Giao Lộ Sinh Tử - Chương 08 - 09
CHƯƠNG
8
Đôi mắt xám nhạt lu mờ, sưng húp đảo qua
các gian hàng, gần như tỏ ra kinh ngạc hệt một bệnh nhân mất trí đi khỏi bệnh
viện, thơ thẩn bước vào cái thế giới mà người đó không còn nhận ra, Gã Nấm cầm
theo những chiếc túi căng phồng sắm sửa từ hai khu cửa hiệu.
“Thứ màu vàng trên đầu gã là gì vậy?”
Stormy thắc mắc.
“Tóc.”
“Em tưởng đó là loại mũ người Do Thái
đội khi cầu nguyện.”
“Không, tóc đấy.”
Gã Nấm đi vào tiệm kem Burke &
Bailey.
“Bọn ông kẹ còn đi cùng gã không?”
Stormy hỏi.
“Không nhiều như khi nãy. Chỉ còn ba
tên.”
“Và bọn chúng cùng gã đi vào cửa tiệm
của em ư?”
“Ừ. Tất cả vào trong rồi.”
“Không tốt cho việc kinh doanh rồi,”
nàng dự báo điềm gở.
“Tại sao? Đâu có vị khách nào của em
nhìn thấy được bọn chúng.”
“Làm sao mà những linh hồn xấu xa, lén
lút, trơn tuột đó lại tốt cho việc kinh doanh chứ?” nàng phản đối. “Chờ đây
nhé.”
Tôi ngồi cùng con cá chép Nhật đang “ấy”
phía sau và cây kem ăn dở trên tay phải. Tôi không thấy ngon nữa.
Qua khung cửa sổ của tiệm Burke &
Bailey, tôi có thể thấy Gã Nấm ở quầy phục vụ. Gã nghiền ngẫm bảng thực đơn rồi
gọi kem.
Stormy không đích thân phục vụ gã mà
lượn lờ gần đó, phía sau quầy phục vụ, làm ra vẻ thờ ơ.
Tôi không thích nàng có mặt ở đó cùng
gã. Tôi cảm giác nàng đang gặp nguy hiểm.
Kinh nghiệm dạy tôi phải tin vào cảm
giác của mình nhưng tôi không đi vào trong đứng gác gần Stormy. Nàng đã yêu cầu
tôi ngồi chờ ngoài băng ghế. Tôi không có ý định chống đối nàng. Như hầu hết
nam giới, tôi thấy thật mất thể diện khi bị đá đít bởi một phụ nữ nặng chưa tới
một trăm mười pao sau bữa tối ngày Lễ Tạ ơn.
Nếu có cây đèn, vị thần và một điều ước,
tôi sẽ ước cho mình quay trở lại Tire World, trở lại không gian thanh bình của
phòng trưng bày với những lối đi có các vật thể hình tròn êm ái bằng cao su.
Tôi nghĩ đến ông Tom Jedd tội nghiệp vẫy
cánh tay xấu xí để chào tạm biệt khi nãy, và cuối cùng tôi quyết định ăn hết
cây kem. Không ai biết được khi nào mình bước đến cuối con đường. Biết đâu đây
là miếng cuối cùng của cây kem dừa anh đào sôcôla mà tôi có cơ hội nhấm nháp.
Khi tôi vừa ăn xong miếng cuối cùng,
Stormy quay lại ngồi cạnh tôi. “Gã mua mang về. Một vại kem hạt óc chó trộn
đường làm từ cây gỗ thích cùng một vại kem quýt sôcôla.”
“Những hương vị đó có mang ý nghĩa gì
không?”
“Chuyện ấy tùy anh quyết định. Em chỉ
báo anh biết thôi. Chắc chắn gã là một tên khốn cực kì quái đản. Em ước gì anh
quên béng gã đi.”
“Em biết anh không thể mà.”
“Anh có sứ mệnh làm vị cứu tinh, phải đi
giải nguy cho thế giới.”
“Anh không có sứ mệnh làm vị cứu tinh.
Anh chỉ có... món quà trời ban. Món quà này sẽ không rơi vào tay anh nếu anh
không có nhiệm vụ sử dụng nó.”
“Có lẽ đấy không phải món quà trời ban.
Biết đâu lại là lời nguyền.”
“Đó là món
quà trời ban.” Vỗ nhẹ vào đầu, tôi tiếp lời. “Anh vẫn còn giữ hộp đựng quà mà.”
