Papillon - Người tù khổ sai - Chương 16 phần 2

Lúc bấy giờ trước nhà chúng tôi có một người ngồi đợi. Đó là người Anh-điêng
thường ngày vẫn chèo thuyền cho Lali đi biển. Anh ta nhoẻn miệng cười với tôi
nhắm mắt lại và làm những điệu bộ rất dễ thương để cho tôi hiểu rằng anh ta
biết Lali đang ngủ. Tôi ngồi xuống bên cạnh anh ta, nghe anh ta nói những điều
mà tôi không hiểu. Người anh ta lực lưỡng và trẻ trung lạ thường, dáng vóc như
một lực sĩ. Anh ta ngắm nghía hồi lâu những hình xăm trên người tôi, xem xét kỹ
lưỡng từng hình một, rồi ra hiệu cho tôi là anh ta muốn nhờ tôi xăm hình cho.
Tôi gật đầu ưng thuận, nhưng hình như anh ta cho rằng tôi không biết. Lali bước
ra. Cô đã bôi dầu lên khắp người. Cô biết rằng tôi không thích như vậy, nhưng
cô làm bộ điệu để tôi hiểu rằng hôm nay không có nắng thành thử nước biển rất
lạnh. Những điệu bộ, cử chỉ ấy, mà Lali làm một cách vừa nghiêm trang vừa đùa
bỡn, duyên dáng và đẹp mắt đến nỗi tôi cứ giả vờ không hiểu để buộc cô phải làm
đi làm lại mấy lần. Khi tôi ra hiệu bảo Lali làm lại, cô bĩu môi, và cái bĩu
môi ấy nói rất rõ: “Có phải là anh ngốc quá không hiểu được, hay tại em vụng
quá không làm cho anh hiểu được tại sao em lại phải bôi dầu vào người?”

Ông thủ lĩnh đi ngang trước mặt chúng tôi, có hai cô Anh-điêng theo sau.
Hai cô xách một con thằn lằn xanh to tướng nặng phải đến bốn năm cân, còn ông
thủ lĩnh thì cầm cung lên. Ông ta vừa mới bắn được con thằn lằn và mời tôi lát
nữa sang nhà ăn thịt nó. Lali nói gì với ông ta không rõ, chỉ thấy ông ta chạm
tay lên vai tôi và chỉ ra biển. Tôi hiểu rằng ông ta cho phép tôi đi ra biển
với Lali nếu tôi muốn. Cả ba chúng tôi: Lali, người chèo thuyền thường ngày cho
cô, và tôi, cùng ra đi. Chiếc thuyền nhỏ của họ rất nhẹ, làm bằng một thứ gỗ
xốp mềm như điên điển, đưa xuống nước rất dễ. Họ vác chiếc thuyền trên vai lội
xuống nước và cứ thế đi một quãng. Cách họ cho thuyền xuất phát rất lạ: người
đàn ông Anh-điêng lên thuyền trước, tay cầm một cái chèo to tướng. Lali, nước
lút ngang ngực, giữ cho chiếc thuyền cân bằng và không để cho nó lùi về phía
bờ, tôi leo lên ngồi ở giữa, thế rồi bỗng nhiên, thoắt một cái, Lali đã ngồi
gọn trên thuyền đúng vào lúc người đàn ông Anh-điêng ấn mạnh chèo đẩy thuyền ra
biển. Các đợt sóng giống như những cuộn vải, càng xa bờ càng lớn. Cách bờ
khoảng năm sáu trăm mét có một thứ kênh: ở đấy đã có hai chiếc thuyền đang vớt
trai. Lali đã buộc mấy bím tóc lên đầu bằng năm sợi dây da màu đỏ, ba sợi buộc
ngang, hai sợi buộc dọc, tất cả đầu được quấn vào cổ. Tay cầm một con dao lớn,
Lali lần theo thanh sắt nặng đến mười lăm cân vốn dùng làm neo mà người đàn ông
vừa ném xuống đáy biển.

