Nhân chứng có ba bộ mặt - Chương 07 - Phần 1

CÂY CẦU BẰNG THỦY TINH

ROBER TARTHUR

Chúng
tôi, gồm nam tước De Hirsch, trung úy Cảnh sát quốc gia Oliver Baynes và tôi,
đang nói về những vụ giết người không thể giải thích nổi. Nói cho đúng ra thì
đây là De Hirsch đang nói. Baynes và tôi chỉ có quyền nghe. Qua một chuỗi những
cuộc điều tra, tiến hành theo một trình tự không thể chê vào đâu được, người
Hung-ga-ri với chiếc mũi khoằm như mỏ đại bàng, đã khám phá năm sáu vụ
"nổi tiếng". Hồ sơ những vụ này đang được lưu trữ tại cơ quan Cảnh
sát với ghi chú: "Đang giải quyết".

De
Hirsch đôi khi cũng tỏ ra cáu giận. Ông quá tự tin vào bản thân, vào trí thông
minh, vào việc mọi người quý mến mình và đối với ông thì không có gì là bí mật
cả. Tôi vẫn muốn hỏi ông tại sao một người rất cẩn thận nhưng giày dép của ông
ta thường phải sửa, quần áo thường phải giặt giũ, phơi phóng. Tất nhiên tôi
không hỏi như vậy.

Oliver
Baynes bắt đầu cựa quậy. Baynes là một người béo lùn, lực lưỡng. Ông diễn đạt ý
kiến một cách chậm chạp không khác gì một người đang đau yếu. Nhưng đây là một
Cảnh sát xuất sắc - một trong những Cảnh sát tốt nhất.

Anh
uống cạn cốc bia - lúc này là tháng tám, buổi chiều rất nóng bức - và đưa tay
ra lấy thêm một hộp bia nữa. Anh nhìn về phía tôi.

-
Tại sao anh không hỏi bạn anh giải quyết vụ người phụ nữ tóc vàng đi tống tiền
như thế nào? - Anh nói với vẻ châm chọc kín đáo.

De
Hirsch tỏ ra ngạc nhiên. Cặp mắt đen của ông sáng lên, hai cánh mũi phập phồng.

-
Bí mật của người phụ nữ tóc và tống tiền ư? - Ông nói bằng giọng dịu dàng và
khiêm tốn.

Baynes
mở hộp bia và gạt bớt bọt đi.

- Mụ ta là Marianne Montrose. Khoảng giữa ba và
bốn giờ chiều ngày mười ba, tháng Hai vừa rồi mụ ta leo hai mươi bốn bậc cửa
đầy tuyết phủ vào một ngôi nhà trên đồi, cách đây năm chục ki-lô-mét. Mụ ta vào
trong nhà và không bao giờ trở ra nữa.

Baynes rót bia vào cốc, thổi bớt bọt trên cốc.

- Sau đó - Anh nỏi tiếp - chúng tôi đã lục soát
ngôi nhà. Không có một dấu vết nào, dù nhỏ. Xung quanh nhà, tuyết phủ dày lên
sáu mươi xăng-ti-mét. Không có một dấu vết nào chứng tỏ mụ đã ra khỏi nhà. Hơn
nữa, chủ nhà là người độc nhất sống trong nhà, đang bị đau tim. Ông không chịu
ra khỏi nhà để chữa trị mà cũng không đào sẵn một cái huyệt trong phòng ngủ để
tự chôn mình. Những vết chân đi vào trong nhà in rõ trên tuyết. Người ta đã
trông thấy mụ bước vào đây nhưng cũng không tìm thấy mụ ở trong nhà. Các ông
nói xem, đã có chuyện gì xảy ra đối với mụ?

De Hirsch nhìn chằm chằm vào Baynes.

- Anh nói rõ mọi tình tiết - Ông nói - Và tôi sẽ
cho anh biết...

Ông không nói "tôi sẽ cố gắng".

- Tôi sẽ làm công việc ghi chép - Tôi nói - Cuối
cùng thì chúng ta sẽ biết rõ sự thật. Và cái đó có thể cho tôi một bài báo mới.

Baynes uống bia mà không nói gì, mắt lim dim như
đang buồn ngủ. De Hirsch uống thêm một cốc nước khoáng nữa, vì chúng tôi đang
ngồi với nhau trong một căn nhà ở nông thôn. Tôi tới bàn giấy lấy tập hồ sơ về
Marianne Montrose ra. Hồ sơ rất đầy đủ. Tôi sẽ dùng nó để viết cho một tờ tạp
chí địa phương. Tôi đã tìm ra một đầu đề: "Người đẹp Marianne sẽ ra sao?"

