Giao Lộ Sinh Tử - Chương 27 - 28

CHƯƠNG 27

Hơn một
tiếng nữa là đến nửa đêm. Lo lắng ngày mới có thể mang bọn trẻ vào làn súng nổ,
tôi đậu chiếc Mustang phía sau Quán Vỉ nướng Pico Mundo.

Khi tôi tắt
đèn pha và động cơ, Stormy hỏi, “Có bao giờ anh nghĩ sẽ rời thị trấn này
không?”

“Anh thật
tình hi vọng mình không phải một trong những người cứ nhất quyết lảng vảng
quanh đây sau khi chết, như ông Tom Jedd tội nghiệp ngoài Tire World.”

“Ý em là anh
có bao giờ rời nơi đây khi anh còn sống không?”

“Chỉ nghĩ
thôi đã khiến đầu anh quay cuồng.”

“Tại sao?”

“Ngoài kia
rộng lớn lắm.”

“Không phải
tất cả đều rộng lớn. Rất nhiều thị trấn nhỏ hơn và yên ả hơn cả Pico Mundo.”

“Anh nghĩ ý
anh là... mọi thứ ngoài kia sẽ mới. Anh thích những gì anh biết rõ. Xét đến tất
cả mọi việc khác mà anh phải đối phó... Anh không thể cùng lúc xử lí quá nhiều
thứ mới được. Tên đường mới, kiến trúc mới, mùi hương mới, tất cả những người
mới...”

“Em luôn
nghĩ sống trên vùng núi thật tuyệt.”

“Thời tiết
mới.” Tôi lắc đầu. “Anh không cần thời tiết mới.”

“Dù sao,”
nàng nói, “em không có ý nói rời thị trấn luôn. Chỉ một hai ngày thôi. Chúng
mình có thể lái xe tới Vegas.”

“Ý tưởng của
em về một nơi nhỏ hơn, yên ả hơn hơn đó sao? Anh cá đó là nơi có cả ngàn người
chết không chịu rời đi.”

“Tại sao?”

“Những người
mất hết mọi thứ họ có tại bàn đổ xí ngầu, vòng quay roulette, sau đó họ trở về
phòng và tự bắn vỡ sọ,” tôi rùng mình. “Người tự tử luôn lảng vảng quanh quẩn
sau khi đã chết. Họ sợ đi tiếp.”

“Anh có cái
nhìn thật cường điệu về Las Vegas, cưng à. Nhân viên dọn phòng ở khách sạn hạng
trung đâu phải sáng nào cũng lôi ra cả tá kẻ tự sát.”

“Khối người
bị bọn du thủ du thực giết hại, xác họ chất trong những chân tường còn ướt bê
tông của các khách sạn mới xây. Em có thể đánh cá họ có việc chưa hoàn thành và
vô số cơn thịnh nộ sau khi chết. Hơn nữa, anh không cờ bạc.”

“Nghe không
giống cháu trai của bà Pearl Sugars chút nào.”

“Bà cố hết
sức biến anh thành tay chơi bài có hạng nhưng anh e mình đã khiến bà thất
vọng.”

“Bà dạy anh
chơi xì phé phải không?”

“Ừ. Bà và
anh thường chơi ăn tiền xu.”

“Cho dù ăn
tiền xu cũng là cờ bạc ăn tiền.”

“Không phải
khi anh chơi với bà ngoại Sugars.”

“Bà để anh
thắng à? Thích thật.”

“Bà muốn anh
làm một chuyến du lịch đi miền tây nam chơi bài với bà. Bà nói, ‘Odd, bà sẽ già
trên đường đi, không phải trên ghế xích đu trong mái hiên một nhà dưỡng lão tồi
tệ nào đó với đám bà già hay đánh rắm khoái ngồi lê đôi mách, và bà sẽ chết gục
mặt xuống mấy lá bài giữa cuộc chơi, không phải chết vì buồn chán tại bữa tiệc
trà khiêu vũ dành cho những người già rụng hết răng đang cố nhảy cha-cha bằng
khung tập đi’.”

