Giao Lộ Sinh Tử - Chương 02 - 03

CHƯƠNG
2

Từ mặt đường nhựa sang mặt đường trải bê
tông, từ mặt đường trải bê tông lên bãi cỏ, dọc theo ngôi nhà nằm bên kia
đường, từ chỗ bà Sanchez xuyên qua sân sau, đến hàng rào sắt, rồi nhảy qua, sau
đó băng qua một lối nhỏ, trèo lên bức tường gạch, Harlo Landerson hết chạy đến
leo, rồi nhảy xuống.

Tôi tự hỏi hắn ta đang đi đâu. Hắn ta không
thể thoát khỏi tôi hay công lí và chắc chắn không thể thoát khỏi con người thật
của hắn.

Xa xa bức tường gạch có một mảnh sân,
một hồ bơi. Lốm đốm ánh ban mai và bóng cây, mặt nước chập chờn sắc xanh lan
tỏa từ màu ngọc bích sang ngọc lam, như thể một mẩu đá quý do bọn hải tặc khuất
núi từ lâu để lại.

Ở phía xa của hồ bơi, sau cánh cửa kéo
bằng kính, một phụ nữ trẻ đứng đó trong bộ pyjama, tay cầm chiếc cốc to chứa
thứ nước giúp cô có dũng khí đối mặt với ngày mới.

Khi phát hiện ra đối tượng quan sát hốt
hoảng kia, Harlo chuyển hướng về phía cô ta. Có lẽ hắn nghĩ mình cần một người
che chắn, một con tin. Dù gì đi nữa hắn ta đâu có tìm kiếm cà phê.

Tôi bám sát nút, túm lấy áo, kéo giật
hắn ngã chổng kềnh. Hai chúng tôi rơi ngập vào phần hố sâu.

Nhờ cái nóng của vùng sa mạc vào ngày hè
nên nước hồ bơi không lạnh. Hàng ngàn bọt nước như những cơn mưa đồng xu bạc
lung linh phóng tới tấp trước mắt tôi, kêu ùng ục bên tai tôi.

Vùng vẫy, chúng tôi chạm tới đáy hồ,
trong lúc trồi lên, hắn đá, hắn quất. Bằng khuỷu tay, đầu gối hoặc bàn chân,
hắn tấn công vào cổ họng tôi.

Dù lực cản của nước đã làm giảm đi phần
lớn sức mạnh trong cú đánh đó nhưng tôi vẫn thở dốc, nuốt ực và nghẹt thở với
vị clo thoảng mùi dầu thoa làm nâu da. Nới lỏng nắm tay khỏi Harlo, tôi trở mình
chậm rãi xuyên qua bức màn dập dờn màu lục nhạt, lam thẫm rồi phá tan bề mặt
thành hàng ngàn vạt nắng.

Tôi ở giữa hồ còn Harlo ở ngay bờ. Hắn
chộp lấy gờ tường và đu người lên thành hố xi măng.

Ho sặc sụa, xì nước cho thông mũi, tôi
lội bì bõm đuổi theo hắn. Trong vai vận động viên bơi lội, tôi có khả năng đi
thi đấu Olympic thì ít mà khả năng chết đuối thì nhiều.

Vào một đêm tẻ ngắt năm tôi mười sáu
tuổi, tôi thấy mình bị buộc vào hai xác chết và bị ném khỏi thuyền trên hồ Malo
Suerte. Kể từ đó trở đi, tôi đâm ra ác cảm đối với các môn thể thao dưới nước.

Chiếc hồ nhân tạo ấy nằm tận bên kia
ranh giới của thị trấn Pico Mundo. Malo Suerte có nghĩa là “vận đen”.

Được xây dựng trong thời kì Đại Khủng
hoảng[3], giữ vai trò là dự án của Ban Xúc tiến Sự vụ, chiếc hồ lúc đầu được
đặt theo tên một chính trị gia ít tiếng tăm. Cho dù người ta có cả ngàn câu
chuyện xung quanh thứ nước cứ luôn thay đổi trong hồ, nhưng không một ai ở vùng
đó có thể đoán chắc rằng khi nào và tại sao hồ này được chính thức đổi tên là Malo
Suerte.

[3]
Đại Khủng hoảng (Great Depression): năm 1929 đến 1930.