- Ông muốn bắt đầu từ đâu? - Tôi hỏi - Đây là lời
khai của chàng trai Danny Gresham. Anh này là người nói chuyện với Marianne
trước khi mụ ta vào ngôi nhà và sau đó biến mất.

De Hirsch lấy tay gạt tờ giấy đánh máy ra rồi nói:

- Anh đọc giúp tôi - Ông ta nói một câu đáng mến.

Oliver Baynes khịt mũi như muốn bật cười, tôi lườm
anh ta rồi bắt đầu đọc:

Morgan's Gap, ngày mười ba, tháng Hai, ghi theo
lời khai của Danny Gresham, mười chín tuổi.

Tôi đang ở trong văn phòng tòa báo Weekly Sentinel
de Morgan's Gap và đang đọc bản in thử. Lúc ấy là ba giờ rưỡi chiều. Bên ngoài
nhiệt độ khoảng mười hai, mười ba độ dưới không độ. Đẹp trời. Tôi muốn gọi điện
thoại cho bạn gái của tôi là Dolly Hansome để đề nghị cô ấy cùng đi trượt
tuyết. Tuyết thật là đẹp. Cùng lúc ấy có một chiếc xe hơi mui trần chạy tới và
đậu bên vỉa hè.

Một phụ nữ ngồi trước vòng lái. Trông bà ta hơi
giống Dolly Hansome, nhưng già hơn. Bà ta có bộ tóc vàng trong chiếc khăn quàng
màu đỏ và vận một bộ đồ trượt tuyết cũng màu đỏ. Bà ta xuống xe và đứng nhìn
quả đồi và thung lũng một lúc. Trên đồi có ngôi nhà của ông Hillier, người
chuyên viết truyện trinh thám với bút danh là Eyrie, tức là cái tổ chim. Cái
tên đó rất phù hợp với ông Hillier vì nhà của ông ta ở chót vót trên đỉnh đồi.

Thoạt nhìn thì ngôi nhà ấy rất không phù hợp với
một người độc thân bị bệnh tim. Mùa hè muốn lên trên đó phải đi theo một đường
ngoằn ngoèo để đến phía sau nhà, nhưng mùa đông thì xe cộ chỉ có thể đậu ở cuối
bậc thềm mà thôi.

Điều đó có nghĩa là ông Hillier không thể rời khỏi
nhà từ khi tuyết bắt đầu rơi. Nhưng ông ta không hề bận tâm. Vào mùa thu, ông
đã trữ được mười hai ngàn lít dầu mazut và rất nhiều đồ hộp và ông ấy rất yên
tâm. Hàng ngày bà Hoff lên trên ấy để quét dọn và làm bếp. Hai mươi bốn bậc
thềm không làm cho bà già sợ hãi, kể cả người em rể của bà, ông Sam, cũng vậy.
Ông này là người dọn dẹp cầu thang và quét dọn tầng trệt.

Ông Hillier thích sự cô đơn, ông ta không muốn
giao tiếp với xã hội. Đó là một người cao lớn, mảnh khảnh, có bộ mặt dài vừa
chua cay vừa hách dịch. Ông đã viết được mười hai cuốn tiểu thuyết trinh thám
và giữ được nhiều bài báo nói về công việc của mình. Ông ta rất hài lòng về
những bài báo ấy, chúng đã làm cho ông được nổi tiếng về sự sắp xếp nội dung
các cốt truyện của mình.

Tuy nhiên năm năm trở lại đây ông thôi viết lách.
Tôi cho rằng ông đã thất vọng vì sách của mình không bán được.

Vâng, tôi xin nói về người phụ nữ.

Bà ta nhìn ngôi nhà sau đó quay lại đi vào văn
phòng tòa báo. Tôi vội vàng đón tiếp bà. Bà ta mỉm cười và chào tôi. Bà ta có
giọng nói ồm ồm làm người nghe sợ phát run lên. Bà ta hỏi tôi có phải là tổng
biên tập không. Tôi trả lời tôi chỉ giữ chức phó thôi. Sau đó bà ta xin phép
được dùng điện thoại. Có thể được thôi, tôi nói và đưa máy nối cho bà. Bà ta
xin máy của ông Mark Hillier. Tôi không có việc gì khác ngoài việc nghe bà ta
nói chuyện. Bà nói bằng một giọng khác thường:

"A-lô! Mark đấy ư? Marianne đây. Tôi gọi cho
ông từ trong làng. Tôi hi vọng là ông đợi tôi, và ông biết, Mark thân yêu -
trong trường hợp mà bộ óc tài giỏi của ông không nghĩ ra được một câu chuyện
chưa hề xuất bản - thì từ văn phòng tòa báo tôi sẽ tới thăm ông. Tôi sẽ tới nơi
sau đây mười phút nữa."

