Papillon - Người tù khổ sai - Chương 19 phần 1

Chương 19

Những chuyến vượt ngục ở
Baranquilla

Đến sáu giờ sáng, tám người lính và hai người cảnh binh do một trung úy chỉ
huy khóa tay chúng tôi lại và đưa chúng tôi lên một chiếc xe tải nhà binh.

Chúng tôi lên đường đi Baranquilla. Xe vượt qua cái khoảng cách một trăm
tám mươi cây số trong ba tiếng rưỡi đồng hồ. Đến mười giờ sáng chúng tôi đã đến
cái nhà tù được gọi là “Tám mươi”, calle Medellin ở Baranquillạ Bấy nhiêu cố
gắng để đừng đi Baranquilla mà rốt cục vẫn đến đây rồi! Đây là một thành phố
lớn. Hải cảng quan trọng nhất của xứ Colombia trên Đại Tây Dương, nhưng đặt ở phía
trong cửa sông Rio Magdalena. Nhà tù của nó cũng là một nhà tù lớn: bơn trăm tù
nhân và gần một trăm giám thị. Nó được tổ chức như mọi nhà tù ở Châu Âu. Hai
bức tường có đường đi tuần tra, cao hơn tám mét.

Bộ chỉ huy của nhà tù, đứng đầu là viên giám đốc Don Gregorio, đón tiếp
chúng tôi. Nhà tù có bốn khoảng sân. Hai bên này, hai bên kia. Giữa hai bên là
một cái nhà thờ dài trong đó thường làm lễ mi-sa, những cũng dùng làm nơi tiếp
khách. Chúng tôi được phân vào cái sân dành cho những tù nhân nguy hiểm nhất.
Khi lục soát họ đã phát hiện được số tiền hai mươi ba ngàn pesos và hai mũi tên.
Tôi tự thấy có bổn phận phải nói trước cho ông giám đốc biết là mấy mũi tên này
có tẩm thuốc độc, và điều đó chẳng có gì làm tăng được mối thiện cảm của họ đối
với chúng tôi.

- Mấy thằng Pháp ấy có cả tên độc nữa đấy?

Bị giam trong cái nhà tù Baranquilla này đối với chúng tôi là thời đoạn
nguy nhất trong cuộc phiêu lưu của chúng tôi. Thật vậy, chính đây là nơi mà
chúng tôi sẽ bị giao lại cho nhà chức trách Pháp. Phải, Baranquilla đối với
chúng tôi chung quy là cái nhà tù khổng lồ của nó, làm thành một điểm mốc. Nhất
định phải vượt ngục bằng bất cứ giá nào, dù có phải hy sinh đến đâu cũng bất
chấp. Canh bạc này tôi phải đánh xả láng.

Phòng giam của chúng tôi ở chính giữa sân. Vả chăng dấy không phải là một
căn phòng mà là một cái chuồng: một cái mái bằng xi-măng đặt trên những dãy
chấn song lớn, ở bốn góc có chỗ rửa mặt và đi ngoài.

Những người tù khác, có khoảng chừng một trăm, được phân vào những căn
buồng khoét trong bốn bức tường của khoảng sân rộng hai mươi mét trên bốn mươi,
mỗi buồng có một dãy chấn song trông ra sân. Mỗi dãy chấn song có lợp một thứ
mái hiên bằng tôn để cho mưa khỏi hắt vào buồng giam. Chỉ có sáu tù nhân người
Pháp chúng tôi trong cái chuồng trung tâm để hở bốn bên, đêm ngày đều phô ra
trước mắt các tù nhân khác, nhưng nhất là trước mắt bọn lính gác. Suốt ngày
chúng tôi có thể ra sân hay vào chuồng tùy ý từ sáu giờ sáng đến sáu giờ tối. Ở
ngoài sân có thể nói chuyện, đi dạo, thậm chí ăn uống cũng được.

Chúng tôi đến được hai ngày thì họ tập trung cả sáu người trong nhà thờ
trước mặt ông giám đốc, mấy viên cảnh sát và bảo toán phóng viên nhiếp ảnh.

- Các anh là tù vượt ngục từ trại khổ sai Pháp ở Guyane?

- Chúng tôi chưa bao giờ phủ nhận điều đó.

- Mỗi người trong các anh đã phạm những tội gì mà bị xử nghiêm khắc như
vậy?