Gã Nấm bước
ra khỏi tiệm Burke & Bailey. Ngoài hai giỏ hàng hóa, gã cầm thêm một túi
nhiều lớp cách nhiệt đựng kem.
Gã liếc sang
phải, nhìn sang trái rồi lại quay sang phải, như thể không nhớ rõ mình đã đến
đây từ hướng nào. Nụ cười loáng thoáng cố định như hình xăm trên môi gã rộng mở
trong giây lát và gã gật gù như thể vui vẻ tán thành điều gã tự nói với chính
mình.
Khi Gã Nấm
bắt đầu đi ngược trở lên phía thác nước, hai ông kẹ hộ tống theo sau. Tạm thời
tên ông kẹ thứ ba vẫn còn ở trong tiệm Burke & Bailey.
Nhổm dậy
khỏi băng ghế, tôi lên tiếng, “Hẹn gặp em vào bữa tối nhé, cô bé quậy phá.”
“Cố sống sót
nhé anh,” nàng nói. “Nhớ đấy, em không nhìn thấy được người chết đâu.”
Tôi để lại
nàng ở đó, một cô nàng trong trang phục toàn màu hồng và trắng, đầy khiêu khích
ngồi tại rừng cọ nhiệt đới có mùi của bầy cá chép say tình. Sau đó tôi đuổi
theo cây nấm hình người đến cổng chính khu mua sắm, rồi bước ra ngoài ánh nắng
gay gắt gần như đủ sức giật phăng giác mạc khỏi mắt.
Mặt đường
nhựa nóng như vỉ lò nhưng vẫn còn mát hơn hố nhựa nóng chảy đã cuốn bầy khủng
long đi nhiều thiên niên kỷ về trước. Làn gió nhẹ nhanh như cắt làm môi tôi khô
rang và mang đến hương mùa hè của thị trấn sa mạc, mùi pha quyện của đá nung
siêu nóng, phấn hoa xương rồng, nhựa thông mesquite, muối của những bãi biển
chết từ lâu và khói thải lơ lửng giữa không khí khô khốc bất động như những đám
mây mờ nhạt chứa hạt khoáng chất cuộn xoắn xuyên suốt viên thạch anh trong
suốt.
Chiếc Ford
Explorer bụi bặm của Gã Nấm đậu ở hàng phía sau và cách xe tôi bốn khoảng đất
trống tính về phía tây. Nếu sức hút siêu linh của tôi mạnh thêm chút nữa, tôi
và gã đã đậu xe nối đuôi nhau.
Gã mở cốp xe
SUV và cho mấy túi mua sắm vào trong. Gã mang theo thùng làm lạnh Styrofoam để
giữ kem không chảy và cất hai vại kem vào đó.
Khi nãy, tôi
quên dựng tấm cản nắng phản chiếu lên kính chắn gió trong chiếc Mustang. Nó
được xếp gọn và nhét vào giữa ghế hành khách và cốp xe. Do đó, vô lăng nóng lên
đến mức không thể chạm vào.
Tôi khởi
động xe, bật máy điều hòa và dùng kính chiếu hậu và kính hai bên để giám sát Gã
Nấm.
May thay, cử
động của gã này gần như chậm chạp và ngăn nắp hệt quá trình phát triển của nấm
mốc. Đến lúc gã rời khỏi chỗ đậu xe, tôi đã có thể bám theo mà không để lại mẩu
da phồng rộp nào trên vô lăng.
Hai xe chưa
chạy ra đến đường chính, tôi đã nhận thấy không còn ông kẹ nào bám đuôi gã đàn
ông hớn hở này khi gã rời khu mua sắm. Hiện không có tên nào ngồi trong chiếc
Explorer với gã, cũng không có tên nào chạy nhảy sau xe.
Vừa rồi, gã
rời Quán Vỉ nướng với một toán ít nhất hai mươi tên, khi đến tiệm Burke &
Bailey, đoàn tùy tùng ấy rút gọn lại còn ba tên. Ông kẹ thường sốt sắng theo
hầu bất cứ ai sắp trở thành khởi nguồn của màn bạo lực kinh hoàng và chúng sẽ
không rời bỏ kẻ đó khi nào giọt máu cuối cùng còn chưa chảy tràn.
Tôi tự hỏi
vậy cuối cùng Gã Nấm này có phải là hiện thân xấu xa của Tử thần như điều tôi
đã gán cho gã không.