Tất cả hồ sơ liên quan đến hồ này đã
biến thành vụ tro trong vụ cháy trụ sở tòa án năm 1954, thời điểm một người đàn
ông tên Mel Gibson phản đối lệnh tịch biên lai tài sản do không đóng thuế. Phản
kháng của ông Gibson mang hình thức tự hi sinh tính mạng.

Ông ta không bà con thân thích gì với
nam tài tử người Úc trùng tên, người mấy thập kỷ sau nổi lên thành ngôi sao
điện ảnh. Quả thực theo toàn bộ những lời đồn đại thì ông Gibson kia không có
tài mà cũng chẳng có ngoại hình thu hút.

Lúc này đây, vì không bị đè nặng bởi hai
xác chết, nên tôi chạm được thành hồ sau vài sải tay mau lẹ. Tôi nhấc bổng thân
người lên khỏi mặt nước.

Đến bên cánh cửa trượt, Harlo Landerson
mới phát hiện cửa khóa trái. Người phụ nữ mặc pyjama đã biến mất.

Khi tôi lồm cồm đứng lên và định di
chuyển, Harlo lùi ra xa cánh cửa để lấy đà. Sau đó hắn chạy tới đưa vai trái ra
phía trước, rúc đầu xuống.

Tôi cau mày chờ đợi cảnh tượng máu bắn
tung tóe, chân tay đứt lìa, đầu bị mảnh kính chém phăng.

Dĩ nhiên tấm kính có độ an toàn đó vỡ
tan thành một rừng những mảnh vụn bám dính. Harlo xộc vào nhà với tứ chi nguyên
vẹn và cái đầu vẫn dính trên cổ.

Kính vỡ kêu lạo xạo, leng keng dưới đế
giày khi tôi bám theo gót hắn. Tôi ngửi thấy mùi cháy khét.

Chúng tôi đang có mặt tại phòng khách.
Tất cả vật dụng đều hướng về phía chiếc tivi màn hình rộng to bằng hai cái tủ
lạnh.

Phần đầu khổng lồ của cô nàng phát thanh
viên trên chương trình Today trông thật khiếp khi phóng to như thế. Ở trên kích
thước này, nụ cười tươi tắn trên môi cô ta chứa đựng sự hăm hở như cá nhồng nhe
răng. Đôi mắt lúng liếng có độ lớn bằng quả chanh dường như đang ánh lên vẻ
điên cuồng.

Theo sơ đồ tầng nhà thoáng đãng này,
phòng khách dẫn thẳng vào bếp, xen giữa chỉ có một quầy bếp để dùng điểm tâm.

Người phụ nữ chọn vị trí chống cự trong
bếp. Một tay cô ôm chặt điện thoại tay kia cầm dao phay.

Harlo đứng ngay khoảng giữa hai gian
phòng, cố nghĩ xem cô vợ nội trợ hơn hai mươi tuổi đang mặc bộ pyjama kiểu thủy
thủ cực xinh kia thật sự có gan moi ruột hắn không.

Cô ta vừa huơ dao vừa hét vào điện
thoại. “Hắn ở trong nhà, hắn ở ngay đây này!”

Sau lưng cô, bên kia bếp, khói bốc lên
từ lò nướng bánh. Bột nở đã hỏng. Mùi bốc lên như dâu tây trộn với cao su cháy.
Người phụ nữ đang trải qua một buổi sáng tệ hại.

Harlo ném một chiếc ghế đẩu vào tôi và
chạy ra khỏi phòng khách, hướng về phía cửa trước của ngôi nhà.

Cúi đầu né chiếc ghế, tôi lên tiếng,
“Thưa cô, tôi xin lỗi về mớ hỗn độn này,” rồi tôi đi tìm kẻ đã giết Penny.

Phía sau tôi người phụ nữ hét lớn,
“Stevie, khóa cửa phòng con lại! Stevie khóa cửa phòng con lại.”

Lúc tôi đến chân cầu thang trong phòng
ngủ, Harlo đã leo tới đầu cầu thang.

Tôi hiểu ra lí do hắn lên đây thay vì
chạy thoát khỏi ngôi nhà. Trên tầng hai có một cậu bé mắt tròn to, khoảng năm
tuổi, mặc độc chiếc quần lót đang đứng đó. Nắm một chân con gấu bông xanh
dương, cậu bé trông yếu ớt như chú cún con bị bỏ rơi giữa làn đường cao tốc tấp
nập.

Một con tin hoàn hảo.

“Stevie, khóa cửa phòng con lại!”

Thả rơi con gấu bông xanh dương, cậu bé
ù té chạy trốn vào phòng.

