đang xảy ra tấn công, ở số 418
phố Spring. Tất cả các đơn vị có mặt tại khu vực trả lời.”
“Roger nghe.”
“Xe 461 nghe, chúng tôi cũng đang đến.”
“Hãy nhanh lên nào, vì Chúa”, Vincent làu bàu. Gã gài số chiếc Explorer.
Rồi một
chiếc bình gốm bị ném qua cánh cửa kính phía trước xưởng hoa kêu đánh xoảng. Duncan
xông ra ngoài. Gã guồng chân chạy trên những mảnh vỡ, suýt ngã xuống băng,
phóng đến chỗ chiếc Explorer, nhảy vào ghế bên cạnh tay lái. Vincent cho xe lao
đi.
“Giảm
tốc độ”, sát thủ ra lệnh. “Rẽ ở phố
tiếp theo.”
Vincent nới lỏng chân ga. Chiếc xe chạy chậm lại thật
đúng lúc vì ngay khi đó, một chiếc xe tuần tra của cảnh sát lượn qua góc phố
trước mặt.
Hai bên tiến đến gần nhau hơn, các cảnh sát nhảy ra
khỏi xe.
“Dừng ở chỗ đèn xanh đèn đỏ”, Duncan nói bình thản. “Đừng
hoảng sợ.”
Vincent cảm thấy một luồng run rẩy chạy dọc cơ thể. Gã
muốn đánh liều thoi cho nó một quả. Duncan nhận ra điều này. “Đừng. Hãy cứ xử sự
giống như tất cả mọi người ở đây thôi. Mày kì lạ thật. Nhìn những cái xe cảnh
sát kìa. Nhìn cũng không sao đâu mà.”
Vincent nhìn.
Đèn đỏ chuyển sang xanh.
“Từ từ nào.”
Chiếc xe chậm rãi rời khỏi chốt giao thông.
Thêm những chiếc xe cảnh sát phóng vun vút qua, đáp
lại hiệu lệnh của Trung tâm.
Thiết bị bộ đàm phát thông báo có thêm mấy chiếc xe
nữa đang đến. Một cảnh sát thông báo rằng bộ đàm không có đặc điểm nhận diện đối
tượng tình nghi. Không có ai nhắc nhở gì tới chiếc Band-Aid-di động. Đôi bàn
tay Vincent run run nhưng gã vẫn giữ cho chiếc SUV to tướng chạy vững vàng
chính giữa làn đường của mình, vận tốc chẳng lúc nào suy suyển. Cuối cùng khi
đã cách khá xa xưởng hoa, Vincent mới nói giọng nhẹ nhàng: “Bọn họ biết đó là
chúng ta rồi.”
Duncan quay sang gã. “Bọn nó cái gì?”
“Cảnh sát ấy. Lúc nãy, bọn họ đang điều xe đi tìm kiếm
các cửa hiệu hoa xung quanh đây, nói chung có chuyện liên quan tới hai vụ án mạng
đêm hôm qua ấy.”
Gerald Duncan suy nghĩ về việc này. Gã không tỏ ra sửng
sốt hay bực bội. Gã cau mày. “Bọn nó biết chúng ta đã ở những chỗ đó à? Kì lạ
thật. Làm sao mà bọn nó có thể biết được?”
“Tôi phải lái xe đi đâu đây?”, Vincent hỏi.
Bạn gã không trả lời, tiếp tục nhìn ra các con phố. Cuối
cùng, gã này nói giọng bình thản: “Bây giờ, hãy cứ cho xe chạy. Tao phải suy
nghĩ tí đã.”
Hắn trốn thoát à?”, Rhyme nói gay gắt qua loa chiếc
điện thoại Motorola. “Chuyện gì đã xảy ra vậy?”
Đứng bên cạnh Sachs tại hiện trường, phía trước xưởng
hoa, Sellitto đáp: “Thời điểm. Vận may. Bố ai biết được?”
“Vận may?”, Rhyme nói gay gắt hơn, y như thể đó là một
từ nước ngoài anh không hiểu nổi. Rồi anh dừng lại một chút. “Hẵng hượm… Các
anh đang đổi tần số liên tục đấy chứ?”