Bà ta gác máy và nói bằng giọng cảm động:

- Mark không thích tôi. Đây là một người cực kì
thông minh, ông ta sẽ giết tôi nếu ông ta thấy mình không bị trừng phạt. Nhưng
đây lại là một chuyện khác. Trong mọi trường hợp, nếu tôi không trở lại đây,
ông sẽ báo tin cho Cảnh sát, đúng không? Nếu không, tôi sẽ quay lại để nói mọi
việc đã diễn ra tốt đẹp.

Bà ta lại mỉm cười và tất nhiên tôi trả lời rằng
bà ta có thể tin ở tôi và, trong trường hợp xấu, tôi sẽ cử người đi tìm bà. Tôi
cảm thấy bị kích thích mạnh, cái này rất giống với một cuốn truyện trinh thám
của ông Hillier. Tuy nhiên tôi cho rằng bà ta chỉ nói cho vui thôi. Nhưng tôi
cũng ra cửa sổ để chứng kiến sự ra đi của bà ta.

Bà ta nổ máy và một phút sau tôi thấy chiếc xe hơi
của bà chạy tới quả đồi có ngôi nhà của ông Hillier. Ở sườn đồi có một tốp trẻ
con đang chơi trò trượt tuyết, ngồi trên xe lăn hoặc những chiếc chậu to bằng
nhôm. Tôi muốn gọi dây nói cho Dolly Hansome để cùng ra chơi với chúng. Nhưng ý
định của tôi không thành. Tôi thấy chiếc xe mui trần đã chạy tới bậc thềm.
Người phụ nữ đỗ xe và bắt đầu trèo lên từng bậc để lên ngôi nhà, cánh cửa ra vào
mở to. Bà ta bước vào và cửa đóng lại sau lưng bà.

Trong buổi chiều còn lại ấy, tôi vừa làm việc vừa
nhìn ngôi nhà của ông Hillier. Trời bắt đầu tối. Người phụ nữ ấy vẫn không trở
ra.

(Danny Gresham khai đến đây là hết.)

Tôi nhìn ông De Hirsch, ông ngồi ngả lưng trên
ghế, đầu ngả ra như đang ngắm trần nhà.

- Đoạn vào đầu rất thú vị cho một vụ giết người -
Ông nói và nhìn tôi với vẻ hạ cố - Lúc này thì tôi chưa có kết luận nào. Yêu
cầu anh đọc tiếp.

Tôi đọc:

Morgan's Gap, ngày mười bốn, tháng Hai, ghi theo
lời khai của viên Cảnh sát Harvey Redman.

Hôm qua, vào lúc năm giờ ba mươi chiều, anh Danny
Gresham chạy đến văn phòng của tôi. Anh ta khai rằng có một phụ nữ trẻ, đẹp đã
tới gặp ông Hillier và có thể người ấy đã gặp nguy hiểm. Thoạt tiên, tôi cho
rằng anh ta đã hoang tưởng, nhưng anh ta đã kể lại mọi tình tiết và tôi quyết
định đến tận nơi xem xét. Khi viết truyện trinh thám thì người ta có thể bỏ qua
một số việc làm cụ thể.

Tôi mang theo đèn pin và hai chúng tôi ngồi lên
một chiếc xe cũ. Chúng tôi đến nhà ông Hillier vào khoảng sáu giờ. Đúng là
chiếc xe mui trần của bà Montrose còn đậu ở đấy. Và Danny đã chỉ cho tôi xem
những vết giày của phụ nữ trên những bậc thềm.

Chỉ có những dấu giày đi lên, không có những dấu
đi xuống.

Vậy có lí do để nói bà ta vẫn còn ở trên nhà.

Chúng tôi theo những bậc thềm để lên nhà; tránh
không làm mất dấu giày cũ. Với vẻ ngạc nhiên, ông Hillier dẫn chúng tôi vào
trong nhà. Tôi nhắc lại những lời người phụ nữ ấy nói với Danny rồi hỏi ông ta
người phụ nữ ấy hiện ở đâu, ông Hillier bật cười.

