Nhất Linh, cha tôi - Phần I - Chương 03
Thế rồi ông quyết
định giã từ tất cả. Đà Lạt, Fim-Nôm, dòng Đa-Mê và cả trăm giỏ lan mà ông đã
chăm sóc từ hai năm qua, để về ở luôn Sài Gòn, chấm dứt cái thời kì mà ông Lê Hữu
Mục đã viết trong đoạn kết cuốn sách của ông là “một Nhất Linh nằm trùm chăn
ở trên Đà Lạt.” Đối với tôi, thật bụng tôi chỉ mong ông được nằm trùm chăn
lâu hơn vì đây chính là thời gian hạnh phúc nhất trong cuộc đời ông mà tôi được
biết. Nhất Linh “xuống núi” lăn vào cuộc đời làm báo, tham gia đảo chính, thất
bại, đi trốn, bị đưa ra tòa, đưa đến cái tự vẫn của ông mấy năm sau, mở đầu một
thời kì cuối cùng của đời ông với nhiều não nề, nhiều chán chường hơn.
Như đoạn văn kết
trong cuốn truyện Đôi bạn của ông, hai câu thơ sau đây của Nhất
Linh, đâu đó, vẫn còn vẳng về Đà Lạt như “một nỗi nhớ xa xôi đương mờ dần”:
Người đi lâu chửa
thấy về, Nhớ người lòng suối Đa Mê gợn buồn...
Tacoma, tháng 6
năm 1985.
Niềm vui chết yểu
Tôi nhìn đồng hồ:
5 giờ kém mười lăm. Chiếc xe sao chạy chậm quá vậy? Người tôi nửa như xôn xao bồn
chồn nửa như bị du sâu vào trong một giấc mơ. Tiếng động, tiếng sinh hoạt của
thành phố nghe xa vút hẳn đi. Những âm thanh lao xao mơ hồ như thuộc về một thế
giới khác. Đường phố quen thuộc của Sài Gòn, bỗng nhiên mặc một vẻ xa lạ, thỉnh
thoảng một tiếng còi xe giật lại, tôi nghe ngắn và sắc hơn. Chiếc xe chạy qua rạp
Olympic, tôi quay người ngó lơ đãng vào mấy tấm quảng cáo ở cửa rạp: “Cậu coi
Jugement à Nuremberg chưa?”
“Rồi.”
“Đấy, cậu chẳng
cần nói gì cả, cứ im lặng như ông Bộ trưởng Đức mà hay. Cũng chẳng cần viện cớ
bệnh không nói được ở tòa. Để tối con lại luật sư Đinh Trịnh Chính lấy lại mấy giấy
bác sĩ. Con nghĩ mình chẳng cần phải dùng cách ấy. Mình vẫn khỏe mạnh như thường
mà chả thèm nói gì cả, cũng chẳng cần trả lời những câu hỏi của tòa, cứ im lặng
như hến thế mà hay.”
Chiếc taxi đến một
khúc đường sửa bị xóc tôi thấy nặng ở đùi: đầu cha tôi còn gối trên đùi tôi, miệng
ông hé mở, đầu ngã về sau, một ít nước bọt ở mép, cánh tay phải mềm xuội buông
lỏng xuống sàn xe. Cách đây một giờ cha tôi đã uống thuốc độc tự tử. Cha tôi đã
đồng ý với tôi ở một điểm: “Im như hến thế mà hay!” Nhưng quả thật
tôi không ngờ ông đã đi sâu đến như thế, không chỉ im lặng ở tòa mà chọn sự im
lặng trong cung cách ra đi vĩnh viễn.
Tôi thò tay vào
túi áo ngủ của cha tôi lấy ra một tờ giấy mà lúc ở nhà tôi không kịp xem. Trên
một vuông giấy, cha tôi để lại bảy mươi hai chữ cuối cùng của đời ông. Đọc
xong, gần như vô ý thức, miệng tôi cứ lặp đi lặp lại mãi câu: “Đời tôi
để lịch sử xử...”