Sellitto trả lời: “Chúng tôi sử dụng chiến thuật ấy,
nhưng trung tâm thì không, không sử dụng cho các cuộc gọi 911. Hắn chắc chắn đã
nghe thấy cuộc gọi đầu tiên. Như cứt. Được, chúng tôi sẽ đảm bảo là tất cả họ đều
đổi tần số liên tục trong vụ Thợ Đồng Hồ.”
Rồi Rhyme hỏi: “Hiện trường cho biết điều gì,
Sachs?”
“Em vừa tới nơi.”
“vậy hãy khám xét đi nhé.”
Tách.
Ôi chao… Sellitto và Sachs nhìn nhau. Ngay sau khi
cô nghe thấy cuộc gọi liên quan đến thông báo lúc mười giờ ba mươi tư phút về sự
việc ở phố Spring, cô thả Pulaski xuống để anh đi tìm kiếm hồ sơ trường hợp
Sarkowski, còn mình phóng tới đây khám nghiệm hiện trường.
Em có thể làm cả hai vụ.
Chúng ta hãy hi vọng, Sachs ạ…
Cô quăng cái xắc lên ghế sau của chiếc Camaro, khóa
cửa xe và đi bộ về phía xưởng hoa. Cô trông thấy Kathryn Dance đang đi bộ ngược
lại từ cửa hiệu bán lẻ chính, nơi cô vừa phỏng vấn chủ cửa hiệu, Joanne Harper,
người suýt trở thành nạn nhân thứ ba của Thợ Đồng Hồ.
Một chiếc xe không sơn chữ cảnh sát dừng lại ở lề đường,
đèn báo tình trạng khẩn cấp gắn lưới bảo vệ nhấp nháy sáng. Dennis Barker tắt hết
đèn và trèo ra. Anh ta vội vã bước về phía Sachs.
“Là hắn?”, Baker hỏi.
“Phải”, Sellitto trả lời anh ta. “Các Đơn vị Phản ứng
nhanh tìm thấy một chiếc đồng hồ nữa bên trong xưởng hoa. Cùng chủng loại.”
Ba người rồi, Sachs lo lắng nghĩ. Còn bảy người nữa…
“Lại thêm một bức thư tình à?”
“Lần này thì không. Nhưng chúng tôi thực sự suýt tóm
được hắn. Tôi nghĩ hắn chẳng có cơ hội mà để lại lời nhắn nhủ gì.”
“Tôi nghe thấy cuộc gọi đó”, Baker nói. “Làm sao các
anh phát hiện ra đó là hắn?”
“Trước đây đã có vụ cảnh sát ập vào khám xét một cơ
quan môi trường nằm cách chỗ này một khối phố, bọn họ dự trữ thallium sulfate
trái phép, thuốc chuột. Rồi Lincoln biết được rằng mục đích chính của thứ
protein cá tìm thấy tại hiện trường vụ Adams là làm phân bón cho phong lan. Lon
gửi thông báo chính thức yêu cầu các xe đến kiểm tra các cửa hiệu hoa và công
ti tạo phong cảnh gần cơ quan môi trường kia.”
“Thuốc chuột.” Baker bật cười. “Này, cái tay Rhyme ấy,
anh ta nghĩ tới mọi điều, phải không?”
“Còn hơn thế nữa ấy chứ”, Sellitto bổ sung.
Dance tham gia vào cuộc trao đổi. Cô trình bày những
gì cô biết được từ cuộc phỏng vấn. Joanne Harper trở về sau khi đi uống cà phê
và phát hiện ra cuộn dây kẽm nằm không đúng chỗ. “Việc đó không khiến cô ấy băn
khoăn lắm. Nhưng cô ấy nghe thấy tiếng tích tắc này và rồi cô ấy cho rằng nghe
như có ai đang ở trong căn phòng đằng sau. Cô ấy liền gọi 911.”
Sellitto tiếp tục. “Và vì dù sao chúng tôi cũng đã
điều các xe đến kiểm soát khu vực, chúng tôi kịp tới nơi trước khi hắn sát hại
cô ấy. Tuy nhiên, chỉ là vừa kịp.”
Dance bổ sung rằng cô thợ cắm hoa không biết tại sao
lại có kẻ muốn giết cô. Cô li dị đã lâu và chẳng nhận được tin tức gì từ chồng
cũ. Cô không nghĩ ra là có ai thù oán mình.