“Trên đường
đi,” Stormy thốt lên, “hẳn có rất nhiều điều mới mẻ.”

“Mỗi ngày cứ
mới và thêm nhiều thứ mới nữa,” tôi thở dài. “Nhưng bà và anh nhất định sẽ rất
vui vẻ. Bà muốn anh đi cùng để sẻ chia tiếng cười... và nếu bà qua đời giữa một
ván bài đặc biệt gay go thì bà muốn anh chắc rằng những người chơi khác không chia
chác phần tiền của bà và vứt xác bà ra sa mạc làm bữa tiệc cho bầy sói đồng
cỏ.”

“Em hiểu lí
do anh không đi nhưng tại sao anh không chơi bài?”

“Vì ngay cả
khi bà ngoại Sugars không chơi cẩu thả để cho anh có lợi thế thì hầu như lúc
nào anh cũng thắng.”

“Ý anh là
do... năng lực của anh à?”

“Ừ.”

“Anh thấy
được lá bài nào đang tới à?”

“Không.
Không ấn tượng đến vậy. Anh chỉ có cảm giác khi nào tay anh hăng hái hơn tay
những người chơi khác và khi nào thì không thôi. Mười lần thì cảm giác tỏ ra
chính xác hết chín lần rồi.”

“Đó là lợi
thế khổng lồ với các lá bài.”

“Với xì dách
cũng giống hệt vậy, bất cứ trò cờ bạc nào.”

“Vậy thực ra
nó không phải là cờ bạc.”

“Thực ra
không phải. Nó chỉ là... gom tiền.”

Stormy hiểu
ngay tại sao tôi bỏ bài bạc, “Nó khá giống việc ăn cắp.”

“Anh không
cần đồng tiền bất lương,” tôi nói. “Và anh sẽ không bao giờ cần khi nào người
ta còn muốn ăn những gì được nướng trên vỉ.”

“Hoặc khi
nào người ta còn có chân.”

“Ừ. Xem như
anh chuyển sang bán lẻ giày.”

“Em nói
Vegas không phải vì em muốn cờ bạc,” nàng giải thích.

“Đó là đoạn
đường dài phải đi để có bữa tiệc gồm tất cả những gì bạn có thể ăn.”

“Em nói
Vegas vì chúng mình có thể đến đó trong khoảng ba tiếng, và những nhà thờ làm
lễ cưới mở cửa suốt ngày đêm. Không cần xét nghiệm máu. Chúng mình có thể kết
hôn vào bình minh.”

Tim tôi giật
thót một cái thật lạ mà chỉ Stormy mới có thể khiến nó như thế. “Chà! Vậy gần
như đủ cho anh can đảm để đi rồi.”

“Chỉ gần như
thôi ư?”

“Chúng mình
có thể xét nghiệm máu vào sáng mai, đăng kí kết hôn vào thứ Năm, chính thức nên
vợ nên chồng vào thứ Bảy. Và bạn bè của chúng mình có thể đến đó được. Anh muốn
có mặt bạn bè, em không muốn sao?”

“Muốn, nhưng
em muốn cưới hơn.”

Tôi hôn nàng
và nói, “Sau biết bao lần do dự, sao bỗng nhiên lại hối thúc vậy?”

Vì hai đứa
tôi đã ngồi một lúc lâu trong ngõ hẻm không đèn nên mắt quen hẳn với bóng tối.
Nếu không tôi sẽ không nhận thấy trọn vẹn mối lo âu sâu sắc trên khuôn mặt
nàng, trong ánh mắt nàng; quả thực, nàng có vẻ bị dày vò không chỉ bởi sự băn
khoăn đơn thuần mà bởi nỗi khiếp đảm thầm lặng.

“Này, này,”
tôi quả quyết với nàng, “mọi chuyện sẽ ổn cả thôi.”

Giọng nàng không run rẩy. Nàng cứng rắn
đến mức không dễ rơi lệ. Song trong cái dịu dàng của lời nói, tôi có thể nghe
ra một cô nàng bị ám ảnh, “Suốt từ lúc chúng mình ngồi bên bờ ao nuôi cá chép
Nhật và cái gã đó đi dọc khu vui chơi...”