Harlo nhảy bổ lên cầu thang tầng hai.

Hắt hơi bởi thứ nước do làm ngứa mũi và
mùi mứt dâu cháy khét, người ướt sũng, tôi trèo lên cầu thang với tinh thần quả
cảm kém hơn cả John Wayne trong phim Sand of Iwo Jima.

Tôi sợ hãi hơn kẻ tôi đang truy đuổi vì
tôi còn có nhiều thứ để mất, nhất là Stormy Llewellin và chuyện tương lai hai
đứa tôi bên nhau như chiếc máy bói toán đã hứa hẹn. Giả sử tôi đụng độ với anh
chồng và trong tay anh ta có súng thì anh sẽ không hề do dự bắn xối xả vào tôi
cũng như Harlo.

Phía trên, cánh cửa đóng sầm lại. Stevie
đã làm theo lời mẹ bảo.

Theo truyền thống vào ngày Chủ nhật sau
Lễ Phục sinh nếu có trong tay một bình kim loại chì đang sôi, Harlo Landerson
sẽ đổ lên người tôi. Thay vì thế, hắn đẩy cho tôi một tủ chén đĩa nằm ở hành
lang tầng hai, đối diện đầu cầu thang.

Tôi nhảy khỏi mấy bậc thang, đu lên tay
vịn, ngạc nhiên phát hiện ra mình có được sự nhanh nhảu và tài giữ thăng bằng
như khỉ, dù là một con khỉ sũng nước. Cái bẫy ì ạch rơi xuống từng bậc thang,
các ngăn kéo cứ bật mở toang hoác rồi đóng ập lại hết lần này đến lần khác, như
thể trong tủ chén ấy chứa đựng linh hồn của một con cá sấu.

Rời khỏi tay vịn, leo tiếp mấy bậc
thang, tôi lên tới hành lang tầng hai khi Harlo bắt đầu đạp cửa phòng cậu bé.

Thấy tôi tiến đến, hắn càng đạp nhanh
hơn. Gỗ vỡ vụn với một tiếng rắc khô khốc và cánh cửa mở tung.

Harlo xông vào như thể hắn bị một cơn
lốc năng lượng hút khỏi hành lang.

Lao qua ngưỡng cửa, đẩy cánh cửa đang
đung đưa sang bên, tôi thấy cậu bé cố chui vào gầm giường, còn Harlo đang ghì
chặt chân trái cậu bé.

Tôi vồ lấy cây đèn ngủ hình chú gấu trúc
tươi cười trên cái bàn đỏ ngay đầu giường và đập mạnh lên đầu Harlo. Trận tàn
sát của những mảnh gốm sứ từ đôi tai vểnh màu đen, khuôn mặt trắng rạn nứt, bộ
móng đen và vòng bụng trắng núc ních quét qua khắp căn phòng.

Ở một thế giới có hệ sinh thái và các
định luật vật lí tuân theo độ chính xác tuyệt đối mà các nhà khoa học đã gán
cho chúng thì lẽ ra Harlo sẽ gục xuống bất tỉnh ngay đơ hệt như cây đèn tan tác
kia. Nhưng thật không may đây không phải cái thế giới ấy.

Hệt như kiểu tình thương khiến những
người mẹ hóa điên có sức mạnh siêu phàm nâng bổng được cả chiếc xe hơi lộn
ngược để giải thoát cho đứa con bị giam giữ, sự đồi bại đã cho Harlo ý chí hứng
chịu cú đánh của gấu trúc mà không hề hấn gì. Hắn bỏ Stevie ra và vồ lấy tôi.

Tuy cặp mắt của Harlo không có hai đồng
tử thu nhỏ nhưng chúng vẫn nhắc tôi nhớ đến cặp mắt của một con rắn, lóe sáng
mưu đồ thâm độc và cho dù mấy chiếc răng để lộ không hé ra cái răng nanh dài
sọc hay cong vút nào, nhưng tình trạng lên cơn của một con chó dại vẫn ẩn hiện
trong tiếng gầm gừ khe khẽ của hắn.

Đây không phải người bạn tôi quen thời
phổ thông cách đây chỉ mới vài năm, cũng không phải anh chàng bẽn lẽn tìm thấy
phép lạ và ý nghĩa trong việc kiên nhẫn phục chế chiếc xe Pontiac Firebird.