Chiếc thuyền đứng tại chỗ nhưng không phải là đứng yên, vì cứ mỗi đợt sóng
nó lại nhô lên rồi hạ xuống. Hơn ba tiếng đồng hồ Lali cứ trồi lên lặn xuống,
từ đáy biển lên mặt biển. Ở đây không trông thấy đáy, nhưng cứ vào khoảng thời
gian Lali phải mất mà suy ra thì chắc phải sâu từ mười lăm đến mười tám mét.
Mỗi lần ngoi lên, trong cái túi của cô đều có trai, người đàn ông Anh-điêng dốc
cái túi cho trai đổ vào lòng thuyền. Trong ba tiếng đồng hồ ấy Lali không lần
nào lên thuyền. Khi cần nghỉ, cô vịn mạn thuyền đứng yên khoảng từ năm đến mười
phút. Chúng tôi đã hai lần đổi chỗ mà Lali vẫn không lên thuyền. Ớ chỗ thứ hai,
trong túi thấy có nhiều trai hơn, và kích thước của nó cũng lớn hơn. Chúng tôi
vào bờ. Lali đã leo lên thuyền và chẳng mấy chốc sóng đã đẩy chúng tôi vào bãi
cát.

Người đàn bà Anh-điêng đang đợi. Lali và tôi để cho bà ta và người đàn ông
kia đưa trai lên bãi cát. Khi mớ trai đã ráo nước, Lali không để cho bà già
tách miệng chúng ra, chính cô bắt đầu làm việc đó. Cô nhanh nhẹn dùng mũi dao
mở khoảng ba chục con mới thấy được một viên ngọc. Tôi khỏi phải nói với các
bạn rằng trong khi đó tôi đã chén hết ít nhất là hai tá. Chắc nước ở dưới đáy
phải lạnh lắm, vì thịt con nào cũng rất mát. Lali khe khẽ moi viên ngọc ra: nó
to như một hạt đậu cô-ve. Viên ngọc này thuộc loại ngọc trai cỡ lớn. Nó sáng
quá? Thiên nhiên đã cho nó những sắc thái óng ả, uyển chuyển nhưng không quá
lòe loẹt. Lali dùng hai ngón tay cầm viên ngọc lên bỏ vào miệng ngậm một lát,
rồi lấy ra bỏ vào miệng tôi. Bằng một loạt cử chỉ nhai, cô làm cho tôi hiểu
rằng cô muốn cắn vỡ viên ngọc và nuốt đi. Tôi từ chối, nhưng những cử chỉ van
nài của cô đẹp đến nỗi tôi phải làm theo ý cô: tôi nhai vỡ viên ngọc và nuốt
cách mảnh vụn. Cô tách bốn năm con trai nữa cho tôi ăn, có lẽ để cho viên ngọc
vào bụng tôi kỳ hết. Cô bắt tôi nằm ngửa ra bãi cát, rồi như đứa con nít, cô
banh miệng tôi ra nhìn kỹ xem có còn mảnh vụn nào trong răng không. Sau đó
chúng tôi ra về, để cho hai người kia tiếp tục công việc.

Tôi ở đây đã được một tháng. Tôi không tính nhầm được, vì ngày nào tôi cũng
ghi ngày tháng lên một tờ giấy. Mấy cái kim đã được gửi đến từ lâu cùng với ba
thứ mực dùng để xăm hình: đỏ, xanh, và tím. Tôi đã phát hiện ở nhà ông thủ lĩnh
ba con dao cạo Sulliguen. Ông ta không bao giờ dùng thứ dao này để cạo râu, vì
người Anh-điêng không có râu. Ông chỉ dùng một trong ba con dao cạo để cạo tóc:
cạo như vậy tóc đứt rất đều thành từng lớp đuổi nhau. Tôi đã xăm cho Zato (tên
của thủ lĩnh). Được một hình trên cánh tay. Đó là hình một người Anh-điêng,
trên đầu có cắm những chiếc lông chim đủ màu. Ông ta thích mê đi và ra hiệu dặn
tôi đừng xăm cho ai trước khi xăm xong một hình thật lớn trên ngực ông. Ông ta
muốn có cái đầu hổ như của tôi, với bộ răng nanh thật nhọn. Tôi cười, vì tôi
không biết vẽ cho thật khéo để có được một cái đầu hổ đẹp như vậy.

Lali đã nhổ hết lông trên người tôi. Hễ phát hiện ra được sợi này là cô lập
tức nhổ đi và lấy rong biển giã nhỏ trộn với tro xát vào. Hình như thứ thuốc
này làm cho lông khó mọc lại thật.