Anh Triệu ngồi ở
băng trước, giục tài xế chạy hết tốc lực để chóng đến bệnh viện, nhưng chiều chủ
nhật đông xe, chiếc taxi bị nghẽn đường mấy lần và cuối cùng chỉ tới bệnh viện
Grall lúc 5 giờ 10 phút. Chúng tôi xuống xe, trình giấy giới thiệu khẩn cấp của
bác sĩ Phiếm cho viên quản lí thường trực của bệnh viện và khiêng cha tôi, lúc ấy
đang thiêm thiếp trong chiếc chăn len dầy, xuống băng ca. Một lát sau, bác sĩ
Gourillon tới, ông bảo mọi người lui ra ngoài rồi tiến vào phòng. Mười phút
sau, trước sự chờ đợi nóng lòng của mẹ tôi, anh Triệu và tôi, viên bác sĩ Pháp
đẩy cửa bước ra, ông nhìn mẹ tôi trước nhất, khẽ nhún vai, buông xuôi hai cánh
tay xuống với một dáng điệu thất vọng rồi nói với bác sĩ Phiếm lúc ấy cũng vừa
tới nơi: “C’est foutu!”
Tôi nhìn lên mấy
hàng cây của khu công viên bệnh viện. Bầu trời vẫn chưa lên cao sau một buổi
chiều mưa rơi tầm tã. Những vũng nước nhỏ yên lặng như những mặt gương, soi ngược
mấy dẫy nhà thương yên lặng, gác nhà thờ nhỏ im lìm ở phía bên phải, những lá
cây ướt nước trở nên sẫm màu hơn và ở dưới những chiếc lá giọt nước mưa vẫn thi
nhau nhỏ xuống, không gây một tiếng động nhỏ.
***
Buổi sáng ngày
hôm đó, cha tôi đi thật sớm. Ông mở ngăn kéo, lấy mấy tập sách, tập bản thảo những
tác phẩm cuối cùng, gói vào một tờ nhật báo. Tôi đoán có lẽ cha tôi đi họp ở
đâu vì cũng đúng vào chủ nhật tuần trước ông đã tới dự phiên họp đặc biệt của
nhóm Bút Việt. Cha tôi có một thói quen dậy rất sớm, khoảng 5 giờ, rồi cùng mẹ
tôi ngồi uống trà tàu. Ngay cả trong những buổi sáng giá buốt của Đà Lạt, thói
quen đó cũng không bị bỏ. Nhiều lúc hứng chí cha tôi còn đánh thức chúng tôi dậy
để cùng hưởng cái thú uống trà buổi sớm ấy. Nhưng thường thì chúng tôi phản đối
để ngủ lại. Cũng chính vì thức dậy rất sớm nên đến chơi nhà ai cha tôi cũng đến
vào lúc chủ nhân chưa ngủ dậy.
Khoảng gần 10 giờ,
cha tôi về. Tôi đang ngồi ở đi-văng mở máy phát thanh nghe mấy bản tân nhạc
trình diễn, cha tôi bước lên lầu, dáng hơi mệt mỏi. Ông không thay quần áo ngay
như mọi lần về nhà, cứ để nguyên quần áo tây ngồi xuống ghế xích đu, bên cạnh
tôi. Trong suốt buổi sáng hôm ấy chỉ có cha tôi và tôi ở trên gác. Ông ngó
quanh quất không thấy ai nữa, hỏi tôi: “Anh Triệu mấy giờ về?” Tôi trả lời: “Mọi
tuần đêm thứ bảy đã ở Sài Gòn, không hiểu sao bây giờ vẫn chưa thấy về nhà?”