Khi giọng nàng lạc đi, tôi lên tiếng,
“Gã Nấm.”

“Ừ. Cái gã khốn nhìn mà sởn gai ốc kia.
Kể từ khi em thấy gã... em lo sợ cho anh. Ý em là, em luôn luôn lo sợ cho anh,
Odd, nhưng em thường không làm gì, vì điều anh ít cần nhất, trên tất cả mọi
thứ, là một phu nhân mau nước mắt lúc nào cũng ra rả bảo anh phải cẩn thận.”

“ ‘Phu nhân mau nước mắt’?”

“Xin lỗi. Chắc hẳn em hồi tưởng lại cuộc
sống trước đây vào những năm 1930. Nhưng thật đấy, điều anh ít cần nhất chính
là một con mụ kích động luôn luôn theo sát anh.”

“Anh thích cụm từ ‘phu nhân mau nước
mắt’ hơn rất nhiều. Nghe này, anh nghĩ gã này bệnh hoạn cực độ rồi, gã là mười
triệu tấn thuốc nổ với thiết bị định giờ nhảy số rất nhanh, nhưng cảnh sát
trưởng và anh bám sát gã rồi, và bọn anh sẽ chộp lấy ngòi trước khi gã nổ.”

“Đừng quá chắc chắn. Xin anh đấy, Odd,
đừng quá chắc chắn. Quá chắc chắn với gã này sẽ khiến anh bị giết đấy.”

“Anh sẽ không bị giết.”

“Em sợ cho anh.”

“Đến tối mai,” tôi nói với nàng, “Bob
Robertson, biệt hiệu Gã Nấm, sẽ mặc nguyên bộ áo liền quần màu cam do nhà tù
phát, và có thể gã sẽ làm bị thương vài người hoặc có thể chúng ta sẽ ngăn chặn
được gã ngay trước lúc gã bóp cò, nhưng bất kể tình hình ra sao, anh sẽ cùng em
ăn tối, và chúng mình sẽ lên kế hoạch đám cưới, và anh sẽ vẫn có đủ hai tay,
hai chân...”

“Odd, ngừng lại, đừng nói thêm gì...”

“... vẫn có đúng cái đầu ngốc mà em đang
nhìn đây...”

“Xin anh, ngừng lại đi.”

“... và anh sẽ không bị mù vì anh thật
sự cần nhìn thấy em, và anh sẽ không bị điếc vì làm sao mình lên kế hoạch đám
cưới được nếu anh không thể nghe em nói, và anh sẽ không...”

Nàng đấm vào ngực tôi, “Đừng liều mạng,
khỉ thật!”

Tại vị trí đang ngồi, nàng không thể
vung nắm đấm ra sau đủ để giáng một cú ra trò. Tôi gần như không thở nổi bởi cú
đấm.

Ráng sức thở khò khè khe khẽ, tôi hít
một hơi và nói, “Anh không lo về chuyện liều mạng. Anh không mê tín kiểu đó.”

“Có thể em mê tín.”

“À, vậy dẹp
nó đi.”

Tôi hôn
nàng. Nàng hôn lại.

Thế giới khi
đó mới tốt đẹp làm sao, tôi vòng cánh tay quanh người nàng và nói, “Ngốc ạ, phu
nhân mau nước mắt của anh. Bob Robertson có thể loạn thần kinh nặng đến mức
thậm chí không đủ khả năng quản lí nhà nghỉ Bates Motel, nhưng gã vẫn chỉ là
một tên đần độn. Gã chẳng có gì ngoại trừ mười sáu bánh xe điên dại quay tròn
trong đầu. Anh sẽ về với em không lỗ thủng, không vết xước, không dấu lõm. Và
không miếng da nào trên người anh đã được chính quyền liên bang nhận dạng bị
bóc toạc ra.”

“Gấu Pooh
của em,” nàng kêu lên như đôi lúc vẫn hay kêu vậy.