Mặt đường
nhựa tích trữ sức nóng nhìn loang loáng đến mức tưởng như không còn lớp bề mặt
nào ngoài nước, nhưng chiếc Explorer phóng qua mà không để lại đường rẽ nước
hay gợn sóng lăn tăn nào.
Ngay cả lúc
thiếu vắng bóng dáng bọn ông kẹ, tôi vẫn tiếp tục theo dấu con mồi. Ca làm việc
ở Quán Vỉ nướng của tôi đã xong. Nguyên thời gian buổi chiều còn lại và cả buổi
tối đang ở trước mắt. Không ai bồn chồn khó chịu hơn một đầu bếp phục vụ thức
ăn nhanh khi chưa giải quyết xong việc.
CHƯƠNG 9
Camp’s End
thực chất không phải một thị trấn mà là vùng lân cận của thị trấn Pico Mundo,
nơi đó là kí ức sống động về một thời gian khổ ngay cả khi những người còn lại
trong cộng đồng chúng tôi đang trải qua giai đoạn kinh tế phát đạt. Bãi cỏ xơ
xác nhiều hơn xanh tốt, có nơi chỉ là sỏi đá. Hầu hết những ngôi nhà nhỏ hẹp
cần lớp vữa mới, nước sơn mới và đợt ngưng chiến với mối mọt.
Các ngôi nhà
tạm bợ được dựng lên tại đây vào cuối những năm 1800, thời điểm nhóm tìm kiếm
có nhiều mộng tưởng hơn trí thông minh đã bị lôi kéo đến nơi này bởi mỏ bạc và
những lời đồn thổi về mỏ bạc. Họ khám phá được cơ man toàn tin vịt.
Thời gian
trôi qua, khi nhóm tìm kiếm trở thành huyền thoại và không còn tìm được ai bằng
xương bằng thịt nữa, các ngôi nhà tạm bợ dãi dầu mưa nắng bị thay thế bằng nhà
tranh, nhà gỗ lợp ván và nhà gỗ mái ngói.
Tuy nhiên
tại Camp’s End, công cuộc nâng cấp chuyển hướng sang phá hủy nhanh hơn nơi
khác. Thế hệ này nối tiếp thế hệ khác, vùng lân cận vẫn giữ nguyên nét đặc
trưng cơ bản, một diện mạo chưa làm tiêu tan cũng như cạn kiệt sức chịu đựng:
cả khu vực lún xuống, bong tróc, gỉ sét, hoang vu, bạc thếch nhưng không bao
giờ hoàn toàn tuyệt vọng trong hoàn cảnh khốn khổ.
Bất hạnh
dường như rỉ ra từ chính mặt đất, như thể nơi trú ngụ của diêm vương ở địa ngục
nằm ngay bên dưới những con đường này, gác xép nghỉ ngơi của Ngài đặt quá gần
lớp bề mặt bên ngoài đến mức hơi thở hôi thối bật ra theo từng tiếng ngáy đã
ngấm lên đất đai.
Điểm dừng chân
của Gã Nấm là một ngôi nhà gỗ nhỏ trát vữa vàng nhạt, cánh cửa chính màu xanh
dương phai mờ. Nhà để xe nghiêng ngả như thể sức nặng của riêng ánh nắng đã đủ
đánh sập nó.
Tôi dừng xe
bên này đường, đối diện ngôi nhà, trước khoảnh đất trống đầy những cây cà độc
dược và những cây mâm xôi khô héo, đan kết chồng chéo như cái bẫy bắt những kẻ
mơ mộng. Nhưng chúng chỉ bắt được mớ giấy báo nhàu nát, vỏ lon bia và một thứ
trông như một cái quần lót ống rộng của đàn ông bị xé tả tơi.
Trong lúc
tôi hạ cửa sổ xe xuống và tắt động cơ, tôi thấy Gã Nấm mang kem và mấy gói đồ
khác vào nhà. Gã vào bằng lối cửa phụ nằm dưới bóng mát nhà để xe.
Chiều mùa hè
ở thị trấn Pico Mundo kéo dài và nóng nực với chút hi vọng có gió nhưng đừng
trông ngóng trời mưa. Tuy đồng hồ trên tay tôi và đồng hồ trong xe hơi đều
thống nhất chỉ số 4:48 nhưng ánh nắng thiêu đốt kia vẫn trải dài phía trước.
Dự báo thời
tiết buổi sáng thông báo nhiệt độ cao nhất lên đến một trăm mười độ[12], con số
chưa từng có ở sa mạc Mojave. Tôi nghi ngờ dự báo đó đã nói quá.