Cái công xã Anh-điêng này được gọi là Guajira. Họ Ở ven bờ biển và vùng
đồng bằng cho đến chân núi. Trong núi có những công xã khác được gọi là
Motilones. Mấy năm sau tôi sẽ có dịp tiếp xúc với những người này. Người
Guajiros, như tôi đã nói, có tiếp xúc gián tiếp với thế giới văn minh thông qua
những cuộc đổi chác. Những người Anh-điêng ở bờ biển giao cho người Anh-điêng
da nhợt những viên ngọc trai và cả những con rùa bể nữa. Rùa được đổi sống, nặng
đến khoảng một trăm rưỡi ký lô. Ở đây không bao giờ có loại rùa to và nặng như
ở sông Oneroca hay sông Maroni có những con có thể đến bốn trăm ký lô, mai đôi
khi dài đến hai mét trên một mét chiều rộng. Khi bị đặt ngửa, chúng không tự
lật sấp lại được. Tôi đã trông thấy mấy con như vậy bị đặt nằm ngửa đến ba
tuần, không được ăn uống gì cả mà vẫn sống, trước khi bị đem đi đổi. Còn loại
thằn lằn xanh thì thịt rất ngọt, trắng, mềm và ngọt, trứng của nó vùi vào cát
để cho nắng nung lên cũng có hương vị rất mặn mà. Chỉ riêng cái vẻ ngoài của nó
trông không có gì ngon lành cả.

Cứ mỗi lần Lali đi vớt trai, cô lại đem về nhà những viên ngọc thuộc phần
cô. Những viên ngọc ấy cô đều cho tôi tất. Tôi cất nó vào một cái cốc bằng gỗ
không phân biệt viên to, viên trung bình hay viên nhỏ. Tôi chỉ cất trong một
cái hộp riêng hai viên ngọc màu hồng, ba viên đen và bảy viên có màu xám kim
loại đẹp kinh khủng. Tôi lại còn có một viên ngọc lớn ba màu hình thù như hạt
đậu, và cũng to bằng một hạt đậu trắng hay đậu đỏ ở châu âu. Ba màu ấy làm
thành ba lớp chồng lên nhau, và tùy theo thời tiết, một trong ba màu hiện rõ
hơn và màu kia: khi thì lớp màu đen, khi thì lớp màu kia nâu như thép cũ, khi
thì lớp màu bạc có ánh hồng. Nhờ có ngọc trai và rùa, bộ lạc Guajiros này không
thiếu thứ gì. Chỉ có điều là họ có những vật mà họ chẳng biết dùng làm gì,
trong khi đó thì lại thiếu những thứ khác lẽ ra có thể có ích cho họ. Chẳng hạn
cả bộ lạc không có lấy được một tấm gương. Cũng may tôi bắt được một mảnh kim
loại có lẽ từ một chiếc thuyền bị đắm long ra, có một mặt mạ kền, tôi dùng nó để
soi mặt khi cần cạo râu.

Sách lược của tôi đối với các bạn tôi rất dễ dàng: tôi không làm điều gì có
thể có hại đến uy thế của thủ lĩnh, và càng tránh những việc có thể xúc phạm
đến một ông già Anh-điêng sống một mình trong vùng đồng bằng cách đấy bốn cây
số giữa một bầy rắn, hai con dê và một tá cừu. Đó là ông thầy mo chung của mấy
xóm Guajiros ở xung quanh. Thái độ đó khiến cho không có người nào ganh tỵ hay
có ác cảm với tôi. Sau hai tháng tôi đã được mọi người hoàn toàn coi như người
nhà. Ông thầy mo còn có vài chục con gà. Vì trong hai xóm Anh-điêng mà tôi biết
không hề thấy có nuôi dê, cừu và gà gì cả, tôi suy ra rằng việc nuôi gia súc là
một đặc quyền của ông thầy mo. Những người đàn bà Anh-điêng thay phiên nhau cứ
mỗi buổi sáng một người đội cái rổ đựng cá và sò mới vớt được đem đến cho ông
ta. Ngoài ra còn có những chiếc bánh bột ngô vừa làm sáng hôm ấy và được nướng
chín trên những hòn đá nung lửa. Thỉnh thoảng họ trở về làng với mấy quả trứng
và một ít sữa đóng váng, nhưng không phải hôm nào cũng có. Khi nào ông thầy mo
muốn tôi đến thăm ông ta, ông ta gửi riêng cho tôi ba quả trứng và một con dao
bằng gỗ chuốt thật trơn. Lali đi theo tôi đến nửa đường và ngồi đợi tôi dưới
bóng những cây xương rồng khổng lồ. Lần đầu tiên chính cô đã đặt con dao bằng
gỗ ấy vào tay tôi rồi giơ tay chỉ hướng cho tôi đi.