Đây là một linh hồn bệnh hoạn và méo mó
gai góc và thối rữa, một linh hồn có lẽ vừa mới thoát khỏi chốn giam cầm khuất
sâu trong mê cung tâm trí của Harlo. Nó đập tan những chấn song của tế bào và
vượt qua thành lũy canh giữ hạ bệ người mang tên Harlo và hiện nắm quyền thống
trị.

Được giải thoát, Stevie cuống cuồng bò
ngay vào gầm giường. Thế nhưng không có chiếc giường nào che chở tôi và không
có tấm chăn nào để tôi trùm kín đầu.

Tôi không nhớ thật rõ những phút tiếp
sau đó. Tôi và hắn lao vào tấn công khi có cơ hội. Chúng tôi vớ lấy bất cứ thứ
gì có thể làm vũ khí, huơ lên rồi nắm. Một loạt cú đánh tới tấp khiến cả hai
lảo đảo ôm ghì đối phương, tôi cảm nhận hơi thở nóng hổi của hắn phả vào mặt,
nước bọt văng ra và nghe thấy tiếng hàm răng nghiến ngấu. Hắn cắn vào tai phải
của tôi, cơn hoảng loạn đã dồn ép phải dùng đến thủ đoạn của một con quái thú.

Tôi vùng thoát, xô mạnh hắn ra bằng cách
hất khuỷu tay vào dưới cằm và định lên gối vào hạ bộ hắn nhưng không trúng.

Tiếng còi hụ vang đến và mẹ Stevie xuất
hiện ở chỗ cánh cửa mở toang con dao phay lóe sáng. Hai chiến sĩ: một người
trong trang phục pyjama, người kia mặc đồng phục hai màu xanh và đen của Sở
Cảnh sát thị trấn Pico Mundo đang trong tình trạng sẵn sàng.

Harlo không thể thoát khỏi tôi và người
phụ nữ cầm vũ khí kia. Hắn không thể bắt Stevie, tấm chắn bảo vệ hắn mong có
được vì cậu bé đã nằm dưới gầm giường. Còn nếu lao qua cửa sổ và trèo lên mái
ngói ngoài hiên trước thì hắn sẽ rơi thẳng vào vòng vây của cảnh sát đang đến.

Tiếng còi hụ vọng lại lớn hơn, gần hơn,
Harlo trở vào một góc phòng, đứng rùng mình thở hổn hển. Hai tay siết chặt vào
nhau, gương mặt hắn tái nhợt với vẻ thống khổ. Hắn nhìn mặt sàn, bốn bức tường,
trần nhà, không phải với bộ dạng một kẻ sập bẫy đang ước tính cỡ của cái lồng
giam giữ mà với nét hoang mang như thể hắn không nhớ ra tại sao hắn lại có mặt
tại đây và rơi vào thế bí này.

Khác với bọn quái thú chốn rừng rú,
những giống yêu tinh tàn bạo đội lốt người, khi bị dồn vào chân tường, hiếm khi
chúng tấn công dữ tợn hơn. Thay vào đó chúng bộc lộ tính hèn nhát nằm sâu thẳm
bên trong hành động hung ác của chúng.

Đôi tay siết chặt của Harlo vặn vẹo tách
rời ra và ôm lấy mặt. Qua kẽ hở giữa mười ngón tay, tôi có thể thấy cặp mắt của
hắn giật giật vì khiếp sợ.

Lưng ép sát vào góc phòng, hắn trượt
người dọc theo chân tường, ngồi xuống sàn và xoạc chân ra trước mặt. Hắn cố
giấu khuôn mặt sau đôi tay, như thể đôi bàn tay hắn là mặt nạ hóa phép tàng
hình giúp hắn thoát khỏi sự trừng phạt của công lí.

Còi hụ rền vang hết cỡ cách đó chỉ một
nửa khu nhà và rồi âm lượng của nó giảm từ tiếng gào thét đến tiếng gầm gừ và
xuống còn tiếng rên yếu ớt ngay trước ngôi nhà.

Ngày mới vừa bắt đầu chưa đầy một giờ
đồng hồ và từng giây từng phút của buổi sáng nay, tôi đã cư xử đúng theo tên
gọi của mình.

CHƯƠNG
3

Hồn người chết không nói chuyện. Tôi
không biết tại sao.

Harlo Landerson bị các nhân viên chức
trách giải đi. Trong ví của hắn, người ta tìm thấy hai bức ảnh chụp Penny
Kallisto. Tấm hình đầu tiên, cô bé trần trụi và còn sống. Tấm hình thứ hai, cô
bé đã chết.