Cha tôi lộ vẻ băn khoăn, chờ đợi, bứt rứt. Điếu thuốc lá rung rung ở trên đầu
hai ngón tay. Ông mở bia, rót vào một cái cốc nhỏ. Ánh nắng lọt qua khe cửa chiếu
vào thành cốc dầy lóe lên những ngôi sao sáng. Tự nhiên tôi nhớ đến một kỉ niệm
cách đây bảy năm, ở Đà Lạt. Năm 1956, một buổi sáng chủ nhật đẹp trời, cha tôi,
chị Thoa và tôi tổ chức một buổi picnic ở hồ Than Thở. Chúng tôi tìm đến một chỗ
thật vắng vẻ ở cuối hồ. Cha tôi và chị Thoa rải mấy tờ báo xuống đất, dưới mấy
gốc thông, chỗ lá thông khô rụng phủ dầy làm cỏ không mọc được. Tôi nghĩ nơi
này không có đường mòn dẫn tới chắc chẳng có ma nào đến, nhưng khi xách súng
cao su đi bắn chim ở gần đó tôi thấy rải rác dưới đất có những hộp cá, một tờ
báo cũ nát, mấy khúc cây cháy dang dở vết tích của một bữa ăn ngoài trời tôi thấy
nơi này không còn quạnh hiu nữa. Cha tôi nghĩ ra một cách nướng lạp xường rất
giản dị. Lấy bông đổ alcool vào rồi đốt, hơ khúc lạp xường cong queo lên trên
ngọn lửa màu xanh nhạt. Cha tôi bầy biện thức ăn nom rất mĩ thuật, ngon mắt. Đặc
biệt ông hay để ý đến màu sắc của đĩa làm nổi những thức ăn bầy ở trên, ông thường
bảo đĩa màu vàng làm nổi những thức ăn hơn những đĩa màu khác. Trong bữa ăn có
món trứng cá caviar cha tôi bảo ăn rất ngon nhưng chúng tôi chịu không ăn được.
Dùng bữa trưa xong, cha tôi mở bia rót vào cái cốc nhỏ. Chúng tôi không quen uống
bia nhất là lại không có nước đá, nhưng cha tôi không bao giờ cho đá vào bia, bảo
uống như vậy nhạt. Tôi còn nhớ nắng hắt vào thành cốc vẫn cái cốc hôm nay ông
dùng làm lóe lên những ngôi sao nhỏ. Một giờ sau đó, lúc tôi trở về mang theo một
con chim bị bắn chết giơ khoe trước mặt cha tôi thì ông đang ngả người hút thuốc,
lưng dựa vào một gốc thông. Những vệt ánh sáng yếu ớt lọt qua lá thông chạy lòa
xòa trên mặt cha tôi, một tí nắng đậu yên ở trên sống mũi, gần chỗ những đường
gân đỏ bóng ở cuối mũi như một viên cuội có những đường vân đẹp.
Cha tôi ho một
tiếng ngắn. Tôi có cảm tưởng ông sửa soạn nói với tôi điều gì. Nhưng ông chỉ im
lặng. Từ lúc nẫy một ban nhạc nào đó hát đi hát lại mãi bản nhạc “Mừng ngày
Song thất”, tôi để ý thấy cha tôi chú ý nghe nhưng không để lộ một thái độ nào.
Tôi đem vấn đề ra tòa ngày mai ra bàn, xem cha tôi đối phó ra sao. Nhưng ông chỉ
ậm ừ như không muốn những câu hỏi của tôi có thể làm loãng những điều ông đang
suy nghĩ. Thỉnh thoảng có tiếng chân ai lên gác, ông giật mình ngó về phía cửa.
Tôi với tay lấp xấp ronéo để trước mặt ông. Đó là bản cáo trạng khá dầy, trong
đó có lời khai của cha tôi ở sở cảnh sát. Ở trang cuối, tôi chú ý đến những lời
kết tội như “phản quốc”, “xâm phạm an ninh quốc gia.” Trong suốt hơn một giờ,
cha tôi vẫn giữ một thái độ im lặng, suy nghĩ. Ông uống bia rất chậm. Dường như
lại không biết mình đang uống bia nữa. Khi để cốc rượu xuống bàn, chiếc li rung
rung lơ lửng vài giây sát mặt bàn rồi mới hạ hẳn xuống một cách khó khăn, như
giữa ông và cái bàn có một khoảng cách đủ khiến ông phải gắng sức.
