Giao Lộ Sinh Tử - Chương 62 - 63

CHƯƠNG 62

Cửa hiệu này
cao cấp hơn chỗ chị Viola mua giày trượt patin. Hàng hóa ở đây có chất lượng
bảo đảm hơn hàng hóa trong cửa hiệu cuối phía bắc khu mua sắm.

Tôi đi qua
cửa hàng nước hoa và mỹ phẩm, những tủ kính và mẫu mã trưng bày đẹp tuyệt,
nhưng không ngụ ý một cách tinh vi rằng hàng hóa đáng giá như kim cương.

Cửa hàng
trang sức sáng lóa với đá granit đen, inox và kính Starfire, như thể nó giới
thiệu không chỉ các viên kim cương thông thường mà là những vật dụng lấy từ bộ
sưu tập riêng của Chúa trời.

Tuy tiếng
súng không còn, nhưng khách mua sắm và nhân viên vẫn ẩn náu sau các quầy hàng,
các cột đá hoa cương. Họ lén nhìn khi tôi sải bước đi qua, nhưng nhiều người
ngần ngại và lại cúi đầu tránh mặt.

Cho dù không
có súng nhưng chắc hẳn tôi tỏ ra nguy hiểm. Hay có lẽ trông tôi như mất hồn,
bàng hoàng. Họ không dám liều lĩnh. Tôi không trách họ trốn tránh tôi.

Vẫn khóc,
lấy tay quệt mắt, tôi cũng đang nói to với chính mình. Tôi không thể ngừng lẩm
bẩm, và thậm chí tôi không nói được gì ra hồn.

Tôi không
biết sức hút siêu linh sẽ dẫn mình đi đến đâu, không biết Stormy còn sống hay
đã chết trong tiệm kem Burke & Bailey. Tôi muốn quay lại tìm nàng, nhưng
tiếp tục bị năng lực đòi hỏi khắt khe kia lôi kéo một cách cấp bách về phía
trước. Ngôn ngữ cơ thể của tôi biểu thị sự co giật, nói ngắc ngứ và hấp tấp lao
đi vì ý định mới. Chắc tôi không giống người bị động kinh mà giống một gã loạn
thần kinh.

Simon Varner
không còn khuôn mặt dễ mến hay cặp mắt ngái ngủ nữa. Hắn chết trước tiệm kem
Burke & Bailey.

Hay có lẽ
tôi đang theo dấu một thứ gì đó liên quan đến Varner. Tôi không thể đoán ra đó
là cái gì. Sự cưỡng ép di chuyển này cứ tiếp tục mà không chỉ đối tượng cụ thể
nào mới cho tôi.

Tôi băng qua
những giá treo váy đầm, áo kiểu bằng lụa, áo khoác, túi xách, cuối cùng tôi vội
vã lao đến cánh cửa đề dòng chữ “Chỉ dành cho nhân viên”. Phía sau là kho hàng.

Tôi mở cửa
ra, đối diện là một cánh cửa khác dẫn đến cầu thang bộ.

Cách bố trí
ở đây tương tự bên cửa hàng cuối phía bắc. Cầu thang đưa xuống hành lang, nơi
đó tôi đi qua thang máy dành riêng cho nhân viên và đến một cánh cửa lò xo
ngoại cỡ có đề biển “Phòng Tiếp nhận”.

Căn phòng
này phản ánh một doanh nghiệp phát đạt, dù nó không ngang bằng về quy mô so với
căn phòng bên cửa hàng cuối phía bắc. Hàng hóa nằm trên giá treo và băng chuyền
đang chờ kiểm kê, đóng gói và chuyển lên buồng chất hàng, tầng bày bán.

Vô số nhân
viên hiện diện, nhưng công việc có vẻ đang tạm dừng. Hầu hết mọi người tụ tập
quanh một phụ nữ đang thổn thức, và những người khác cũng băng qua phòng đến
chỗ cô ấy. Dưới này không thể nghe tiếng súng nên tin tức về vụ kinh hoàng
trong khu mua sắm giờ mới đến được đây.