- Điều đó không có gì quan trọng. Điều quan trọng là chúng tôi không hề làm
điều gì phạm pháp trên đất Colombia, thế mà nước các ông không những khước từ
cái quyền của chúng tôi được làm lại cuộc đời, mà còn cam tâm làm kẻ săn người,
làm hiến binh cho chính phủ Pháp.

- Nước Colombia nghĩ rằng mình không được chấp nhận các anh vào lãnh thổ.

- Nhưng bản thân tôi và hai người nữa, trước đây cũng như hiện giờ, chúng
tôi đều nhất quyết không ở trên đất này. Người ta đã bắt ba chúng tôi giữa biển
chứ không phải trong khi đang đổ bộ lên đất này. Ngược lại lúc ấy chúng tôi
đang cố hết sức đi thật xa nước các ông.

Phóng viên một tờ báo công giáo nói:

- Người Pháp hầu hết đều là người công giáo, cũng như người Colombia chúng
tôi vậy.

- Có thể các người đều được rửa tội theo công giáo, nhưng cách xử sự của
các người ít có gì giống với cách xử sự của người thờ Chúa.

- Thế anh trách cứ chúng tối những gì?

- Các người là những kẻ cộng tác với bọn cai ngục đang săn đuổi chúng tôi.
Hơn nữa các người làm chính cái việc của bọn họ. Các người đã tước đoạt chiếc
thuyền của chúng tôi với tất cả những đồ đạc thuộc quyền sở hữu của chúng tôi,
mà đó lại là quà tặng của những người công giáo trên đảo Curacao được Đức Giám
mục Irénée de Bruyne tôn quý đại diện. Chúng tôi không thể chấp nhận rằng các
người không chịu để cho chúng tôi tìm cách tự phục hồi, và tệ hơn nữa các người
không cho chúng tôi đi tiếp bằng phương tiện của chính chúng tôi để tìm đến một
đất nước nào có thể thừa nhận khả năng đó. Điều này thì không ai có thể dung
thứ được.

- Các anh oán trách người Colombia chúng tôi ư?

- Không phải bản thân người Colombia, mà cái hệ thống luật pháp và công an
của họ.

- Anh muốn nói gì?

- Tôi muốn nói rằng mọi sai lầm đều có thể sửa lại khi người ta muốn. Các
người hãy để cho chúng tôi ra đi bằng đường biển đến một nước khác.

- Chúng tôi sẽ cố gắng đòi quyền đó cho các ông.

Khi chúng tôi trở ra sân Maturette nói với tôi:

- Đấy? Anh hiểu rồi chứ? Lần này thì không còn ảo tưởng gì nữa anh ạ! Chúng
mình đã nằm trên chảo, và nhảy xuống chẳng dễ gì đâu.

- Các bạn ơi, tôi không biết là nếu hợp quấn lại chúng ta có mạnh hơn
không, nhưng tôi xin nói với các bạn rằng mỗi người từ nay có quyền muốn làm gì
thì làm. Còn tôi, nhất định tôi phải vượt ngục ra khỏi cái nhà tù số “Tám mươi”
trứ danh này.

Hôm thứ năm họ gọi tôi ra phòng tiếp khách trong nhà thờ. Tôi trông thấy
một người ăn mặc sang trọng trại bốn mươi lăm tuổi. Tôi càng nhìn càng thấy
giống Louis Dega lạ lùng.

- Anh là Papillon phải không?

- Vâng.

- Tôi là Joseph, em trai của Louis Dega. Tôi có đọc báo, cho nên bây giờ
tôi đến thăm anh.

- Cám ơn.

- Anh có gặp anh tôi ở bên ấy không? Anh có quen anh ấy không?