Khoảng 11 giờ,
như vụt quyết định xong một điều gì, cha tôi có vẻ thảnh thơi hơn, ông bỏ hẳn
thái độ băn khoăn, thay quần áo ngủ, rồi quay lại trả lời câu hỏi ban nãy: “Phải
đấy. Chẳng cần phải nói gì cả. Chiều nay con lại luật sư Chính lấy hết các giấy
bác sĩ về. Biết địa chỉ không?” Tôi gật đầu. Cha tôi kéo ghế ngồi đối diện tôi,
nhìn tôi rất lâu. Tôi nói: “Con đoán họ chẳng làm gì cậu đâu, nếu họ muốn bỏ tù
thì họ đã bắt từ lâu rồi. Việc này họ đem ra xử cho có lẽ, rồi kết mình vô tội
để hạ nhục chơi. Vả lại nếu có ra Côn Đảo thì cũng chả sao, chỉ làm giầu thêm
cuộc đời tranh đấu của cậu. Cứ coi như là một dịp đi nghỉ mát, biết đâu lại chẳng
có những điều hay để viết, phải không cậu? Ra ngoài ấy lại gặp chú Sơn, anh
Vinh, vui biết mấy! Sẵn dịp đó cậu viết tiếp quyển Xóm Cầu Mới hay
là con nghĩ thế này tôi ngồi ngay lại trên ghế cậu có thể như Churchill về già
viết lại quãng đời mình. Con nghĩ đó cũng là điều quý lắm!” Cha tôi nhìn ra cửa
sổ đáp: “Cậu chẳng sợ kết quả ngày mai ra sao vì ở nhà hay ở tù thì cũng mất tự
do như nhau. Có điều bực nhất là họ lấy tư cách gì mà lại đem xét xử những người
quốc gia đối lập rồi gán cho họ tội phản quốc. Còn cái việc viết hồi kí thì cậu
đã nghĩ đến hồi 1958 ở Đà Lạt. Cậu dự tính viết ba quyển: cuộc đời làm báo và
viết văn của Nhất Linh, cuộc đời làm cách mạng của Nguyễn Tường Tam và quyển thứ
ba cậu viết về hoa phong lan. Nhưng về đây cậu bận tờ Văn Hóa Ngày Nay nên
chỉ viết được cuốn Viết và đọc tiểu thuyết, sau đó lại dính vào những
rắc rối chính trị, không có tâm đâu mà viết.”
Cha tôi cúi xuống
đọc lại một lần nữa bản án kết tội mình. Khi ông ngẩng lên, tôi ngập ngừng đưa
ra một câu hỏi: “Bây giờ nghĩ lại tất cả những việc cậu đã làm, cậu thấy hãnh
diện về những việc gì nhất?” Cha tôi cười: “Thật ra thì chẳng có việc gì đáng tự
hào vì chẳng có việc nào cậu cho là đến nơi đến chốn. Nhưng cậu vừa lòng nhất
là việc thành lập được Tự Lực Văn Đoàn. Đến bây giờ cậu vẫn tha thiết nhất về
việc này. Chuyện chính trị nhiều khi cái không khí nó buộc mình phải tham gia,
như cái tình trạng hồi Pháp thuộc, lúc đó, nếu cậu không đứng ra làm việc nước
thì trong lòng áy náy chẳng làm được chuyện gì khác. Nhiều khi người ta bị đẩy
tới guồng máy hoạt động một cách giản dị không ngờ, rồi như những bánh xe ăn khớp
nhau, họ bị đẩy dần vào vòng trách nhiệm. Ngay cả hồi chơi hoa phong lan ở Đà Lạt,
cậu vẫn thấy mình không thể đứng ngoài vòng trách nhiệm ấy, nên phải về hoạt động
lại ở Sài Gòn. Chính vì thế làm chính trị lúc tiến thì dễ lúc rút thì khó.”