Stevie ở dưới nhà, trong vòng tay của mẹ
cậu bé.

Wyatt Porter, cảnh sát trưởng ở Sở Cảnh
sát thị trấn Pico Mundo, yêu cầu tôi chờ trong phòng Stevie. Tôi ngồi xuống mép
chiếc giường chưa sắp xếp ngăn nắp của cậu bé.

Tôi ngồi một mình không lâu thì Penny
Kallisto đi xuyên qua tường và ngồi xuống cạnh tôi. Vết dây buộc đã biến mất
khỏi cổ cô bé. Trông em như chưa bao giờ bị siết cổ, chưa bao giờ phải chết.

Như trước giờ, cô bé vẫn câm lặng.

Tôi thường tin vào kiến trúc truyền
thống của dương thế và cõi âm. Thế giới này là một cuộc hành trình để khám phá
và rửa tội. Thế giới bên kia gồm có hai đích đến: một nơi là cung điện dành cho
linh hồn và vương quốc vô tận những điều kì diệu lạnh lẽo, tối tăm và không thể
hình dung nổi.

Bạn cứ việc nghĩ tôi là kẻ ngớ ngẩn.
Những người khác đều nghĩ thế cả.

Stormy Llewellin, một thiếu nữ có quan
điểm độc đáo, lại tin rằng chuyến đi xuyên suốt thế giới này của chúng ta nhằm
mục đích tôi luyện cho chúng ta vững vàng hơn vào kiếp sau. Nàng bảo tính trung
thực, chính trực, dũng cảm và cương quyết chống lại cái ác của chúng ta sẽ được
đánh giá vào phút cuối chúng ta có mặt trên thế giới này, và nếu được duyệt,
chúng ta sẽ gia nhập vào đội quân những linh hồn, tham gia một nhiệm vụ cao cả
nào đó ở thế giới bên kia. Những ai không vượt qua cuộc sát hạch xem như không
sống tiếp nữa.

Tóm lại, Stormy xem cuộc đời này như
trại huấn luyện binh lính. Nàng gọi kiếp sau là “giai đoạn tại ngũ”.

Tôi hi vọng nàng đã nhầm, bởi lẽ một
trong những hàm ý của thuyết vũ trụ nàng đưa ra đó là rất nhiều nỗi kinh hoàng
chúng ta biết đến ở đây chính là sự tiêm chủng phòng ngừa tình trạng tồi tệ ở
thế giới bên kia.

Stormy nói những điều chúng ta trông đợi
ở kiếp sau sẽ bõ công chúng ta nhẫn nại ở kiếp này, một phần vì chuyến phiêu
lưu nhưng chủ yếu do phần thưởng dành cho giai đoạn tại ngũ sẽ đến vào kiếp
sống thứ ba.

Về phần mình, tôi thích nhận phần thưởng
vào thời điểm sớm hơn nàng dự đoán.

Nhưng Stormy thích trì hoãn việc hưởng
thụ. Nếu ngày thứ Hai nàng thèm soda kem, nàng sẽ chờ đến thứ Ba hoặc thứ Tư
mới uống một li. Nàng khăng khăng bảo rằng chờ đợi khiến li nước ngon hơn hẳn.

Quan điểm của tôi lại khác: nếu bạn
thích mê món soda kem, thứ Hai uống một li, thứ Ba uống thêm li nữa, thứ Tư
uống tiếp li khác.

Theo Stormy, nếu tôi sống theo triết lí
đó quá lâu, tôi sẽ trở thành một gã nặng tám trăm pao, đến lúc ngã bệnh phải
nhờ cần trục và đội thợ xây đến lôi ra khỏi nhà.

Nàng từng nói, “Nếu anh muốn bị bẽ mặt
với việc được chở đến bệnh viện trên xe tải sàn phẳng thì đừng hòng có chuyện
em ngồi lên cái bụng béo phị của anh như chú dế Jiminy ngồi trên lưng cá voi,
nghêu ngao ca bài ‘Khi bạn cầu nguyện một vì sao’ nhé.”

Tôi khá chắc chắn rằng trong bộ phim
hoạt hình Pinocchio của hãng Disney, chú dế Jiminy chưa bao giờ ngồi trên lưng
cá voi. Thực ra tôi còn ngờ vực cả chuyện chú dế đó chạm trán cá voi.