Chỉ có duy
nhất một chiếc xe tải đậu trong phòng tiếp nhận: không phải xe vận tải loại
lớn, nó dài hơn năm mét, không có tên công ty trên cửa xe hay bên hông toa
moóc. Tôi tiến về phía nó.

Một anh
chàng lực lưỡng đầu trọc và để ria mép dài hai bên bám theo tôi theo đường đi
đến chiếc xe. “Anh đi xe này à?”

Không trả
lời, tôi mở cửa bên tài xế và trèo vào buồng lái.

Chìa không
nằm sẵn trong ổ khóa.

“Tài xế của
anh đâu?” anh ta hỏi.

Khi bật mở
ngăn đựng giấy tờ, tôi thấy nó trống rỗng. Thậm chí không có giấy đăng kí hay
phiếu bảo hiểm theo luật định của bang California.

“Tôi là quản
đốc ở đây,” anh chàng lực lưỡng lên tiếng. “Anh bị điếc hay anh khó ưa vậy hả?”

Không một
thứ gì trên ghế. Không thùng rác dưới sàn. Không một mảnh giấy gói kẹo vứt bậy.
Không có hộp khử mùi hay vật trang trí treo trên kính.

Chiếc xe
không tạo cảm giác có người dùng nó làm phương tiện mưu sinh hay dành phần lớn
thời gian ở trong xe.

Khi tôi từ
sau vô lăng nhảy ra khỏi xe, viên đốc công cất giọng. “Tài xế của anh đâu? Anh
ta không nộp tôi bản kê khai hàng hóa còn toa xe thì khóa kín.”

Tôi đi vòng
ra sau xe, toa xe có cửa cuốn. Ổ khóa nằm dưới cánh cửa khóa chặt nó vào sàn
toa xe.

“Tôi còn
những đợt giao hàng khác,” viên đốc công nói. “Tôi không thể để nó cứ đậu đây.”

“Anh có
khoan điện không?” tôi hỏi.

“Anh định
làm gì?”

“Phá ổ
khóa.”

“Anh không
phải người lái chiếc xe này vào đây. Anh làm chung với anh ta à?”

“Cảnh sát,”
tôi bịa chuyện. “Ngoài giờ.”

Anh ta còn
hồ nghi.

Chỉ vào
người phụ nữ thổn thức hiện đang được rất nhiều nhân viên vây quanh, tôi nói,
“Anh nghe chuyện cô ấy kể chưa?”

“Tôi đang
trên đường đến đó thì thấy anh.”

“Hai tên
điên mang súng máy tấn công khu mua sắm.”

Khuôn mặt
anh ta cắt không còn giọt máu, đến mức bộ ria mép vàng hoe dường như cũng trắng
bệch.

“Anh có nghe
chuyện bọn chúng bắn cảnh sát trưởng Porter tối qua không?” tôi hỏi. “Đó là màn
chuẩn bị cho việc này.”

Với nỗi
khiếp đảm dâng nhanh, tôi quan sát trần nhà của phòng tiếp nhận mênh mông. Ba
tầng lầu đầy các cửa hàng nằm chất chồng bên trên căn phòng này, được nâng đỡ
bằng những cây cột đồ sộ.

Những con
người sợ hãi đang trốn tránh tay súng trên kia. Hàng trăm, hàng trăm người.

“Có thể,”
tôi nói, “tên khốn đến đây với thứ còn tệ hại hơn súng máy.”

“Ôi, chết
tiệt. Tôi sẽ đi lấy khoan.” Anh ta đua nước rút đi lấy nó.

Sau giây lát
áp cả hai bàn tay lên cánh cửa cuốn ở toa xe, tôi tì trán vào cửa.