Joanne cũng nói với Dance rằng trước đấy, cùng ngày,
cô nhìn thấy một người quan sát cô qua cửa sổ, một người đàn ông da trắng to
béo mặc áo khoác liền mũ trùm màu kem, đeo kính râm kiểu cổ và đội mũ chơi bóng
chày. Vì cửa sổ bẩn nên cô không nhìn thấy những chi tiết khác. Dance băn khoăn
không biết liệu Joanne có mối quan hệ nào với Adams, nạn nhân đầu tiên. Nhưng
Joanne chưa bao giờ nghe nói tới anh ta cả.
Sachs nói: “Cô ấy thế nào?”
“Bị chấn động. Nhưng cũng đang quay lại với công việc.
Tuy nhiên không ở xưởng hoa. Ở cửa hiệu của cô ấy trên đường Broadway.”
Sellitto nói: “Cho tới khi chúng ta tóm được gã đàn
ông này hoặc biết được động cơ phạm tội, tôi sẽ yêu cầu một xe gác bên ngoài cửa
hiệu.” Ông ta lôi bộ đàm ra và thu xếp việc đó.
Nancy Simpson và Frank Rettig, hai sĩ quan khám nghiệm
hiện trường, bước đến chỗ Sachs. Đi giữa họ là một thiếu niên đội mũ sợi ôm sát
đầu và mặc chiếc áo khoác ngắn rộng lùng thùng. Cậu ta gầy giơ xương và trông
có vẻ bị lạnh cóng. “Cậu này muốn giúp đỡ chúng ta”, Simpson nói. “Cậu ta đến gặp
chúng tôi ở ngoài xe.”
Liếc nhìn Sachs, thấy cô gật đầu, Dance quay sang cậu
ta và hỏi cậu ta đã trông thấy gì. Tuy nhiên, chẳng cần tới chuyên gia về ngôn
ngữ hình thể. Cậu bé sung sướng được chứng tỏ mình là một công dân tốt. Cậu ta
trình bày rằng cậu ta đang đi bộ xuôi theo con phố thì trông thấy có người nhảy
ra khỏi xưởng hoa. Gã này tầm trung niên, mặc áo khoác ngắn màu tối. Nhìn bức ảnh
chắp ghép mà Sellitto và Dance dựng tại cửa hiệu đồng hồ, cậu ta bảo: “Vâng, có
lẽ là hắn.”
Hắn chạy đến chỗ một chiếc SUV màu nâu vàng do một
gã da trắng mặt tròn và đeo kính râm lái. Nhưng cậu bé không trông thấy chi tiết
cụ thể nào về gã lái xe.
“Bọn
chúng có hai đứa à?” Baker thở dài. “Hắn có một kẻ đồng lõa.”
Có thể
đó là kẻ Joanne đã trông thấy ở xưởng hoa.
“Một
chiếc Explorer?”
“Em
không phân biệt được các loại xe SUV, không biết xe Explorer hay… xe gì.”
Sellitto
hỏi về biển số xe. Nhân chứng không trông thấy.
“Chà,
ít nhất chúng ta cũng biết màu xe.” Sellitto công bố lệnh Phát hiện phương tiện
giao thông khẩn cấp. Một lệnh Phát hiện phương tiện giao thông khẩn cấp sẽ
thông báo cho tất cả các xe tuần tra có trang bị bộ đàm cũng như hầu hết các
nhân viên thực thi pháp luật và cảnh sát giao thông trong khu vực tìm kiếm một
chiếc Explorer màu nâu vàng chở hai người đàn ông.
“Được
rồi, chúng ta hãy tiếp tục công việc”, Sellitto gọi.
Simpson
và Rettig giúp đỡ Sachs lắp các thiết bị để xử lí hiện trường. Có mấy hiện trường
là xưởng hoa, con hẻm, khu vực vui vẻ nơi gã đàn ông đã trốn thoát, cũng như
nơi chiếc Explorer đỗ lúc trước.
Kathryn
Dance và Sellitto trở về chỗ Rhyme, còn Baker tiếp tục đi tìm kiếm nhân chứng,
chìa bức ảnh Thợ Đồng Hồ cho những người qua lại và những người làm việc ở các
kho hàng, các cơ sở kinh doanh dọc phố Spring.