12 giờ trưa, cả
nhà đông đủ, mẹ tôi ở dưới nhà lên, anh Triệu mới ở Biên Hòa về, chúng tôi dùng
bữa trưa vui vẻ. Cơm xong, tôi ngủ trưa. Cha tôi, trái với thường lệ, không đi
nghỉ. Trong giấc ngủ chập chờn tôi nghe hình như cha tôi và anh Triệu nói chuyện
với nhau bằng tiếng Pháp. Đến 3 giờ trưa tỉnh giấc tôi vẫn thấy hai người còn
đang nói chuyện, mẹ tôi đã xuống nhà dưới tự bao giờ. Tôi hơi ngạc nhiên thấy
hai người uống Whisky, thứ rượu mà cha tôi đã bỏ từ nhiều năm nay. Nhưng xem
dáng cha tôi vui vẻ. Ông sốt sắng hỏi tôi về chuyện học hành, chuyện đi dạy học
của tôi. Nhân dịp này tôi hỏi ý kiến cha tôi về một số người lạ rủ tôi vào một
đoàn thể thanh niên mưu chống chính quyền. Ông có vẻ lưu tâm đến vấn đề, khuyên
tôi phải thận trọng, vì từ sau vụ đảo chính thất bại ngày 11/11/1960, có nhiều
tổ chức được tung ra để gài bẫy những người chống đối. Trong câu chuyện ông vẫn
bình tĩnh, vui vẻ, giảng giải khúc chiết khác hẳn thái độ của ông trong mấy
ngày qua. Điều đó làm tôi vui lây, tưởng như câu chuyện ra tòa ngày mai không
còn làm cha tôi bận tâm nữa. Uống xong li rượu nhỏ cha tôi đề nghị mua thêm rượu
mạnh nữa. Chúng tôi nghĩ có lẽ rượu làm ông quên được những thắc mắc khó chịu
nên chúng tôi vui vẻ rủ nhau đi, hẹn cha tôi mười lăm phút sau trở lại ngay.
Lúc tôi sắp bước xuống cầu thang, cha tôi gọi giật tôi lại. Tôi nghe ông gọi
tên tôi bằng một giọng xúc động nhưng ngay lúc ấy tôi không để ý. Ông nhìn lâu
vào mắt tôi, ngập ngừng đưa một cánh tay về phía trước như muốn nói điều gì lại
thôi, chỉ hỏi: “Đi có mười lăm phút thôi à?” Đến bây giờ nghĩ lại tôi còn nhớ
rõ cái nhìn của cha tôi lúc ấy. Ánh mắt như gửi đến tôi những điều mà ông không
thể diễn tả bằng lời.
Tôi chở anh Triệu
đến đường Đồng Khánh. Lúc ấy khoảng 4 giờ chiều. Trời âm u như muốn mưa. Chúng
tôi vào mấy tiệm để lựa thứ rượu nào cha tôi ưa thích. Cuối cùng chọn được chai
Johnnie Walker, vừa đi ra thì trời lại đổ cơn mưa to. Chúng tôi trú ở mái hiên
nhà hàng Arc-en-Ciel. Trời tối sầm lại. Người đi đường chạy dạt vào hai bên trú
mưa. Anh Triệu lộ vẻ băn khoăn, nóng nẩy. Tôi thấy anh đứng một chỗ như không
yên. Một chiếc taxi vụt tới; những giọt nước mưa màu vàng sáng đan nhau trước
hai vệt đèn pha. Tôi ngạc nhiên thấy anh Triệu chạy vụt ra đón chiếc taxi ấy, mặc
dù đang lúc mưa rất nặng hạt, anh chỉ kịp nói với tôi một câu: “Mày ở lại đây,
tao về trước!”
Tôi nhìn những
giọt nước mưa bắn tóe bọt trắng ở trên mặt lộ, hơi nước phủ kín mặt nhựa, thỉnh
thoảng một chiếc xe xẹt ngang rẽ nước sang hai bên. Bên cạnh tôi, dưới mái
hiên, một cô bé chừng mười lăm tuổi đứng khép nép sát vào tường, cô ta căng cái
ô ướt sũng về phía trước, nhưng những giọt nước mưa quái ác vẫn bắn tóe vào hai
gót chân. Mái tóc của cô ta mềm phủ dài sau lưng, bụi nước mưa phủ trắng lấm tấm
như những hạt sương nhỏ.
Tôi nghĩ miên
man tới những chuyện riêng rồi cuối cùng trở lại chuyện cha tôi phải ra tòa,
không biết gia đình có được vào xem xử án không. Dần dà tôi khám phá ra hình
như thái độ gần đây của cha tôi có một cái gì khác thường, tất cả diễn ra như sắp
xếp theo một trật tự nào đó. Mọi thái độ, lời nói, cử chỉ của cha tôi mấy hôm
nay như có liên quan với nhau để âm thầm tiến tới một ý định duy nhất. Sự khám
phá đó nở dần trong tôi một mối lo sợ. Đầu tiên chỉ là lo âu vẩn vơ có xen chút
hoài nghi; nhưng sau đó kiểm điểm lại thấy quả thật mọi việc đều ăn khớp với
nhau thì lí trí tôi đã tìm được lí do để thông đồng với nỗi lo âu của mình. Từ
đó lo sợ biến thành cảm giác bàng hoàng xâm chiếm lấy tôi, mạnh mẽ và đột ngột,
như cảm giác lan ran của người đang ở trong phòng lạnh bất thần mở cửa bước ra
ngoài trời nắng.