Tôi không
biết mình mong chờ cảm nhận được gì. Thực ra, tôi cảm thấy chẳng có gì bất
thường. Thế nhưng sức hút siêu linh vẫn chèo kéo tôi. Điều tôi muốn không phải
chiếc xe tải mà là thứ nằm bên trong chiếc xe tải.

Viên đốc
công quay trở lại với cái khoan và ném cho tôi cặp kính bảo hộ.

Ổ điện được
gắn sâu dưới sàn bê tông tại những địa điểm thuận tiện trong khắp phòng tiếp
nhận. Anh ta cắm phích của máy khoan vào ổ điện gần nhất và cho phép kéo dài
sợi dây thoải mái.

Thiết bị
nặng tay. Tôi thích dáng vẻ công nghiệp của mũi khoan. Động cơ kêu rít nhờ
nguồn điện đầy đủ.

Khi tôi
khoan vòng khóa, những mẩu kim loại văng lách cách lên kính bảo hộ, bắn vào
mặt. Mũi khoan cũng trầy xước nhưng nó dùi lỗ qua ổ khóa chỉ trong vài giây.

Lúc bỏ khoan
xuống và tháo kính bảo hộ ra, tôi nghe có người la lên từ đằng xa. “Ê! Để yên
đó!”

Dọc khu dỡ
hàng nền cao, không có ai. Rồi tôi thấy hắn ta. Bên ngoài phòng tiếp nhận, cách
chân dốc xe chạy khoảng sáu mét.

“Đó là tài
xế,” viên đốc công nói với tôi.

Một người lạ
mặt. Hắn ta chắc hẳn đang quan sát, có lẽ bằng ống nhòm, từ ngoài ga-ra dành
cho nhân viên, xuyên qua ba tuyến đường dỡ hàng.

Nắm chặt hai
tay cầm, tôi đẩy mạnh cánh cửa lên. Phần đối trọng làm việc hiệu quả và do được
tra dầu kỹ lưỡng, cánh cửa chạy lên trơn tru và nhanh chóng mở toang.

Chiếc xe tải
hóa ra nhồi nhét hàng trăm cân chất nổ plastic.

Một cây súng
nổ hai phát, một viên đạn trúng vào thành xe, mọi người trong phòng tiếp nhận
thét lên và viên đốc công co giò bỏ chạy.

Tôi liếc ra
sau. Tên tài xế không đến gần chân dốc. Hắn có khẩu súng ngắn, đó không phải vũ
khí tối ưu để bắn tầm xa đến vậy.

Trên sàn toa
xe, trước đống chất nổ là đồng hồ định giờ dùng trong nhà bếp, hai cục pin đầu
mạ đồng, những mẩu nhỏ lạ lùng mà tôi không nhận ra là gì, một đống dây nhợ.
Hai cuộn dây kết thúc tại một bệ đỡ bằng đồng cắm trên vách xám xịt.

m thanh rin
rít chói tai của kim loại va chạm kim loại, phát súng thứ ba nẩy bật ra khỏi xe
tải.

Tôi nghe
tiếng viên đốc công nổ máy chiếc xe nâng gần đó.

Tổ chức phù
thủy không sắp đặt cho toa xe nổ tung khi cánh cửa mở ra vì bọn chúng chừa thời
gian ít đến mức chúng không nghĩ có người chạy lại đây kịp để vô hiệu hóa nó.
Đồng hồ có vòng quay ba mươi phút và tay quay báo giờ nằm cách số không ba
phút.

Lách cách:
hai phút.

Phát súng
thứ tư trúng lưng tôi. Tôi không thấy đau ngay, chỉ giật nảy người, đập xuống
xe tải, mặt cách đồng hồ vài phân.

Có lẽ phát
súng thứ năm, phát súng thứ sáu trúng vào một trong những khối chất nổ plastic
với âm thanh tẻ nhạt, ẩm ướt.