Tuy nhiên, nếu tôi đưa ra lời nhận xét
ấy với Stormy, nàng sẽ tặng tôi ánh mắt hình viên đạn ngụ ý rằng Anh ngớ ngẩn
đến mức hết thuốc chữa hay chỉ là đang giỡn? Nên tránh đến vẻ mặt đó nếu không
muốn sợ chết khiếp.

Vừa ngồi đợi trên mép giường của Stevie,
tôi vừa nghĩ rằng ngay đến Stormy cũng không thể làm tinh thần tôi phấn chấn
hơn. Quả thực, nếu bức hình Scooby-Doo cười toe toét in trên khăn trải giường
không làm tôi vui trở lại thì có lẽ chẳng điều gì giúp được.

Tôi vẫn cứ nghĩ mãi về chuyện Harlo mất
mẹ năm lên sáu tuổi, lẽ ra cậu ta phải là hình tượng gợi nhớ đến người mẹ, thế
nhưng cậu ta đã làm ô uế kí ức về mẹ mình.

Và rồi tôi nghĩ đến Penny: cuộc đời cô
bé kết thúc quá sớm, sự mất mát khủng khiếp đối với gia đình em, một nỗi đau
không nguôi làm thay đổi mãi mãi cuộc sống những người thân của em.

Penny đặt tay trái lên tay phải của tôi
và siết chặt an ủi.

Bàn tay em mang đến cảm giác thật như
tay của một cô bé còn sống, rắn rỏi, ấm áp. Tôi không hiểu tại sao cô bé lại
trở nên có thực đến thế đối với mình và tuy em đi xuyên tường nhưng em hiện hữu
trước mắt tôi và vô hình với mọi người.

Tôi ứa nước mắt. Đôi khi tôi vẫn khóc.
Tôi không xấu hổ với việc rơi lệ. Vào những lúc thế này, nước mắt giúp xua tan
các cảm xúc, nếu không chúng sẽ ám ảnh tôi, sự ám ảnh làm tôi đau lòng.

Ngay sau khi những giọt lệ long lanh đầu
tiên chỉ mới khiến mắt tôi nhòa đi chứ vẫn chưa kịp rơi xuống, Penny đã siết
chặt tay tôi trong đôi tay cô bé. Cô bé mỉm cười và nháy mắt như muốn nói:
Chuyện ổn rồi, anh Odd Thomas. Quên nó đi, tống khứ nó đi.

Người chết rất thông cảm cho những người
sống. Họ đi trước và biết hết những nỗi sợ hãi, nhược điểm, những hi vọng bế
tắc của chúng ta và việc chúng ta trân trọng thế nào thứ không thể kéo dài mãi
mãi. Họ thương xót chúng ta, tôi nghĩ thế, và quả thực họ nên thương xót chúng
ta.

Khi nước mắt tôi đã khô, Penny đứng nhổm
dậy, mỉm cười lần nữa và dùng tay vuốt lên ngược tóc tôi ra sau trán. Tạm biệt,
cử chỉ ấy dường như để nói lên điều đó. Cảm ơn và tạm biệt.

Cô bé băng qua căn phòng, xuyên tường,
đi vào không gian buổi sáng tháng Tám ở tầng nhà nằm phía dưới trên mảnh sân
trước, hay đi vào một lãnh địa khác tươi sáng rực rỡ hơn cả mùa hè tại thị trấn
Pico Mundo này.

Lát sau, cảnh sát trưởng Wyatt Porter
xuất hiện ngay cửa phòng.

Cảnh sát trưởng là một người đàn ông to
lớn nhưng diện mạo của ông không đáng sợ lắm. Với cặp mắt lồi và hai bên má
chảy xệ, khuôn mặt ông chịu ảnh hưởng của trọng lực trái đất nhiều hơn hẳn phần
cơ thể còn lại. Tôi thấy ông di chuyển nhẹ nhàng và quyết đoán nhưng qua hành
động và phong thái có vẻ ông gánh vác rất nhiều thứ nặng nề trên đôi vai rắn
chắc, vạm vỡ.

Nhiều năm qua, khi những ngọn đồi thấp
bao bọc thị trấn của chúng tôi được đục đẽo thành khu lân cận đầy các cư xá,
dân số bùng phát, và khi sự hèn hạ của một thế giới hiểm ác len lỏi vào nơi trú
ngụ cuối cùng của phép lịch sự, như thị trấn Pico Mundo, thì có lẽ cảnh sát
trưởng Porter đã chứng kiến quá nhiều hành động dối trá của con người. Có lẽ
gánh nặng ông chất trên vai là hàng đống kí ức ông muốn trút bỏ nhưng không
thể.