Tôi kể lại cho Joseph nghe câu
chuyện của Dega cho đến ngày hai chúng tôi chia tay ở bệnh viện. Anh ta cho tôi
biết rằng Louis bây giờ đang ở Quần đảo Salut: anh ta biết tin này nhờ một bức
thư gửi từ Marseille. Khách đến thăm tù ở nhà thờ của trại giam là vào ngày thứ
năm và ngày chủ nhật. Joseph nói với tôi rằng ở Baranquilla có độ mươi, mười
hai người Pháp đem vợ con sang đây để tìm cách làm giàu. Họ đều làm nghề trùm
điếm. Trong một khu vực riêng của thành phố có khoảng gần hai mươi gái điếm
đang duy trì cái truyền thống cao cả của nước Pháp về nghệ thuật mãi dâm trang
nhã và khôn khéo. Ở đây cũng vẫn những kiểu người đàn ông và đàn bà đúng hệt như
từ Le Caire đến Liban, từ nước Anh đến nước úc, từ Buenos-Aires đến Caracas, từ
Sài Gòn đến Brazzaville, đang truyền bá trên khắp trái đất cái nghề chuyên môn
xưa cũ như nhân loại: nghề mãi dâm và cách sử dụng nghề này để sống sung túc.
Joseph Dega cho tôi biết một điều thật hay ho: mấy ông trùm điếm ở người Pháp ở
Baranquilla đang lo lắng. Họ sợ rằng chúng tôi đến ở nhà tù của thành phố này
sẽ kinh động đến sự yên ổn của họ, làm phương hại đến cái ngành thương mại đang
phồn vinh của họ. Quả nhiên, nếu trong chúng tôi có người vượt ngục, cảnh sát
sẽ đến tìm những người đó trong các “casetas” của mấy cô điếm người Pháp, dù
người vượt ngục không bao giờ đến nhờ cậy gì các cô hay các ông trùm cả. Hậu
quả gián tiếp là công an có thể phát hiện ra khá nhiều điều: giấy tờ giả mạo,
giấy phép cư trú quá hạn hay mất hiệu lực. Đi tìm chúng tôi sẽ đưa đến những
cuộc kiểm tra căn cước và quyền cư trú. Trong khi đó có những người đàn bà và
cả những người dàn ông nữa mà nếu bị lộ thì có thể phiền to.

Như thế là tôi đã được thông báo
kỹ tình hình. Joseph Dega nói thêm rằng anh ta sẵn sàng giúp đỡ tôi bất cứ việc
gì, thứ năm và chủ nhật nào anh cũng sẽ vào thăm tôi. Tôi cảm ơn con người tốt
bụng ấy: về sau anh ta đã cho tôi thấy rõ rằng, theo các báo, nhà chức trách
Colombia đã chính thức đồng ý trao trả chúng tôi cho nước Pháp.

Tôi gọi các bạn lại.

- Thưa các Ngài. Tôi có rất nhiều
điều cần thưa lại các Ngài.

- Gì thế - Cả năm cùng đồng thanh
thốt lên một lượt

- Trước hết là đừng có ảo tưởng.
Việc trao trả đã quyết định xong xuôi. Một chiếc tàu đặc biệt của Guyane thuộc
Pháp sẽ đến đây chở chúng ta về trại khổ sai. Thứ đến là sự có mặt của chúng ta
gây ra nhiều lo âu cho mấy ông trùm đĩ đồng hương với chúng ta đã lập nghiệp
trong thành phố này. Không phải cái ông vừa đến thăm tôi đâu. Ông này thì cóc
cần. Nhưng các bạn đồng nghiệp của ông ta sợ rằng một người trong chúng ta vượt
ngục thì họ sẽ gặp phải nhiều phiền hà.

Cả bọn cười phá lên. Họ tưởng tôi
nói đùa. Clousiot nói:

- Thưa ngài ma-cô Jean Mỗ, xin
ngài vui lòng chuẩn y cho tôi vượt ngục, có được không ạ?

- Thôi đừng giỡn nữa. Nếu mấy con
đĩ có đến thăm ta, phải báo nó đừng đến nữa. Đồng ý chứ?

- Đồng ý.

Như tôi đã nói, trong sân của
chúng tôi có khoảng một trăm tù nhân người Colombia. Họ tuyệt nhiên không phải
là những thằng ngốc. Có nhiều tay thứ thiệt: kẻ trộm ưu tú, chuyên gia làm bạc
giả, giấy giả, những tên bịp bợm tinh xảo, những tên chuyên cướp của có vũ khí
những tên buôn lậu ma túy mà mấy tên sát nhản chuyên nghiệp đã nhờ kinh nghiệm
phong phú mà trở thành điêu luyện trong cái nghề này, một nghề rất tầm thường ở
Châu Mỹ. Ở đây những kẻ giàu có, các chính khách và các phần tử lưu manh đã
thành đạt đều thuê những tên sát nhân chuyên nghiệp này làm việc cho họ.

Màu da của họ rất khác nhau. Từ
trước da đen nhánh của người Sénégalais đến nước da màu lá trà của người
Créoles ở Martinique thuộc Pháp; từ màu gạch của người Anh-điêng thuộc chủng
tộc Mongoloid với bộ tóc trơn màu đen có ánh tím đến màu da trắng thuần chủng.
Tôi thử bắt liên lạc với họ, tìm hiểu khả năng và ý chí vượt ngục của một vài
cá nhân được chọn lọc kỹ càng. Phần đông những người đó đều như tôi: vì bị xử
dài hạn hoặc sợ bị xử dài hạn, họ sống trong tư thế luôn sẵn sàng vượt ngục.