Một viên đạn
không kích nổ nó. Chỉ có bình ắc quy mới làm được.

Hai sợi dây
gây nổ được đặt cách nhau một tấc, một tấc rưỡi. Sợi này kích hoạt còn sợi kia
chặn đứng? Hay một sợi chỉ là dự phòng trong trường hợp sợi kia không thể gây
nổ? Tôi không biết mình phải giật mạnh một hay cả hai sợi.

Có lẽ phát
súng thứ sáu hay thứ bảy lại trúng lưng tôi.

Lần này cơn
đau đập bẹp tôi, nện tôi nhừ tử.

Trong lúc
sụp xuống bởi tác động tàn bạo của viên đạn, tôi túm chặt cả hai sợi dây, và
khi ngã ngược ra sau, tôi giật mạnh chúng khỏi đống chất nổ, lôi đồng hồ, pin
và toàn bộ khối kíp nổ theo cùng.

Xoay người
trong lúc ngã, tôi đập phần hông xuống sàn, hướng mặt về phía con dốc. Tay súng
đã tiến lên gần tôi hơn để bắn trúng hơn.

Thêm một
viên đạn nữa là có thể thanh toán đời tôi, thế mà hắn lại quay lại, cắm đầu
phóng xuống con dốc.

Viên đốc
công gầm rống, chạy qua tôi và lao xuống con dốc trên chiếc xe nâng, một thứ có
phần bảo vệ anh ta trước súng đạn nhờ những thanh nâng chĩa ra nhô cao và lớp
vỏ sắt của chúng.

Tôi không
tin tay súng kia bỏ chạy vì chiếc xe nâng. Hắn muốn ra khỏi đây vì hắn không
thấy rõ hành động tôi đã làm đối với kíp nổ.

Hắn định
chuồn khỏi tầng hầm dỡ hàng kiêm bãi đậu xe này và chạy xa hết mức theo như vận
may cho phép.

Những người
lo âu hối hả chạy đến chỗ tôi.

Đồng hồ định
giờ vẫn hoạt động. Nó nằm trên sàn, cách mặt tôi vài phân.

Lách cách:
một phút.

Cơn đau đang
giảm; song tôi lại lạnh cóng. Lạnh một cách kì lạ. Tầng hầm dỡ hàng và phòng
tiếp nhận không có máy điều hòa, vậy mà tôi lạnh run người.

Mọi người
quỳ cạnh tôi, nói chuyện với tôi. Dường như họ nói bằng tiếng nước ngoài vì tôi
không hiểu họ đang nói gì.

Buồn cười,
sa mạc Mojave trở nên quá băng giá.

Tôi không
bao giờ nghe thấy đồng hồ lách cách nhích đến số không.

CHƯƠNG 63

Stormy
Llewellin và tôi đã đi từ trại huấn luyện binh lính sang cuộc đời thứ hai trong
số ba kiếp sống. Chúng tôi đang cùng nhau thực hiện những chuyến phiêu lưu vĩ
đại sang thế giới bên kia.

Đa số là các
hành trình lãng mạn thú vị đến những địa điểm mờ ảo kì bí, cùng các tình tiết
vui vẻ đầy những nhân vật lạ lùng, trong đó bao gồm Ngài Indiana Jones, người
sẽ không thừa nhận thật ra ông là Harrison Ford, còn có Luke Skywalker, và cả
dì Cymry của tôi, người rất giống quái vật Jabba the Hutt nhưng đẹp cực kì, và
tất nhiên phải có luôn Elvis.

Những trải
nghiệm khác lạ lùng hơn, đen tối hơn, toàn sấm sét, mùi máu và bầy ông kẹ lượn
lờ cùng mẹ tôi thỉnh thoảng phải chạy trên bốn chân.