Ông thầy mo Anh-điêng đã già lắm rồi. Ông ta sống trong một cảnh dơ bẩn
cùng cực dưới một cái lều căng bằng những tấm da bò, còn nguyên lông, mặt có
lông trở vào phía trong. Ở giữa lều có đặt ba hòn đá quây quanh một bếp lửa mà
người ta cảm thấy là được để cháy suốt đêm ngày. Ông ta không ngủ trên võng mà
trên một thứ giường làm bằng cành cây, cách mặt đất hơn một mét. Cái lều khá
rộng, phải đến hai mươi mét vuông. Nó không có vách, chỉ phía có gió được che
bằng mấy cành cây. Tôi đã được nhìn thấy hai con rắn, một con dài gần ba mét,
to bằng cánh tay, còn con kia dài chừng một mét, có một hoa văn hình chữ V màu
vàng trên đầu. Tôi tự nhủ: “Hai con rắn này đã ngốn bao nhiêu gà và trứng không
biết!” Tôi không hiểu làm thế nào mà bấy nhiêu dê, cừu, gà và cả con lừa nữa
đều có chỗ nương thân dưới mái lều này. Ông già xem xét tôi từng li từng tí,
rồi bắt tôi cởi cái quần mà Lali đã biến thành quần soóc, và khi tôi đã trần
truồng như con nhộng, ông ta bắt tôi ngồi lên một hòn đá bên cạnh bếp lửa. Rồi
ông ta thả vào lửa những cái lá xanh làm khói bốc lên mù mịt, sặc mùi bạc hà.
Đám khói vay kín xung quanh tôi làm tôi ngạt thở. Nhưng tôi hầu như không ho,
cố kiên nhẫn ngồi đợi trong mười phút khói mới tan đi. Sau đó ông ta đốt cái
quần của tôi và đưa cho tôi hai cái khố của người Anh-điêng, một bằng da cừu,
một bằng da rắn, mềm mại như một chiếc găng tay. Ông ta lại đeo vào cánh tay tôi
một cái vòng đan bằng dây da dê, da cừu và da rắn. Nó rộng mười phân và được buộc
vào tay bằng một sợi dây làm bằng da rắn đã thuộc có thể thắt chặt lại hay nới
rộng ra tùy ở mắt cá chân trái, ông thầy mo có một cái mụt sâu quảng to bằng
một đồng bạc hai francs, bâu đầy ruồi nhặng. Chốc chốc ông ta lại đuổi chúng
đi, và khi nào bị quấy nhiễu quá nhiều thì ông ta lấy tro rắc lên chỗ bị loét.
Được ông thầy mo chấp nhận rồi, tôi định ra về thì ông ta đưa cho tôi một con
dao bằng gỗ nhỏ hơn con dao ông đã gửi cho tôi. Về sau Lali sẽ cắt nghĩa cho
tôi hiểu rằng khi nào tôi muốn gặp ông thầy mo, tôi phải gửi cho ông con dao
nhỏ này, và nếu ông ta bằng lòng cho tôi gặp, ông ta sẽ gửi con dao to.

Tôi từ giã ông thầy mo già sau khi nhận thấy da mặt và da cổ của ông nhăn
nheo đến nhường nào. Cái miệng móm mém của ông chỉ còn có năm cái răng, ba ở
hàm dưới và hai ở hàm trên, đều là răng cửa. Mắt ông, cũng hình quả hạnh nhân
như tất cả những người Anh-điêng khác, có đôi mi húp đến mỗi khi nhắm lại thì
làm thành hai cục thịt tròn. Ông ta không còn lông mày lông mi gì nữa, nhưng
tóc thì vẫn đen và cứng, dài đến tận vai và được xén rất thắng. Cũng như mọi
người Anh-điêng, ở phía trước mặt ông có một bờm tóc cắt ngang lông mày.