Khiến nàng
dịu lại đôi chút và phần nào làm nỗi sợ của nàng lắng xuống, tôi cảm thấy mình
đúng là đàn ông, như một cảnh sát trưởng can đảm và mạnh mẽ trong các bộ phim
cao bồi thời xưa, người có nụ cười làm các quý cô thở phào nhẹ nhõm, và có thể
quét sạch bọn đấu súng ra khỏi phố phường Dodge City mà không làm bẩn chiếc mũ
trắng tinh.

Tôi là kiểu
thằng khờ tệ hại nhất. Khi nhìn lại đêm tháng Tám đó, giờ đã mãi thay đổi bởi
tất cả những nỗi đau phải gánh chịu, thì Odd Thomas còn nguyên vẹn kia dường
như là một người khác hẳn tôi, tự tin hơn hẳn tôi hiện nay, nhưng không từng
trải bằng, và tôi thương tiếc cho nó.

Tôi được yêu
cầu không để văn phong của quyển truyện này trở nên quá u sầu. Một thi sĩ bốn
trăm pao sẽ đáp cái mông một trăm năm mươi pao lên người tôi như là một lời
bình biên tập, và luôn có sự đe dọa từ con mèo chứa đầy nước tiểu của anh ấy.

CHƯƠNG 28

Khi chúng
tôi ra khỏi chiếc Mustang, ngõ hẻm quen thuộc chìm vào vẻ u ám hơn hẳn hình ảnh
tôi nhớ vào những đêm khác, được soi sáng chút ít nhờ ánh trăng và bị che khuất
bởi bóng trăng.

Ở đầu con
hẻm sau dẫn đến nhà bếp của quán ăn, một ngọn đèn an ninh phát sáng. Thế nhưng
bóng tối dường như lấn ép tới hơn là dạt ra xa nó.

Những bậc
thang trơ trọi dẫn đến đầu cầu thang tầng hai và cửa nhà cô Terri Stambaugh.
Ánh sáng tỏa ra phía sau bức màn.

Lên hết mấy
bậc thang trơ trọi dẫn đến đầu cầu thang tầng hai và cửa nhà cô Terri
Stambaugh. Ánh sáng tỏa ra phía sau bức màn.

Lên hết mấy
bậc thang, Stormy chỉ lên bầu trời phía bắc, “Cassiopeia.”

Sao kề sao,
tôi nhận ra các điểm của chòm sao.

Trong thần
thoại kinh điển, Cassiopeia là mẹ của Andromeda. Andromeda được cứu thoát khỏi
quái vật biển nhờ vị anh hùng Perseus, người cũng đã giết chết con quỷ Medusa.

Không thua
kém Andromeda trong truyền thuyết, Stormy Llewellin, con gái của một Cassiopeia
khác, ưu tú đến độ xứng đáng có được chòm sao mang tên nàng. Thế nhưng tôi chưa
tiêu diệt con quỷ nào và tôi không phải là Perseus.

Cô Terri ra
mở khi tôi gõ cửa, nhận lại chìa khóa xe và nằng nặc gọi chúng tôi vào uống cà
phê hoặc một li rượu.

Ánh sáng từ
hai ngọn nến nhảy múa hân hoan trên tường nhà bếp trong lúc những cơn gió mát
của máy điều hòa trêu chọc ngọn lửa. Cô Terri đang ngồi ở bàn khi tôi gõ cửa.
Một li nhỏ đựng rượu đào đặt trên tấm vải dầu ca rô trắng đỏ.

Như thường
lệ, âm nhạc chính của cuộc đời cô là Elvis: lần này là bài “Wear My Ring Around
Your Neck”.

Chúng tôi
biết cô mong hai đứa ghé chơi một lúc, đó là lí do Stormy không đợi dưới chân
cầu thang.

Cô Terri đôi
lúc bị mất ngủ. Cho dù giấc ngủ đến với cô nhẹ nhàng thì đêm cũng thật dài.

Khi tấm bảng
ĐÓNG CỬA được treo lên cửa chính của Quán Vỉ nướng vào lúc chín giờ và sau khi
vị khách cuối cùng rời khỏi khoảng hơn chín giờ, mười giờ, dù cô Terri uống cà
phê không chứa cafêin hay thức uống nào đó nặng đô hơn thì cô cũng khui một
chai cô đơn.