- Tôi sợ rằng cô Montrose ấy đã giễu cợt các ông -
Ông ấy nói - Cô ta đã rời khỏi đây vào lúc tối. Cách đây chừng một tiếng đồng
hồ.

- Ông Hillier - Tôi bảo ông ta - Có những vết giày
đi lên. Không có vết nào đi xuống cả. Hơn nữa, chiếc xe hơi vẫn đậu ở chỗ cũ.

- Trời! Thật là lạ lùng! - ông Hiỉlier nói cũng
vẫn với vẻ cười cợt.

- Đúng đây là điều tôi nghĩ - Tôi trả lời - Do đó
tôi hỏi ông bà ta hiện ở đâu?

- Tôi không biết gì cả! - Ông ta cãi lại và nhìn
thẳng vào mắt tôi - Ông Cảnh sát, tôi sẽ thành thật với ông: người đàn bà ấy là
một mụ tống tiền. Mụ tới đây để nhận một khoản tiền cống nạp của tôi là một
ngàn đô-la. Tôi đã giao tiền cho mụ ta. Sau đó mụ ra về. Đó là tất cả những gì
tôi biết. Tôi khẩn khoản yêu cầu ông lục soát kỹ ngôi nhà xem có dấu vết gì về
sự có mặt ở đây của mụ ta không, hoặc về hành động nào đó của tôi chống lại mụ
ta không. Tôi yêu cầu phải đưa vụ này ra ánh sáng.

Danny và tôi đã đã lục tung ngôi nhà. Ngồi bên lò
sưởi trong phòng làm việc, ông Hillier hút thuốc đợi kết quả công việc của
chúng tôi.

Không khó khăn gì lắm trong việc tìm kiếm. Nhà có
sáu phòng cùng trên một mặt bằng. Ở kho đồ cũ, ở tầng hầm không có dấu vết gì.
Ở lò sưởi trung tâm chỉ có một ít tro. Nền nhà xây bằng xi-măng. Tường đôi có
tấm cách nhiệt.

Người đàn bà trẻ không có ở trong nhà. Cũng không
có gì chứng tỏ là bà ta đã bước chân vào nhà. Không có dấu vết vật lộn, cũng
không có một vết máu nào.

Tôi và Danny ra khỏi nhà. Xung quanh ngôi nhà
tuyết rất dày. Ở tầng trệt phía bắc sáng hôm nay tuyết đã được xúc đi bằng
xẻng, nay chỉ còn một lớp tuyết mỏng. Không có dấu vết nào mà không nhìn thấy
được. Bên ngoài tuyết phủ đầy đặc trên sườn đồi một vùng cách ngôi nhà đến bốn
trăm mét. Danny bỏ cuộc. Không một ai đi trên tuyết mà không để lại dấu vết.

Chúng tôi quan sát nhà để xe, lục soát chiếc xe,
nhất là thùng xe cũng không thấy dấu vết của người đàn bà trẻ. Đúng là bà
Montrose đã ra đi.

- Các ông tin chắc là tôi không nói dối chứ? Các
ông làm cho tôi vui mừng - Ông Hillier cười khúc khích - Chắc chắn là tôi không
giết và giấu xác của mụ ta, ít nhất là tôi đã không xây một chiếc cầu bằng
tuyết để đưa xác mụ ta ra khỏi quả đồi này.

- Tôi không hiểu!

- Xem nào, ông Cảnh sát, ông đọc các tiểu thuyết
trinh thám kinh điển rồi chứ. Môt trong những chuyện hay nhất kể về một kẻ giết
người bằng con dao thủy tinh. Sau đó hắn ném dao vào thùng nước khiến nó trở
thành không nhìn thấy được và không ai tìm thấy nó. Có thể là tôi đã tạo ra một
cây cầu bằng thủy tinh - nó cũng không thể nhìn thấy được. Một giả thiết khác:
có một chiếc đĩa bay đã tới đây nhặt xác mụ ta đi. Không có tiếng động, không
ai nhìn thấy.

- Tôi thấy ông không coi vụ này là nghiêm trọng,
ông Hillier - Tôi nói - Cá nhân tôi, tôi không đồng ý với ông. Tôi sẽ báo tin
cho cảnh sát Liên bang.

Và tôi đã làm đúng như vậy. Họ là người tìm xác
của người phụ nữ ấy. Lúc này tôi còn nhiều việc khác phải làm.