Tôi ra về với một cảm giác ngượng nghịu vì đôi mông đít lộ thiên. Tôi cảm
thấy mình buồn cười quá. Thôi, đã vượt ngục thì đành phải thế. Không nên đùa
với người Anh-điêng: vi phạm tục lệ của họ là không xong đâu. Muốn được tự do
thì cũng phải chịu khó chấp nhận một vài điều bất tiện. Lali nhìn cái khố cười
như nắc nẻ, phô hai hàm răng đẹp chẳng kém gì những viên ngọc trai mà cô vớt
được, cô xem xét cái vòng đeo tay và cái khố thứ hai bằng da rắn. Để kiểm tra
xem tôi đã được hun khói chưa, cô ngửi kỹ người tôi. Cũng xin mở ngoặc nói thêm
rằng khứu giác của người Anh-điêng rất tinh. Tôi đã quen với cảnh sống này và
nhận thấy không nên tiếp tục sinh hoạt quá lâu theo kiểu này, vì đến một lúc
nào đó có thể người ta không còn muốn đi đâu nữa.

Lali thường xuyên quan sát tôi, cô mong cho tôi tham gia tíchh cực hơn cuộc
sống chung của bộ lạc. Chẳng hạn cô đã trông thấy tôi đi đánh cá, cô biết rằng
tôi chèo rất giỏi và điều khiển chiếc xuồng nhẹ một cách thành thạo. Từ đó đến
chỗ muốn rằng chính tôi chèo xuồng cho cô đi vớt trai không có gì là xa. Nhưng
tôi thì lại không muốn thế. Lali là người lặn giỏi nhất trong đám con gái làng
này, bao giờ thuyền cô cũng vớt được nhiều trai hơn và cũng là những con trai
to hơn, tức là nằm sâu hơn cả. Tôi lại biết rằng người thanh niên Anh-điêng
chèo thuyền cho cô là em trai của thủ lĩnh. Chèo thuyền của Lali thay cho anh
ta tức là làm cho anh ta thiệt thòi, vậy tôi không được làm điều đó. Nhưng khi
Lali thấy tôi tư lự, cô lại đi tìm em gái. Cô bé này mừng rỡ chạy đến và đi vào
nhà bằng cái cửa dành cho tôi. Điều đó chắc phải có một ý nghĩa quan trọng.
Thường hai người cùng đến một lúc trước cái cửa lớn quay ra biển. Đến đây mỗi
người đi một phía: Lali đi một vòng rồi vào bằng cửa của mình, còn Zoraima đi
vào cửa của tôi. Zoraima vú mới to bằng quả quýt, tóc cũng chưa dài, mái tóc cô
cắt thành đường thẳng chấm xuống ngang cằm, cái bờm trên trán xuống quá lông
mày, gần chấm đến mi. Mỗi lần Lali gọi em đến như vậy, cả hai chị em đều xuống
biển tắm, rồi khi vào nhà họ đều cởi khố treo lên võng. Mỗi lần ở nhà chúng tôi
ra về, cô bé lần nào cũng rất buồn vì tôi đã không lấy cô ta. Hôm trước, cả ba
chúng tôi đang nằm trên võng, Lali đang nằm giữa thì chợt đứng dậy và khi nằm
xuống thì lại nằm ra ngoài để cho tấm thân trần truồng của Zoraima áp vào người
tôi.