Chồng cô,
chú Kelsey, người yêu thời học phổ thông, đã qua đời chín năm. Căn bệnh ung thư
của chú trở nên nguy cấp nhưng là một chiến binh kiên cường hiếm thấy, chú
chống chọi đến ba năm mới qua đời.

Khi chú được
chẩn đoán mắc khối u ác tính, chú thề sẽ không để cô Terri lại một mình. Chú có
ý chí nhưng không có sức mạnh để giữ lời thề đó.

Vào những
năm cuối đời, chú Kelly đã chiến đấu với cái chết với tâm trạng vui vẻ và dũng
khí ổn định. Điều này khiến tình yêu và lòng kính trọng luôn đầy ắp của cô
Terri dành cho chú đã lên thành mức rất sâu sắc.

Xét theo một
hướng nào đó, chú Kelly đã giữ lời hứa không bao giờ rời bỏ cô. Hồn của chú
không lây lất quanh Quán Vỉ nướng hay bất kì nơi nào khác trong thị trấn Pico
Mundo. Chú hiện diện sống động trong hồi tưởng của cô và kí ức về chú khắc sâu
trong tâm hồn cô.

Sau ba hay
bốn năm, lòng tiếc thương của cô ngấm thành nỗi đau lắng đọng. Tôi nghĩ cô ngạc
nhiên bởi thậm chí sau khi đi đến chỗ chấp nhận mất ngủ, cô cũng không mảy may
mong muốn vá lại những mảng rách trong tim. Lỗ thủng chú Kelsey để lại khiến cô
thấy được an ủi nhiều hơn bất cứ miếng đắp nào để lấp kín nó.

Sự say mê
của cô đối với Elvis, cuộc đời và âm nhạc của ông, bắt đầu từ chín năm về trước,
khi cô ba mươi hai tuổi, cùng năm chú Kelsey mất.

Lí do của
niềm yêu thích mãnh liệt cô dành cho Presley nhiều vô kể. Song chắc chắn trong
số đó có lí do sau: Chừng nào cô còn phải lập ra và bảo quản bộ sưu tập về
Elvis, gồm âm nhạc, sự kiện đáng nhớ, tiểu sử, thì cô sẽ không có thời gian chú
ý đến người đàn ông đang sống nào và vẫn giữ nguyên vẹn tình cảm dành cho người
chồng quá cố.

Elvis là
cánh cửa đóng lại tất cả sự lãng mạn mơ mộng trước mắt cô. Việc dựng lại cuộc
đời ông là khe núi ẩn nấp của cô, vị trí cố thủ của cô, tu viện của cô.

Stormy và
tôi ngồi xuống bàn. Cô Terri tế nhị hướng chúng tôi ra xa khỏi cái ghế thứ tư,
cái ghế chú Kelsey luôn ngồi khi còn sống.

Đề tài đám
cưới sắp diễn ra của hai đứa tôi được nêu lên trước khi chúng tôi yên vị đàng
hoàng. Rót rượu đào cho chúng tôi, cô Terri nâng li mừng hạnh phúc dài lâu của
hai đứa.

Cứ đến mùa
thu, cô ủ những bình đầy vỏ trái đào thành thứ rượu ngọt ngào này: lên men, lọc
qua, cho vào chai. Hương vị hấp dẫn khó cưỡng lại và thêm rượu mạnh pha vào
uống ngon nhất trong những chiếc li nhỏ.

Lát sau, khi
Stormy và tôi đang uống cạn li thứ hai và ông hoàng đang ca bài “Love Me
Tender”, tôi kể với cô Terri về chuyện chở Elvis trong xe của cô. Thoạt đầu cô
vui mừng xúc động nhưng sau đó buồn bã khi nghe thấy ông ấy khóc sướt mướt suốt
cả chuyến đi.

“Con đã thấy
ông ấy khóc vài lần hồi trước rồi,” tôi nói. “Từ lúc qua đời, ông có vẻ rất dễ
xúc động. Nhưng lần này là nghiêm trọng nhất từ đó tới giờ, theo kinh nghiệm
của con.”