Đôi lúc tôi
nhận thấy Chúa trời và các thiên sứ của Ngài đang nhìn xuống tôi từ trên bầu
trời thế giới mới này. Họ có khuôn mặt khổng lồ, lờ mờ, mang màu xanh lá cây
mát mẻ dễ chịu, nhiều lúc màu trắng, tuy họ không có nét nào khác ngoài cặp
mắt. Không mũi, không miệng, lẽ ra họ phải kinh khủng lắm, thế nhưng họ bày tỏ
sự yêu thương chăm sóc, và tôi luôn cố nở nụ cười với họ trước khi họ tan biến
vào mây trời.

Cuối cùng
tôi lấy lại được sự minh mẫn để nhận ra mình đã trải qua cuộc phẫu thuật và
đang nằm trên giường bệnh trong căn phòng nhỏ ở Khoa hồi sức tích cực thuộc
Bệnh viện đa khoa của hạt.

Vậy là tôi
chưa đi khỏi trại huấn luyện binh lính.

Chúa và các
thiên sứ thật ra là bác sĩ, y tá đeo khẩu trang. Dì Cymry, bất kể ở đâu, có lẽ
cũng không giống quái vật Jabba the Hutt chút nào.

Một y tá
bước vào phòng khi thấy dữ liệu truyền đi từ máy đo nhịp tim của tôi thay đổi,
cô lên tiếng, “Xem ai tỉnh này. Cậu có biết tên mình không?”

Tôi gật đầu.

“Cậu nói tên
được không?”

Đến khi cố
đáp lại tôi mới nhận ra mình yếu đến mức nào. Giọng tôi nhỏ và thều thào, “Odd
Thomas.”

Khi cô quá
chú ý đến tôi và bảo rằng tôi hệt như vị anh hùng, cam đoan tôi sẽ khỏe lại,
tôi thều thào “Stormy” bằng giọng đứt quãng.

Tôi sợ kêu
tên nàng. Sợ phải hứng chịu tin dữ. Thế nhưng cái tên thân thương đối với tôi
đến nỗi lập tức tôi thích cảm nhận nó trên đầu lưỡi một khi đủ sức kêu lên.

Cô y tá tưởng
rằng tôi kêu đau họng, và khi cô gợi ý có thể để một, hai mẩu nước đá nhỏ tan
trong miệng tôi, tôi lắc đầu mạnh hết sức và nói, “Stormy. Tôi muốn gặp Stormy
Llewellin.”

Tim tôi đập
mạnh. Tôi nghe tiếng bíp bíp nhỏ và nhanh phát ra từ máy đo điện tâm đồ.

Y tá đưa bác
sĩ đến khám cho tôi. Xem ra ông ta kinh ngạc trước tôi, một phản ứng mà không
đầu bếp chiên nướng thức ăn nào trên thế giới quen với nó và không một ai có
thể cảm thấy thoải mái về nó.

Ông ta dùng
cụm từ “anh hùng” quá nhiều, và bằng giọng khò khè, tôi yêu cầu ông ta đừng lặp
lại từ đó nữa.

Tôi thấy mệt
rã rời. Tôi không muốn chợp mắt trước khi gặp Stormy. Tôi nhờ họ đưa cô ấy vào.

Việc họ
không phản ứng tức thì trước thỉnh cầu của tôi khiến tôi hoảng sợ lần nữa. Tim
đập thình thịch, vết thương của tôi nhói lên đồng thanh, bất chấp mọi liều
thuốc giảm đau tôi đang được truyền.

Họ lo rằng
ngay cả cuộc gặp gỡ năm phút cũng gây cho tôi quá nhiều căng thẳng, nhưng tôi
van nài và họ để nàng vào Khoa hồi sức tích cực.

Nhìn thấy
nàng, tôi bật khóc.

Nàng cũng
khóc. Đôi mắt Ai Cập đen huyền.

Tôi quá yếu
không thể chìa tay tới nàng. Nàng luồn tay qua thanh chắn của giường, áp tay
lên tay tôi. Tôi tìm thấy sức mạnh để đan bàn tay tôi vào bàn tay nàng, một nút
thắt tình yêu.