Tôi bắt đầu đi
vào giấc mơ. Trí óc tôi vẫn tỉnh suốt. Nhưng cảm giác lạc đi tê dại. Mưa vẫn quất
xối xả. Tôi nhìn xuống mái tóc cô gái đứng trú mưa cạnh tôi rồi quay đi. Nhưng
trong trí tôi vẫn còn vương lại hình ảnh những bụi nước nhỏ lấm tấm, những bụi
nước ấy cứ lởn vởn ám ảnh một cách vô lí; chúng nở ra nhòa đi rung rinh trên một
nền trắng: trong đó là hình ảnh của cha tôi buổi chiều ngày hôm trước, lúc ông
đang nằm trên nệm trắng, vòng tay gối đầu, ngửa mặt lên trần. Hai mắt ông màu
nâu đục, cái nhìn vừa xa xăm vừa buồn bã như suốt đời tìm kiếm mà chẳng bao giờ
toại nguyện. Tôi tiến lại, đưa cho ông một tờ giấy tôi vừa nhận được, trên góc
có đóng hai chữ “Thượng khẩn” màu đỏ. Người ta buộc cha tôi đúng 6 giờ chiều
ngày hôm đó, ngày 6/7/1963, phải trình diện tại tiểu đội hiến binh số 635 đường
Nguyễn Trãi vì “một lí do sẽ cho biết sau.” Cha tôi nhỏm dậy, chống một khuỷu
tay lên giường, ngước nhìn đồng hồ. Tiếng máy xe mô-tô của người quân cảnh nổ
giòn ở dưới nhà, nhỏ dần, loãng đi rồi mất hẳn. Cha tôi đứng dậy, mở cửa sổ, trông
xuống đường. Chập sau, suy nghĩ hồi lâu, ông quay về phía tôi, bảo::Con mặc quần
áo đi với cậu đến nhà chú Kiểm.” Tôi hơi bực mình vì chiều thứ bảy nào tôi cũng
có mục riêng, không đến chơi nhà mấy thằng bạn thì cũng chui vào rạp xi-nê,
nhưng tôi không dám trái lời. Trên chiếc tắc-xi rời chợ An Đông hướng về phía
Sài Gòn, tôi thấy cha tôi cứ chốc chốc lại ngoái về phía sau. Ông bảo tôi: “Con
xem có xe nào theo không? Lúc nãy cậu có thấy mấy người lạ đứng bên kia đường
nhìn vào nhà mình.” Tôi ra hiệu cho tài xế quặt sang đường Trần Bình Trọng, chiếc
xe hơi duy nhất chạy phía sau vẫn tiến thẳng đại lộ Thành Thái. Tôi đáp:
“Không! Không có xe nào theo mình cả.” Cha tôi ngồi bên cạnh, một tay chống lên
má, cúi đầu nhìn xuống mũi giầy. Ông có vẻ thật buồn. Má ông tôi thấy hóp hơn.
Cha tôi trở về thái độ đăm đăm khó hiểu có từ mấy ngày nay. Tóc ông bị rụng khá
nhiều trong những ngày sau cùng nhiều suy nghĩ, nom xơ xác, mấy sợi bạc phất lơ
phơ theo gió. Một lát, ông hơi giật mình ngẩng lên nhìn ra ngoài rồi bảo tôi:
“Sao không đi xe
Vespa của con?”
“Sợ cậu mệt, đi
xe con xóc lắm!”
Cha tôi nhăn mặt:
“Ối dào! Cần gì!” Ông yên lặng một lúc khá lâu rồi nói tiếp, giọng thật nhỏ
nghe như một tiếng thở dài: “Từ trước đến giờ cậu đã đi xe con lần nào đâu!”