“Dĩ nhiên
rồi,” cô Terri nói, “chẳng có gì khó hiểu về lí do tại sao hôm nay ông ấy lại
suy sụp hơn mọi ngày.”

“À, với con
thì điều đó khó hiểu thật,” tôi cam đoan với cô.

“Hôm nay là
ngày mười bốn tháng Tám mà. Vào lúc ba giờ mười bốn phút sáng ngày mười bốn
tháng Tám năm một ngàn chín trăm năm mươi tám, mẹ ông mất. Bà ấy mới bốn mươi
sáu tuổi.”

“Gladys,”
Stormy lên tiếng. “Tên bà ấy là Gladys phải không ạ?”

Có kiểu danh
tiếng ngôi sao điện ảnh như của Tom Cruise, kiểu danh tiếng ngôi sao nhạc rock
như của Mick Jagger, danh tiếng về văn chương, danh tiếng về chính trị... Nhưng
chỉ có một kiểu danh tiếng trở thành huyền thoại thực sự khi những người thuộc
các thế hệ sau còn nhớ đến tên mẹ bạn sau khi bạn đã qua đời một phần tư thế kỷ
và mẹ bạn đã qua đời gần nửa thế kỷ.

“Elvis khi
đó trong quân đội,” cô Terri nhớ lại. “Ngày mười hai tháng Tám, ông nghỉ phép
khẩn, đáp máy bay về quê nhà Memphis và đến bên giường bệnh của mẹ ông trong
bệnh viện. Nhưng ngày mười sáu tháng Tám cũng là một ngày tệ hại đối với ông.”

“Tại sao?”

“Đó là ngày
ông mất,” cô Terri đáp.

“Chính Elvis ư?” Stormy hỏi.

“Ừ. Ngày mười sáu tháng Tám năm một ngàn
chín trăm bảy mươi bảy.”

Tôi đã uống cạn li rượu đào thứ hai.

Cô Terri đưa
cho tôi cái chai.

Tôi muốn
uống thêm nhưng lại thôi. Tôi lấy bàn tay bao quanh cái li rỗng không và lên
tiếng, “Elvis có vẻ lo cho con.”

“Ý con là
sao?” cô Terri hỏi.

“Ông ấy vỗ
lên cánh tay con. Giống
như ông cảm thông cho con. Ông có cái... cái nhìn u sầu, như thể ông thấy
thương xót cho con vì lí do nào đó.”

Tiết lộ này khiến Stormy hốt hoảng, “Anh
không kể cho em chuyện này. Sao anh không kể cho em nghe?”

Tôi nhún vai, “Nó có nghĩa gì đâu.
Chuyện về Elvis thôi mà.”

“Vậy nếu nó không nghĩa lí gì,” cô Terri
hỏi, “sao con lại đề cập?”

“Nó có ý nghĩa với con,” Stormy bộc
bạch. “Gladys mất ngày mười bốn. Elvis mất ngày mười sáu. Ngày mười lăm, nằm
giữa hai ngày kia, là lúc tên khốn Robertson sẽ đi săn bắn người ta. Ngày mai.”

Cô Terri cau
mày nhìn tôi, “Robertson?”

“Gã Nấm. Cái
gã con mượn xe cô để đi tìm.”

“Con có tìm
thấy hắn không?”

“Dạ có. Gã
sống ở Camp’s End.”

“Rồi sao?”

“Cảnh sát
trưởng và con... đang theo vụ này.”

“Tên
Robertson đó là kết quả đột biến của những thứ cặn bã độc hại từ một bộ phim
bệnh hoạn nào đó,” Stormy nói với cô Terri. “Gã Nấm theo chúng con ở nhà thờ
St. Bart, rồi khi chúng con lén bỏ đi được, gã phá tan hoang một góc nhà thờ.”

Cô Terri mời
Stormy uống thêm rượu đào, “Con nói gã sắp săn bắn người ta hả?”

Stormy không
nghiện rượu nhưng nàng nhận lời uống thêm một li. “Giấc mơ cứ tái diễn của đầu
bếp chiên nướng thức ăn của cô cuối cùng sắp thành sự thật.”