Nhiều giờ
liền, nàng ngồi ngoài phòng đợi của Khoa hồi sức tích cực trong bộ đồng phục
của tiệm kem Burke & Bailey mà nàng cực ghét. Giày hồng, vớ trắng, váy
hồng, áo kết hợp hai màu trắng hồng.

Tôi nói với
nàng rằng đây chắc hẳn là trang phục sặc sỡ nhất từng xuất hiện ở phòng đợi của
Khoa hồi sức tích cực. Nàng cho tôi biết Ozzie “bé” đang ở ngoài kia, ngồi trên
hai cái ghế, mặc quần vàng và áo sơmi kiểu Hawaii. Chị Viola cũng ngoài đó, và
cả cô Terri Stambaugh.

Khi tôi hỏi
tại sao nàng không đội mũ lưỡi trai hồng, nàng ngạc nhiên sờ tay lên đầu, lần
đầu tiên phát hiện ra mình không đội mũ. Tôi mất mũ trong cơn hỗn loạn tại khu
mua sắm.

Tôi nhắm mắt
và khóc, không phải vì vui sướng mà vì đau xót. Tay nàng siết chặt tay tôi,
nàng truyền cho tôi sức mạnh để thiếp đi và dám trải qua những giấc mơ về bọn
yêu ma.

Sau đó nàng
ghé thăm tôi thêm lần nữa trong năm phút, và khi nàng nói chúng tôi cần hoãn
đám cưới, tôi nhất mực giữ nguyên kế hoạch vào thứ Bảy. Sau chuyện đã xảy ra,
thành phố chắc chắn sẽ cắt giảm mọi thủ tục rườm rà, và nếu bác của Stormy
không chịu làm lễ cho chúng tôi trong phòng bệnh, sẽ có chánh án thực hiện.

Tôi đã hi vọng
ngay sau đám cưới, hai đứa sẽ động phòng. Song đám cưới lúc nào đối với tôi
cũng quan trọng hơn đêm tân hôn, bây giờ lại càng quan trọng hơn bao giờ hết.
Chúng tôi còn cả quãng đời dài để ngủ với nhau.

Trước đó
nàng hôn tay tôi. Giờ nàng chồm lên thanh chắn, hôn môi tôi. Nàng là sức mạnh
của tôi. Nàng là định mệnh của tôi.

Không hề có
ý thức về thời gian, tôi ngủ lơ mơ chập chờn.

Người tiếp
theo vào thăm tôi, bà Karla Porter, xuất hiện sau khi y tá nâng giường tôi lên
và cho tôi uống vài ngụm nước. Bà Karla ôm tôi, hôn lên má, lên trán tôi, và cả
hai đã cố mà vẫn không ngăn được nước mắt.

Chưa bao giờ
tôi nhìn thấy bà Karla khóc. Bà mạnh mẽ, bà cần phải thế. Giờ đây bà có vẻ suy
sụp.

Tôi lo tình
hình của cảnh sát trưởng bỗng trở nặng nhưng bà nói không có chuyện đó.

Bà mang đến
tin tốt lành rằng cảnh sát trưởng sẽ được đưa ra khỏi Khoa hồi sức tích cực
ngay đầu giờ sáng mai. Ông đã bình phục hẳn.

Thế nhưng
sau nỗi kinh hoàng ở khu mua sắm Green Moon, không ai trong chúng tôi còn như
trước nữa. Thị trấn Pico Mundo cũng vĩnh viễn thay đổi.

Nhẹ nhõm khi
biết cảnh sát trưởng sẽ bình phục, tôi không nghĩ đến chuyện hỏi han về vết
thương của mình, Stormy Llewellin còn sống; lời hứa của Xác ướp Gypsy sẽ được
thực hiện. Mọi chuyện khác không thành vấn đề nữa.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3