[12] 110 độ Fahrenheit (43 độ Celcius).
Trong khi
những bà con bạn bè thích khí hậu mát mẻ kinh ngạc trước mức nhiệt độ đó thì cư
dân thị trấn Pico Mundo xem đấy là trạng thái khí tượng học tốt đẹp, lưu ý rằng
độ ẩm chỉ có mười lăm hay hai mươi phần trăm. Họ khăng khăng bảo rằng một ngày
hè ở mức trung bình không giống phòng xông ướt ngột ngạt mà chỉ như phòng xông
khô khiến cơ thể khoan khoái.
Ngay cả
trong bóng râm của cây nguyệt quế Ấn Độ khổng lồ già nua có phần rễ chắc chắn
đủ sâu để hút nước sông Styx[13], tôi cũng không thể vờ như mình đang lười nhác
nằm trong phòng xông khô. Tôi có cảm giác hệt đứa trẻ thơ thẩn đi vào ngôi nhà
hào nhoáng của mụ phù thủy trong Khu rừng hắc ám và bị tống vào lò nướng đang
chỉnh ở chế độ lửa nhỏ.
[13] Con sông dưới địa ngục, ranh giới giữa thế giới của
người sống và người chết.
Thỉnh thoảng
một chiếc xe hơi chạy qua nhưng không người khách bộ hành nào xuất hiện.
Không trẻ
con nô đùa. Không vị chủ nhà nào đánh bạo ra ngoài lăng xăng bên khu vườn quắt
queo.
Một chú chó
lê lết bò qua, đầu cúi thấp, lưỡi lè ra như đang ngoan cố lần theo ảo tưởng về
một con mèo.
Chẳng mấy
chốc khi tôi ngồi trong vũng mồ hôi, cơ thể tôi sẽ cung cấp phần độ ẩm mà không
khí còn thiếu.
Lẽ ra tôi có
thể khởi động chiếc Mustang và bật máy điều hòa nhưng tôi không muốn phí phạm
xăng của cô Terri hay làm động cơ quá nóng. Hơn nữa, bất kì cư dân sa mạc nào
cũng biết quá trình lặp đi lặp lại hết nung nóng rồi lại làm mát có thể tôi
luyện một số kim loại, nhưng điều đó sẽ làm nhụt chí con người.
Bốn mươi
phút sau, Gã Nấm tái xuất hiện. Gã khóa cánh cửa phụ của ngôi nhà, việc đó cho
thấy trong nhà không còn ai, rồi gã vào ngồi sau vô lăng chiếc Explorer đầy
bụi.
Tôi trượt
người xuống ghế, thấp hơn thành cửa sổ, lắng tai nghe trong lúc chiếc SUV chạy
qua và để lại vệt âm thanh nhỏ dần rồi im bặt.
Băng qua
phía ngôi nhà vàng nhạt, tôi không quá lo chuyện bị theo dõi từ những khung cửa
sổ nhuộm nắng dọc theo con đường. Sinh sống ở Camp’s End tạo nên sự xa lánh hơn
là tinh thần cộng đồng cần có để hình thành lực lượng dân phòng.
Thay vì đi
tới cửa chính màu xanh dương và gây ra sự chú ý đặc biệt cho mọi người, tôi
nhắm đến bóng mát nhà để xe và gõ lên cánh cửa phụ Gã Nấm đã sử dụng. Không ai
trả lời.
Nếu cánh cửa
khóa chặt như nêm, tôi đã phải phá tung cửa sổ. Đối mặt với then cài sơ sài,
như bao thanh niên Mỹ khác, tôi tự tin mình đã được những bộ phim về cảnh sát
trên ti-vi dạy rất kỹ rằng tôi có thể dễ dàng chui tọt vào nhà.
Để đơn giản
hóa cuộc sống, tôi không mở tài khoản ngân hàng và chỉ thanh toán bằng tiền
mặt; thế nên tôi không có thẻ tín dụng. Bang California đã chu đáo cấp cho tôi
một tấm bằng lái cán mỏng đủ cứng để cạy khóa.
Đúng như
tiên đoán, gian bếp không phải nơi tôn thờ kiểu trang trí của Martha
Stewart[14] hay chủ nghĩa sạch sẽ. Nơi này rõ ràng cũng không thể gọi là chuồng
heo; nó chỉ tệ hại bởi tình trạng bừa bộn tổng thể, đây đó là những mẩu bánh
vụn, tặng phẩm dành cho bầy kiến nếu chúng muốn ghé thăm.