Giờ đây cô
Terri trông hoảng sợ, “Những nhân viên sân chơi bowling đã chết đó à?”

“Gộp thêm
chừng rất nhiều người tại rạp chiếu phim,” Stormy nói xong, dốc ngược li rượu
đào nốc cạn một hơi.

“Chuyện này
cũng có liên quan đến giấc mơ của Viola phải không?” cô Terri hỏi tôi.

“Chuyện dài
lắm không thể kể bây giờ,” tôi nói với cô. “Muộn rồi. Con đuối quá.”

“Nó có mọi
thứ liên quan đến giấc mơ của chị ấy,” Stormy nói với cô Terri.

“Con cần ngủ
chút,” tôi nài nỉ. “Sáng mai con sẽ kể, cô Terri à, sau khi mọi chuyện kết thúc
hết.”

Khi tôi đẩy
ghế định đứng lên, Stormy nắm lấy cánh tay tôi giữ lại, “Và giờ con phát hiện
chính Elvis Presley đã cảnh báo Odd rằng ngày mai anh ấy sẽ chết.”

Tôi phản
đối, “Ông ấy không làm điều gì có ý như vậy cả. Ông ấy chỉ vỗ nhẹ lên cánh tay
anh và sau đó, trước khi xuống xe, ông ấy siết tay anh.”

“Siết tay
anh hả?” Stormy hỏi bằng giọng ngụ ý như cử chỉ đó chỉ có thể hiểu là cách biểu
lộ một linh tính cực xấu.

“Có gì ghê
gớm đâu. Tất cả những gì ông ấy làm chỉ là nắm chặt tay phải của anh bằng cả
hai tay của ông ấy và siết hai lần...”

“Những hai
lần!”

“... rồi lại
trao cho anh cái nhìn đó.”

“Cái nhìn
thương xót đó ư?” Stormy gặng hỏi.

Cô Terri cầm
chai lên muốn rót cho Stormy.

Tôi đặt tay
lên miệng li, “Cả hai đứa con đều uống đủ rồi.”

Chộp lấy bàn
tay phải của tôi và cầm nó bằng cả hai tay như Elvis đã làm, Stormy nói một
cách kiên quyết, “Điều ông ấy đang cố nói với anh, thưa Quý ngài muốn trở thành
Người hùng siêu linh trượng nghĩa, là mẹ ông ấy mất vào ngày mười bốn tháng
Tám, ông ấy mất vào ngày mười sáu tháng Tám, và anh sẽ mất vào ngày mười lăm
tháng Tám, cả ba người như ba cú liên tiếp trúng đích của tử thần, nếu anh
không cẩn thận.”

“Đó không
phải điều ông ấy đang cố nói với anh,” tôi không đồng tình.

“Gì cơ... bộ
anh nghĩ ông ấy chỉ đang đắm đuối với anh thôi hả?”

“Ông ấy
không còn cuộc sống lãng mạn nữa đâu. Ông ấy chết rồi.”

“Dù sao
thì,” cô Terri nói, “Elvis không phải dân đồng tính.”

“Con đâu
tuyên bố ông ấy đồng tính, Stormy suy diễn thì có.”

“Cô đánh
cược Quán Vỉ nướng,” cô Terri nói, “và cái mông trái của cô rằng ông ấy không
đồng tính.”

Tôi rên rỉ,
“Đây là cuộc nói chuyện điên rồ nhất mà con từng có.”

Cô Terri bác
bỏ, “Cho cô nghỉ một lát, cô còn cả trăm cuộc nói chuyện với con điên rồ hơn
cái này nhiều.”

“Con cũng vậy,” Stormy đồng tình. “Odd
Thomas, anh là suối nguồn của những cuộc nói chuyện điên rồ.”

“Một mạch nước phun trào,” cô Terri gợi
ý.

“Không phải con, chỉ là cuộc đời của con
thôi,” tôi nhắc nhở.

“Tốt hơn con nên đứng ngoài chuyện này,”
cô Terri lo âu. “Hãy để ông Wyatt Porter xử lí nó.”