Sachs
thu thập các chứng cứ mà cô có thể thu thập. Vì chiếc đồng hồ thứ nhất không phải
thiết bị phát nổ, đội tháo bom không cần thiết phải tham gia. Một thực nghiệm
đơn giản kiểm tra muốn nitrate[45] là đủ đảm bảo. Cô
đóng gói nó, cùng với các chứng cứ khác, rồi cởi bỏ bộ đồ Tivek và mặc chiếc áo
khoác da. Cô vội vã bước ra phố, buông người và ghế trước chiếc Camaro, khởi động
xe và bật máy sưởi hết công suất.
[45] Muốinitrate:
Một số muốinitrate được sử dụng trong sản xuất chất nổ.
Sachs
với cái xắc ở ghế sau để lấy đôi găng tay. Nhưng khi cô vừa cầm các xắc da lên
thì các thứ bên trong rơi ra.
Sachs
cau mày. Cô vốn rất cẩn thận, bao giờ cũng cài chặt cái xắc. Cô không thể làm mất
các thứ đựng bên trong, hai băng đạn dự trữ cho khẩu Glock, cũng như một hộp
hơi cay. Cô nhớ rõ rằng cô đã vặn khóa xắc lúc đến đây.
Sachs
nhìn cửa sổ phía ghế hành khách. Những vết găng tay để lại trên kính đúng là do
ai đó sử dụng một chiếc Slimjim[46] để mở khóa cửa. Và
một ít sợi cách nhiệt xung quanh cửa sổ bị đẩy sang bên.
[46] Slimjim: Là
nhãn hiệu do hãng HPC Inc., một hãng sản xuất và cung cấp dụng cụ chuyên dụng
cho thợ khóa, đưa ra thị trường. Slimjim được sử dụng để mở khóa cửa ô tô mà
không cần chìa.
Bị đột
nhập trong khi đang khám nghiệm hiện trường một vụ án. Đây là lần đầu tiên.
Sachs
kiểm tra lần lượt từng món đồ. Không mất mát gì cả. Toàn bộ tiền và thẻ thanh
toán vẫn còn – mặc dù cô sẽ phải gọi cho các hãng thẻ tín dụng phòng trường hợp
tên kẻ cắp đã ghi lại được số thẻ. Đạn và hộp xịt hơi cay nguyên vẹn. Tay lần đến
khẩu Glock, cô nhìn xung quanh. Có một nhúm người túm tụm gần đầy, hiếu kì xem
cảnh sát làm việc. Cô trèo ra khỏi xe và đi đến chỗ họ, hỏi xem có ai trông thấy
vụ đột nhập không. Không ai trông thấy gì.
Quay
lại chiếc Chevy, Sachs lấy từ trong cốp hộp máy khám nghiệm hiện trường và khám
nghiệm chiếc xe giống hệt như đối với bất cứ hiện trường nào khác – kiểm tra dấu
vân tay, dấu chân, các dấu vết bên trong và bên ngoài. Cô không tìm thấy gì cả.
Cô cất hộp máy và lại buông người xuống ghế trước.
Rồi
Sachs nhìn thấy, cách đấy nửa khối phố, một chiếc xe lớn màu đen khuất dần vào
một con hẻm. Cô nghĩ đến chiếc Mercedes cô đã nhìn thấy lúc đón Pulaski. Tuy
nhiên, cô không kịp nhìn thấy nhãn hiệu xe và chiếc xe biến mất giữa dòng xe cộ
trước khi cô có thể quay xe lại đuổi theo nó.
Trùng
hợp hay không? Sachs băn khoăn tự hỏi.
Bộ động
cơ to tướng của chiếc Chevy bắt đầu đẩy hơi nóng vào xe và Sachs thắt dây an
toàn. Cô cài số một. Thả lỏng người về phía trước, cô tự nhủ: Chà, cũng chưa có
tổn hại gì.
Sachs
chạy xe được nửa khối phố, đang sang gấp số a thì ý nghĩ này ập tới: Kẻ ấy đã
tìm kiếm gì? Cái thực tế là tiền và thẻ tín dụng của cô vẫn còn cho thấy đối
tượng tìm kiếm thứ gì đó khác.
Amelia
Sachs biết rằng những kẻ mà người ta không thể xác định được động cơ hành động
luôn luôn là những kẻ nguy hiểm nhất.