[14]
Chuyên gia về mảng khéo tay hay làm.
Một mùi thoang thoảng nhưng khó chịu
phảng phất trong không khí mát mẻ. Tôi không thể nhận biết nó bắt nguồn từ đâu,
thoạt đầu tôi tưởng đó hẳn là hương thơm độc nhất vô nhị của Gã Nấm, vì xem ra
gã là người bốc ra thứ mùi lạ lùng và độc hại nếu không phải thứ mùi chết
người.
Tôi không biết mình tìm kiếm gì nơi đây,
nhưng tôi mong sẽ nhận ra thứ đó nếu nhìn thấy. Một thứ lôi cuốn bọn ông kẹ đi
theo người đàn ông này và tôi theo chân chúng với hi vọng khám phá manh mối dẫn
tới lí do tạo nên sự quan tâm nơi bọn chúng.
Sau khi đảo quanh gian bếp, cố gắng
nhưng không thể tìm thấy ẩn ý trong một cốc cà phê nguội lạnh đã vơi nửa, một
vỏ chuối sạm đen vứt trên thớt, đống chén đĩa bẩn trong chậu rửa, những thứ
thông thường nằm trong ngăn kéo và tủ đựng thức ăn, tôi nhận ra không khí không
chỉ mát mẻ mà còn ớn lạnh một cách khó lí giải. Phần lớn mồ hôi trên lớp da
phơi trần của tôi đã khô. Sau gáy có cảm giác như đóng băng.
Khó lí giải sự giá lạnh bao trùm vì thậm
chí tại sa mạc Mojave, nơi máy điều hòa là thứ thiết yếu thì một ngôi nhà cũ kỹ
và xoàng xĩnh tại đây hiếm khi có được hệ thống làm mát tập trung. Những dàn
máy điều hòa dạng khung cửa sổ, mỗi cái nằm một hốc, là chọn lựa có thể chấp
nhận cho phần trang bị thêm tốn kém tại một nơi trú ngụ không đáng tiêu pha.
Gian bếp không có những dàn máy dạng cửa
sổ đó.
Thường tại một ngôi nhà như thế này,
người ta chỉ làm mát không gian khi đêm xuống và chỉ trong phòng ngủ. Nếu không
sẽ khó lòng chợp mắt. Song máy điều hòa gắn trong phòng ngủ không thể làm mát
toàn bộ ngôi nhà, ngay cả một ngôi nhà bé tẹo như nơi đây. Dứt khoát máy điều
hòa không thể ướp lạnh gian bếp.
Vả lại, dàn máy điều hòa sẽ làm ồn:
tiếng bình bịch và vo vo của máy nén không khí, tiếng lách cách của quạt gió. Ở
đây tôi không nghe âm thanh nào như thế cả.
Trong lúc tôi đang ngẩng đầu nghe ngóng,
ngôi nhà chìm trong thinh lặng. Bỗng nhiên tôi nhận ra sự tĩnh mịch này không
bình thường.
Lẽ ra đôi giày của tôi phải gây tiếng
động trên tấm vải lót sàn đã rạn, lớp ván sàn long ra do thời gian, sức nóng và
sự khô hanh gây co rút. Vậy mà tôi di chuyển êm ru như con mèo đi trên tấm đệm.
Xét lại, tôi nhận thấy cửa ngăn kéo và
tủ đựng thức ăn đóng mở với âm thanh vô cùng khẽ khàng, như thể chúng được lắp
đặt loại khe trượt và bản lề không ma sát.
Khi tôi tiến đến cánh cửa để mở nằm giữa
gian bếp và phòng bên, không khí lạnh dường như dày đặc hơn, khiến sự truyền
dẫn âm thanh bị bóp nghẹt hơn nữa.
Phòng khách thưa thớt đồ đạc xem ra cũng
tồi tàn và bừa bộn hệt gian bếp. Những quyển sách cũ mòn vẹt, chắc chắn mua từ
hiệu sách cũ, và mớ tạp chí vương vãi khắp sàn nhà, ghế dài, bàn cà phê.
Mấy quyển tạp chí là thứ bạn có thể dự
đoán. Ảnh phụ nữ khỏa thân nổi bật giữa loạt bài báo về các môn thể thao mạo
hiểm, xe đua tốc độ và những chiêu dụ dỗ đáng khinh, vây quanh tất cả là mớ
quảng cáo về thảo mộc cường dương, về những dụng cụ bảo đảm làm gia tăng một
kích cỡ cho một bộ phận cơ thể được cánh mày râu vô cùng yêu quý, nói thế tôi
không ám chỉ đến bộ não đàn ông.