“Con đang để bác ấy xử lí nó mà. Con
không phải cảnh sát, cô biết đấy. Con không mang súng. Tất cả những gì con có
thể làm là cho bác ấy lời khuyên.”

“Lần này đừng cho lời khuyên luôn,”
Stormy nói. “Chỉ lần này thôi, đứng ngoài chuyện này đi. Đi Vegas với em. Ngay
bây giờ.”

Tôi muốn làm nàng vui. Nàng vui thì tôi
vui, và khi đó chim hót ríu rít hơn thường ngày, ong làm ra thứ mật ngọt hơn và
thế giới là một nơi đầy niềm vui, hay theo cách nhìn của tôi thì nó có vẻ là
thế.

Điều tôi muốn làm và điều đúng đắn phải
làm không giống nhau. Cho nên tôi lên tiếng, “Vấn đề là anh được đặt ở đây để
làm việc này, và nếu anh xa rời công việc, nó chỉ sẽ bám theo anh mà thôi, đi
đâu cũng vậy.”

Tôi cầm li lên, quên mất nó đã cạn khô,
và tôi lại đặt li trở xuống.

“Khi anh có một mục tiêu cụ thể, sức hút
siêu linh của anh hoạt động theo hai hướng. Anh có thể đi đại đâu đó và tìm ra
đối tượng anh cần tìm... trong trường hợp này là Robertson... hoặc gã sẽ bám
riết lấy anh nếu gã muốn thế, đôi khi thậm chí nếu gã không muốn cũng vậy. Và
trong trường hợp thứ hai, anh có ít khả năng kiểm soát và nhiều khả năng bị...
bất ngờ theo cách không hề dễ chịu.”

“Đó chỉ là lí thuyết,” Stormy nói.

“Anh chẳng thể chứng minh, nhưng đó là
sự thật. Đó là thứ anh biết từ trong thâm tâm.”

“Em luôn biết anh không suy nghĩ bằng
cái đầu mà,” Stormy nói, giọng nàng đổi từ lối thuyết phục một cách kiên quyết,
và gần như tức tối, sang kiểu cam chịu và trìu mến.

Cô Terri nói với tôi, “Nếu cô là mẹ của con,
cô đã bạt tai con rồi.”

“Nếu cô là mẹ của con, con đã không ở
đây rồi.”

Đây là hai người phụ nữ quan trọng nhất
trên đời đối với tôi; tôi yêu thương mỗi người theo cách khác nhau, và việc từ
chối làm điều hai người đó muốn, thậm chí vì để thực hiện điều đúng đắn, mới
khó khăn làm sao.

Ánh nến tỏa lên khuôn mặt họ sắc vàng
như nhau, và họ nhìn tôi chăm chú với một vẻ lo âu y hệt nhau, cứ như nhờ trực
giác phụ nữ nên họ biết những chuyện mà tôi không thể nắm được ngay cả khi dùng
đến giác quan thứ sáu.

Từ máy nghe nhạc, Elvis ngân nga, “Are
You Lonesome Tonight?”

Tôi xem đồng hồ đeo tay, “Ngày mười lăm
tháng Tám rồi.”

Khi tôi thử đứng dậy, Stormy không cản
tôi như khi nãy nữa. Nàng cũng đứng dậy khỏi ghế.

Tôi nói, “Cô Terri, con đoán cô sẽ phải
làm thay con ca đầu, hoặc nhờ chú Poke đến nếu chú ấy sẵn lòng.”

“Gì hả, con không thể cùng lúc vừa nấu
ăn vừa cứu thế giới à?”

“Dạ không, trừ khi cô muốn thịt cháy
khét. Con xin lỗi đã báo trước đột ngột thế này.”

Cô Terri tiễn chúng tôi ra tận cửa. Cô
ôm Stormy rồi ôm tôi. Cô tát nhẹ vào má tôi, “Con phải có mặt ở đây vào ngày
kia, đúng giờ, bên vỉ nướng, làm công việc trở bánh, nếu không cô sẽ giáng chức
con xuống thành nhân viên pha chế thức uống.”

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3