(Cảnh sát Harvey Redman khai đến đây là hết.)

Tôi khản giọng. Tôi ngừng đọc và uống một ngụm
bia. Ông De Hirsch mở mắt ra.

- Rất đầy đủ! Ông nhã nhặn nói - Anh là một điều
tra viên tuyệt vời, kể cả nếu trí tưởng tượng của anh không mấy phong phú. Tôi
cho rằng anh là người phụ trách vụ này, đúng không trung úy? - Ông nhìn Baynes
và hỏi.

- Đúng - Baynes càu nhàu - Nhưng sau các thanh tra
Reynolds và Rivkin. Họ đã tiến hành lục soát một lần nữa. Kết quả vẫn như kì
trước. Lúc này tôi mới vào cuộc. Tôi thừa hưởng mọi khó khăn. Lúc này mà thẩm
vấn Hillier thì chẳng khác gì hỏi con mèo đã làm gì với con chuột. Ông ta nhắc
lại mình đã bị tống tiền trong nhiều năm do một sai phạm đã mắc phải. Mụ
Montrose biết chuyện này. Từ đó hàng năm ông phải nộp cho mụ một ngàn đô-la.
Tôi liên hệ với New York. Đúng là mụ Montrose ở trong một nhóm tống tiền. Chắc
chắn câu chuyện ông ta phải nộp tiền cho mụ là có thật. Tôi đi hỏi ở ngân hàng
địa phương. Đúng là ông Hillier đã rút khoản tiền một ngàn đô-la trước đó.

Tôi quan sát xung quanh nhà và cũng rút ra kết
luận như viên Cảnh sát và các thanh tra làm việc này trước tôi. Một lớp tuyết
thì không chịu nổi sức nặng của một người. Nếu là trượt tuyết thì phải có dấu
vết để lại. Hay là xác người được chuyển bằng cầu cạn. Nhưng trong nhà không có
vật gì giống cầu cạn cả. Sáng hôm đó bà Hoff đã quét dọn sạch sẽ. Bà già cũng
xuống nhà xe để lấy một vài thứ lặt vặt. Bà nói mình không thấy ở đấy có vật gì
giống chiếc cầu cạn cả. Bà thề rằng mình chưa bao giờ nghe thấy một câu chuyện
lạ lùng đến như vậy. Mặt khác, mấy hôm đó ông Hillier không gọi dây nói đi đâu
cả. Tôi đã kiểm tra việc này ở Sở bưu điện.

Phải tưởng tượng như thế nào? Người phụ nữ ấy đi
ra bằng cách nào? Tôi đã cho bốn người dùng xe trượt tuyết đi xung quanh vùng
này. Một bán kính khoảng bốn trăm mét. Họ cũng không tìm ra một dấu vết nào.
Tôi tin chắc không có một nơi nào để giấu xác mụ cả.

Hillier thì tỏ ra vui mừng. Ông ta cho các nhà báo
tới phỏng vấn. Ông ta tặng sách của mình cho họ. Ông ta như trẻ lại đến mười
tuổi; ông cười đùa như một thằng điên.

Ông Charles Fort đã viết một cuốn sách nói về
những vụ mất tích bí mật. Ông ta nói về sự biến mất bằng đĩa bay. Chắc rằng ông
ta cũng phải bó tay trong vụ này.

Cuối cùng chúng tôi phải xếp vụ này lại. Tất cả
những gì chúng tôi nắm được là: một phụ nữ đã đi trên những bậc thềm để vào
trong nhà sau đó người ấy biến mất. Còn phải đợi thêm những sự kiện.

Rồi đến tháng sáu..

Oliver Baynes ngừng nói để uống cạn cốc bia.

Ông De Hirsch nhấc cái đầu nặng nề của mình lên.

- Đến tháng sáu thì người ta tìm thấy xác người ư?

- Đúng - Anh trả lời - Đến tháng sáu thì mụ
Marianne chuyển từ kiểu bí mật này sang một kiểu bí mật khác. Ông biết không?

Nhưng ông De Hirsch đã giơ tay lên.

- Hãy để cho anh Bob đọc tiếp tài liệu của mình.
Tôi biết anh ấy đang soạn thảo một bài báo giật gân. Tôi thường đọc các bài báo
của Bob.

Tôi đọc:

Morgan's
Gap, ngày ba, tháng sáu. Ghi theo lời kể của Willy Johson, mười một tuổi và
Ferdie Pulver, mười tuổi.

Báo cáo nội dung xấu