“Vậy là hai bác cháu mình lại gặp nhau,”
ông cất tiếng và bước vào phòng.

“Dạ phải,” tôi đồng tình.

“Cửa ngoài sân vỡ toang, đồ đạc tan
tành.”

“Đa phần không phải do con làm vỡ, trừ
cây đèn ngủ.”

“Nhưng con tạo ra tình huống dẫn đến
điều đó?”

“Dạ phải, thưa bác.”

“Tại sao con không đến chỗ bác, để bác
tìm cách khiến Harlo tự rơi vào bẫy?”

Trước đây chúng tôi đã hợp tác theo kiểu
đó.

“Cảm giác của con,” tôi đáp, “cho thấy
cần phải đối đầu với hắn ngay tức thì, có lẽ chẳng mấy chốc hắn sẽ lặp lại tội
ác.”

“Cảm giác của con.”

“Dạ phải, thưa bác. Đó chính là điều con
nghĩ Penny muốn truyền đạt. Sự khẩn nài lặng lẽ liên quan đến cô bé.”

“Penny Kallisto.”

“Dạ phải, thưa bác.”

Cảnh sát trưởng thở dài. Ông ngồi xuống
chiếc ghế duy nhất trong phòng: một chiếc ghế dành cho trẻ con, màu tím phủ lên
phần lưng ghế có thân mình và đầu của khủng long Barney. Trông như ông đang
ngồi trong lòng Barney. “Này con trai, con làm phức tạp cuộc đời của bác quá.”

“Họ làm phức tạp cuộc đời của bác và
cuộc đời của con còn phức tạp hơn của bác nhiều lắm,” tôi nói, có ý chỉ những
người đã khuất.

“Chắc rồi. Nếu là con, bác đã phát điên
lâu rồi.”

“Con cũng cho là thế,” tôi thừa nhận.

“Nghe này, Odd, bác muốn tìm cách giữ
con đứng ngoài tòa án, nếu sự việc diễn biến đến đó.”

“Con cũng muốn tìm cách.”

Ít người biết một vài bí mật kì lạ của
tôi. Chỉ duy có Stormy Llewellin biết tất cả.

Tôi muốn giấu tên, muốn có một cuộc sống
giản dị và êm ả, hay chí ít cũng giản dị ở chừng mực các linh hồn cho phép.

Cảnh sát trưởng cất giọng. “Bác nghĩ hắn
sẽ thú tội trước mặt luật sư của hắn. Có thể không cần xét xử. Nhưng nếu có mở
phiên tòa, phía cảnh sát của bác sẽ nói hắn mở ví lấy tiền chung cá độ cho con,
có thể là cá độ một trận bóng chày, và bức ảnh của Penny rơi ra.”

“Con có thể khiến mọi người tin chuyện
đó,” tôi quả quyết.

“Bác sẽ nói chuyện với Horton Barks. Anh
ta sẽ giảm thiểu tối đa sự liên quan của con khi đưa tin.”

Horton Barks là chủ biên của tờ Thời báo
hạt Maravilla. Hai mươi năm trước tại rừng Oregon, trong lúc bách bộ, ông ấy đã
dùng bữa tối với quái vật Big Foot, nếu bạn gọi đồ khô ăn liền và xúc xích đóng
hộp là bữa tối.

Tôi không biết chuyện Horton đã dùng bữa
tối với quái vật Big Foot có thật không hay đó chỉ là những gì ông ấy tuyên bố.
Theo trải nghiệm hàng ngày của tôi, tôi không thể ngờ vực chuyện Horton hay bất
kì ai kể rằng đã chạm trán với sinh vật lạ, từ người ngoài hành tinh cho đến ma
quỷ.

“Con ổn chứ?” cảnh sát trưởng Porter cất
giọng hỏi.

“Dạ tạm ổn. Nhưng con không muốn muộn
giờ làm. Giờ này là lúc quán ăn đông khách nhất.”

“Con còn làm
ở đó à?”

“Dạ.” Tôi
lấy ra cái điện thoại di động nho nhỏ kẹp ở thắt lưng khi nhảy xuống hồ bơi.
“Con vẫn làm bình thường.”

“Chắc chút
nữa bác sẽ ghé qua ăn một đĩa đầy ắp khoai tây và trứng.”