Người Anh-điêng thường chèo thuyền cho Lali bị thương ở đầu gối, đó là một
vết đứt rất rộng và rất sâu. Mấy người đàn ông đã khiêng anh ta đến nhà ông
thầy mo, và khi trở về, đầu gối anh được trát một lớp đất sét trắng. Vậy sáng
hôm ấy tôi phải chèo thuyền cho Lali đi vớt trai. Tôi cũng cho thuyền ra biển
đúng như người kia vẫn làm những lần trước, và thao tác của tôi đã được thực
hiện khá chính xác. Tôi đưa Lali ra xa hơn thường lệ một chút. Cô ta rạng rỡ vì
vui sướng khi thấy chỉ có hai người đi cùng thuyền. Trước khi lặn cô xoa dầu
lên người. Tôi nhìn xuống đáy biển đen ngòm, nghĩ rằng nước ở đây chắc phải lạnh
lắm. Ba cái vây cá mập nhô lên trên mặt nước đi qua khá gần chỗ chúng tôi, tôi
chỉ cho Lali xem, nhưng cô không thèm để ý. Lúc bấy giờ vào khoảng mười giờ
sáng, trời nắng. Cái túi đựng ngọc trai quấn xung quanh cánh tay trái, con dao
giắt vào bao da đeo rất chặt ở thắt lưng, Lali nhảy xuống nước mà không hề làm
cho thuyền tròng trành như những người khác thường làm khi đạp thuyền để lấy đà
nhảy xuống. Cô lặn xuống đáy nước đen ngòm với một tốc độ khó lòng tưởng tượng
nổi. Lần lặn đầu tiên này chắc chỉ để thăm dò, vì trong túi thấy có ít trai.
Tôi nảy ra một ý. Trên thuyền có một cuộn dây da rất lớn. Tôi buộc một đầu dây
vào cái túi, đưa túi cho Lali và khi cô lặn xuống tôi tháo cuộn dây ra: sợi dây
da theo cô xuống đến tận đáy. Chắc Lali đã hiểu ý tôi vì một lát sau cô ngoi
lên, không đem theo cái túi. Tay bám vào thuyền để nghỉ sau chuyến lặn khá lâu
này, cô ra hiệu cho tôi kéo cái túi lên. Tôi kéo, kéo nữa, nhưng đến một lúc
nào đó thấy dây bị mắc kẹt, chắc là cái túi bị vướng vào san hô. Lali lặn xuống
để gỡ nó ra, cái túi đầy được một nửa, tôi trút trai vào lòng thuyền. Sáng hôm
ấy, sau tám lần lặn sâu mười lăm mét, chiếc thuyền đã gần đầy. Khi Lali leo lên
thuyền, mép thuyền chỉ còn nhô lên trên mặt nước có hai phân. Khi tôi định kéo
neo lên, chiếc thuyền chở quá nhiều trai suýt chìm nghỉm. Chúng tôi đành phải
tháo dây neo ra buộc vào một cái chèo cho nó nổi lềnh bềnh tại chỗ để đánh dấu
nơi thả neo rồi chèo thuyền vào. Chúng tôi vào bờ bình yên vô sự. Bà già đang
chờ chúng tôi, và anh chàng Anh-điêng thường đi với Lali cũng đang ngồi trên
cát khô ở chỗ thường tách trai tìm ngọc. Anh ta rất hài lòng khi thấy số trai
vớt được nhiều như vậy. Lali giảng giải cho anh ta hiểu cách làm của tôi: buộc
cái túi vào dây để nguyên dưới đáy thì khi lên cô được nhẹ hơn, do đó tiết kiệm
được thời gian, cho nên mới nhặt được nhiều trai hơn. Anh ta nhìn cái túi để
xem tôi buộc như thế nào và xem xét rất kỹ cái nút buộc. Anh ta tháo nó ra và
thử thắt lại như cũ: chỉ một lần anh ta đã thắt được ngay. Anh ta đưa mắt nhìn
tôi có vẻ rất tự hào.

Mở hết chỗ trai ra, bà già lấy được mười ba viên ngọc, Lali thường ngày
không bao giờ ở lại xem bà già làm việc này, mà về nhà ngay rồi đợi người ta
đem phần của mình về, nhưng lần này thì cô ngồi lại cho đến khi mở con trai
cuối cùng. Tôi ăn đến ba tá là ít, Lali thì chỉ ăn năm sáu con. Bà già chia
phần chỗ ngọc trai vừa nhặt được. Mười ba viên gần bằng nhau, đều xấp xỉ to
bằng hạt đậu Hà Lan. Bà già tách ra ba viên cho thủ lĩnh, ba viên cho tôi, hai
viên cho bà ta, và năm viên cho Lali. Lali lấy ba viên phần tôi đưa cho tôi.
Tôi cầm lấy và đưa cho người Anh-điêng bị thương. Anh ta không chịu lấy, nhưng
tôi mở tay anh ta ra, giúi ngọc vào và bóp tay anh lại. Đến lúc ấy anh ta mới
nhận. Vợ và con gái anh ta nảy giờ im lặng ngồi cách đấy một quãng nhìn chúng
tôi, thấy thế liền cất tiếng cười mừng rỡ và đến nhập bọn với chúng tôi. Tôi
giúp họ dìu anh ta về nhà. Cảnh này được lặp đi lặp lại trong gần hai tuần. Lần
nào tôi cũng giao lại phần ngọc của tôi cho người đàn ông Anh-điêng. Hôm qua
tôi giữ lại một trong sáu viên ngọc thuộc phần của tôi. Về đến nhà tôi đã bắt
Lali ăn nó. Lali phát cuồng lên vì vui sướng, ca hát suốt cả buổi chiều.