Bộ phận cơ thể tôi yêu quý chính là trái
tim vì đó là thứ duy nhất tôi phải trao cho Stormy Llewellin. Hơn nữa, khi tôi
thức dậy mỗi sáng, nhịp đập của nó là bằng chứng đầu tiên rõ ràng nhất cho thấy
suốt đêm qua, tôi chưa gia nhập cộng đồng những người chết còn ngoan cố nán lại
trần gian.
Đống sách khiến tôi ngạc nhiên. Chúng là
tiểu thuyết lãng mạn. Xét theo hình minh họa ngoài bìa, những quyển sách này
nghiêng về thể loại đàng hoàng, kiểu mà trong đó bộ ngực phụ nữ hiếm khi nhô ra
và áo lót không thường xuyên bị xé toạc. Những câu chuyện liên quan đến tình
yêu nhiều hơn tình dục, và chúng đối kháng đặc biệt với mớ tạp chí đầy rẫy hình
phụ nữ khoe ngực, duỗi chân, liếm môi khêu gợi.
Khi tôi nhặt một quyển sách lên và lật
xem qua, những trang sách lướt nhanh không hề phát ra tiếng động.
Dường như tôi không thể nghe thấy gì
khác ngoài âm thanh trong cơ thể mình: tiếng tim đập thình thịch, tiếng máu
chảy ào ào vang lên bên tai tôi.
Đúng ra tôi phải bỏ đi ngay lúc ấy. Hiệu
ứng bóp nghẹt âm thanh kì quái của không khí thâm hiểm trong ngôi nhà này lẽ ra
phải khiến tôi hoảng sợ.
Vì đặc trưng cuộc đời tôi là những trải
nghiệm lạ lùng, đầy ắp như mùi thịt hun khói và tiếng xèo xèo của mỡ trên vỉ
nướng nên tôi không dễ bị hù dọa. Chưa kể tôi thừa nhận mình có khuynh hướng
luôn đầu hàng trước tính tò mò, dù đôi lúc cũng thấy ân hận.
Lật giở những trang tiểu thuyết lãng mạn
im lìm, tôi nghĩ có thể Gã Nấm không sống một mình ở đây. Mấy quyển này biết
đâu là tủ sách yêu thích của bạn gái gã.
Triển vọng đó không được củng cố qua
những chứng cớ trong phòng ngủ. Tủ quần áo chứa mỗi đồ của gã. Giường chưa dọn
dẹp, đồ lót và tất của ngày hôm qua vứt lung tung, nho khô Đan Mạch ăn dở nằm
trong cái đĩa giấy đặt trên bàn cạnh giường, những điều ấy bác bỏ sự hiện diện
truyền bá văn minh của một phụ nữ.
Máy điều hòa gắn trong hốc tường không
hoạt động. Không làn gió nhẹ nào bay ra từ miệng thổi của máy.
Tại đây, mùi hôi thối thoang thoảng lúc
đầu tôi ngửi thấy trong bếp trở nên nồng nặc hơn, gợi nhớ đến mùi dây điện chập
mạch, nhưng không hẳn chỉ có vậy, còn thoáng mùi amoniac và chút ít vụn than
cùng luồng hơi mùi hạt nhục đậu khấu, nhưng không rõ ràng là một mùi nào trong
số kể trên.
Hành lang ngắn dùng làm phòng ngủ cũng
dẫn đến phòng tắm. Tấm gương cần được lau chùi. Trên kệ, ống kem đánh răng
không được đậy kín. Một sọt rác nhỏ đầy khăn giấy đã sử dụng và mấy thứ rác
khác.
Từ phòng ngủ nhìn sang bên kia hành lang
còn thêm một cánh cửa nữa. Tôi cho rằng nó dẫn tới tủ quần áo hoặc căn phòng
ngủ thứ hai.
Ở ngưỡng cửa, không khí rét buốt đến mức
tôi có thể nhìn thấy hơi thở của mình, một luồng hơi nhợt nhạt.
Tôi áp lòng bàn tay vào núm cửa lạnh
băng và xoay tròn. Đằng kia, cơn lốc của sự tĩnh lặng hút âm thanh cuối cùng ra
khỏi tai tôi, trong phút chốc tai tôi điếc đặc, bất chấp nỗ lực làm việc của
trái tim.
Căn phòng tối đen chờ tôi.