“Điểm tâm
phục vụ cả ngày,” đó là lời hứa trịnh trọng từ năm 1946 của Quán Vỉ nướng Pico
Mundo.

Cảnh sát
trưởng Porter đổi tư thế ngồi khiến khủng long Barney rên rỉ. “Này con định
suốt đời làm đầu bếp chế biến thức ăn nhanh à?”

“Dạ không.
Con đang nghĩ đến việc chuyển đổi sự nghiệp sang lĩnh vực lốp xe.”

“Lốp xe ư?”

“Có lẽ ban
đầu sẽ kinh doanh, sau đó đến tháo lắp. Ở Tire World, người ta luôn tạo cơ hội
việc làm.”

“Sao lại là
lốp xe?”

Tôi nhún
vai. “Ai cũng cần nó cả. Và đây là lĩnh vực con chưa biết, một thứ mới mẻ để
học hỏi. Con muốn xem sinh hoạt ở đó thế nào, sinh hoạt ở công ty kinh doanh
lốp xe.”

Chúng tôi
ngồi đó khoảng gần một phút không ai nói gì. Sau đó ông lên tiếng, “Và đó là
điều duy nhất con nghĩ đến cho tương lai sao? Ý bác là vụ lốp xe.”

“Công việc
bảo trì hồ bơi cũng có vẻ hấp dẫn. Với những cộng đồng mới kéo đến khắp quanh
đây thì ngày nào cũng sẽ xuất hiện hồ bơi mới xây.”

Cảnh sát
Porter trầm ngâm gật gù.

“Và hẳn sẽ
rất tuyệt khi làm việc tại sân chơi bowling,” tôi nói. “Nhiều khách mới cứ đến
rồi đi, không khí sôi động của các trận đấu.”

“Con sẽ làm
gì tại sân chơi bowling?”

“Trước hết
là trông coi mấy đôi giày cho thuê. Phải lau sạch chúng hay làm gì đó trước khi
cho người khác thuê tiếp. Rồi đánh bóng nữa. Bác phải kiểm tra dây buộc đều
đặn.”

Cảnh sát
trưởng gật đầu và chiếc ghế hình Barney màu tím kêu rít lên nghe giống tiếng
chuột hơn là tiếng khủng long.

Quần áo của tôi
gần khô hẳn nhưng chúng nhăn nhúm thảm thương. Tôi xem đồng hồ. “Con nên đi
thôi. Con phải thay đồ trước khi đến quán ăn.”

Cả hai chúng
tôi nhổm dậy.

Chiếc ghế Barney đổ sụp.

Nhìn đống đổ nát màu tím, cảnh sát
trưởng cất giọng, “Chuyện này có thể xảy ra khi con đánh nhau với Harlo.”

“Dạ phải,” tôi đáp.

“Bảo hiểm sẽ tính luôn vào phần kia.”

“Bao giờ mà chả có bảo hiểm,” tôi đồng
tình.

Chúng tôi đi xuống lầu, Stevie đang ngồi
trên ghế đẩu trong bếp, vui thích thưởng thức bánh nướng hương chanh.

“Bác xin lỗi bác đã làm gãy cái ghế
trong phòng ngủ của cháu,” cảnh sát trưởng Porter nói với cậu bé vì ông luôn là
người trung thực.

“Dù sao đó cũng chỉ là cái ghế cũ hình
Barney chán ngắt,” cậu bé lên tiếng. “Cháu bỏ xó món đồ hình Barney chán ngắt
ấy mấy tuần rồi.”

Cầm chổi và hốt rác, mẹ cậu bé Stevie đi
quét dọn những mảnh kính vỡ.

Cảnh sát trưởng Porter trình bày chuyện
cái ghế với mẹ Stevie, cô có ý bỏ qua xem như chuyện nhỏ, nhưng ông vẫn một mực
yêu cầu cô phải tìm ra giá tiền và cho ông biết.

Ông đề nghị chở tôi về nhà nhưng tôi
nói. “Với con cách nhanh nhất chỉ cần quay lại lối đi đã dẫn đến đây.”

Tôi rời khỏi nhà qua khoảng trống từng
là vị trí lắp cánh cửa bằng kính, đi vòng quanh hồ bơi thay vì lội bì bõm trong
đó, trèo lên bức tường gạch, băng qua một lối nhỏ, leo qua hàng rào sắt, đi qua
bãi cỏ quanh một ngôi nhà khác, băng qua phố Marigold Lane và trở về căn hộ nằm
phía trên ga-ra của mình.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3