Thỉnh thoảng tôi lại đến gặp người Anh-điêng da nhợt. Anh ta bảo tôi gọi
anh là là Zorillo, tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là con cáo nhỏ. Anh ta nói với
tôi là thủ lĩnh sai anh hỏi tôi xem thử tại sao tôi không xăm cho ông hình đầu
hổ đi, tôi phân trần rằng sở dĩ tôi chưa dám xăm vì tôi không biết vẽ cho thật
giống cái đầu hổ của tôi. Vừa nói vừa tra từ điển, tôi yêu cầu anh ta kiếm cho
tôi một tấm gương hình chữ nhật rộng bằng ngực tôi, một tờ giấy trong, một cái
bút lông nhỏ nét và một lọ mực, một ít giấy than hay nếu không kiếm được chì
một cây bút chì nét thật to và thật đậm. Tôi cũng nhờ anh ta kiếm một ít áo quần
vừa khổ người tôi và cứ để ở nhà anh ta với ba cái áo sơ-mi ka-ki. Tôi được anh
ta cho biết rằng cảnh sát có hỏi anh ta về tôi và Antonio. Anh ta đã nói với họ
rằng tôi đã vượt núi sang Venezuela, còn Antonio thì bị rắn cắn chết rồi. Anh
ta cũng biết rằng mấy người Pháp vượt ngục hiện đang ở nhà tù Santa Marta.

Trong nhà Zorillo cũng có đủ những thứ đồ đạc linh tinh pha tạp như trong
nhà ông thủ lĩnh: một đống lớn những cái hũ bằng đất sét có vẽ những hoa văn
được người Anh-điêng ưa chuộng, đó là những thứ đồ gốm rất nghệ thuật về hình
dáng cũng như màu sắc và hoa văn; những cái võng tuyệt đẹp bằng len thuần chất,
cái thì trắng muốt, cái thì có màu sắc, có dải viền. Những tấm da rắn, da thằn
lằn, da ễnh ương, tấm nào cũng rất lớn và được thuộc kỹ; những cái giỏ đan bằng
dây leo trắng hoặc nhiều màu. Anh ta nói rằng tất cả những vật ấy đều là sản
phẩm của những bộ lạc Anh-điêng thuộc cùng một chủng tộc với bộ lạc của tôi
nhưng lại sống trong rừng rậm cách đây hai mươi lăm ngày đường. Hơn hai mươi
chiếc lá coca mà anh ta cho tôi cũng từ đấy đến. Khi nào mỏi mệt chán chường,
tôi sẽ nhai một chiếc lá là thấy đỡ ngay. Tôi từ giã Zorillo và yêu cầu anh ta
khi nào tiện thì đem tất cả những vật tôi đã kê và thêm vào đấy mấy tờ báo hay
tạp chí bằng tiếng Bây Ban Nha, vì với cuốn từ điển, trong hai tháng qua tôi đã
học thêm được khá nhiều. Anh ta không có tin tức gì của Antonio, chỉ biết rằng
vừa qua lại có một cuộc đụng độ giữa các đội canh phòng bờ biển với bọn buôn
lậu. Năm người lính và một người buôn lậu đã bị giết, nhưng chiếc thuyền thì
không bắt được. Chưa bao giờ tôi trông thấy một giọt rượu mạnh ở trong làng,
nếu không kể thứ nước quả lên men mà tôi đã có lần nói đến. Trông thấy một chai
rượu hồi trong nhà Zorillo, tôi hỏi xin anh ta. Anh ta từ chối. Nếu tôi muốn
uống ở đây thì cứ uống, nhưng đem về thì anh ta không cho.

Báo cáo nội dung xấu