Trên chớp bốn bức tường của
khoảng sân hình chữ nhật này có một con đường tuần tra ban đêm thắp đèn rất
sáng, ở mỗi góc tường đều có một cái chòi canh nhỏ có một tên lính gác đứng ở
trong. Như vậy đêm ngày lúc nào cũng có bốn tên lính canh thường trực, cộng
thêm một tên nữa đứng trong sân, ở cạnh cửa nhà thờ. Tên này không cầm vũ khí.
Thức ăn khá đầy đủ, và có nhiều tù nhân bày bán những món ăn và những món uống
như cà phê hay nước ngọt làm bằng các thứ quả vùng này: cam, dứa, đu đủ, v.v...
mua từ bên ngoài vào. Thỉnh thoảng mấy gã tiểu thương này lại bị một vụ cướp
bằng vũ lực được thực hiện một cách nhanh chóng lạ thường. Chưa kịp thấy có ai
đến thì họ đã bị trùm lên một tấm khăn lớn không sao kêu cứu được nữa, kèm theo
đấy là một mũi dao gí vào sườn hay vào cổ, chỉ cần nhúc nhích một cái là bị đâm
sâu vào thịt. Nạn nhân bị lột hết số tiền thu được trước khi có thì giờ hiểu
được việc gì đã xảy ra. Khi tấm khăn được bỏ ra thì đồng thời cũng có một quá
đấm nện vào gáy. Không bao giờ có ai hở miệng nói gì sau khi sự việc đã xảy ra.
Đôi khi người bán hàng “đóng cửa hiệu” nghĩa là cất hết những thứ hàng đang
bán, và dò xem ai đã cướp mình. Nếu hắn dò ra được thì sẽ có một trận huyết
chiến, bao giờ cũng dùng dao.

Hai tên kẻ trộm Colombia đến gặp
tôi để bàn việc. Tôi lắng nghe họ rất chăm chú. Theo họ thì trong thành phố có
những tên cảnh sát đồng lõa với kẻ trộm. Mỗi khi đến phiên tuần phòng của họ
trong một khu vực nào đấy, họ báo cho đồng lõa biết để đến hành nghề trong khu
vực này.

Hai người khách của tôi biết hết
những tên cảnh sát này và nói với tôi rằng nếu trong tuần này không có một
trong những tên cảnh sát đó đến gác cửa nhà thờ thì thật là không maỵ Tôi phải
làm sao có được một khẩu súng ngắn, do một người khách vào thăm đưa lén chọ Tên
cảnh sát kiêm kẻ trộm kia sẽ dễ dàng nhận lời giả vờ bị chúng tôi bắt phải gõ
vào cánh cửa sau của nhà thờ dẫn vào một trạm gác nhỏ gồm có bốn hay sáu tên
lính canh. Trong lúc bất ngờ, bị chúng tôi chĩa súng vào mặt, bọn này sẽ phải
để cho chúng tôi chạy ra đường. Lúc bấy giờ chỉ còn có việc trà trộn vào những
người qua đường đi lại tấp nập ở đoạn này.

Tôi không thấy vừa lòng lắm với
kế hoạch này.

Muốn đưa một khẩu súng ngắn vào
tù, đó phải là một khẩu súng cỡ rất nhỏ, tối đa là một khẩu sáu li ba mươi lăm.
Một khẩu súng nhỏ như vậy rất có thể không đủ sức làm cho bọn lính gác hoảng
sợ. Hoặc giả một trong bọn chúng có thể có một phản ứng bất giờ và chúng tôi sẽ
đành phải giết hắn. Tôi từ chối.

Không phải chỉ có tôi đứng ngồi
không yên vì khát khao hành động, mà các bạn tôi cũng vậy. Chỉ có chỗ khác nhau
là thỉnh thoảng, trong những ngày buồn nản, họ có khi đành lòng chấp nhập rằng
chiếc tàu đến chở chúng tôi sẽ gặp được chúng tôi còn ở trong nhà tù. Từ đó đến
chỗ chịu thua không xạ Thậm chí họ còn bàn bạc xem thử về đến trại chúng tôi sẽ
bị xử lý ra sao, phải chịu những hình phạt gì.

- Tôi không thể nghe nổi những
câu chuyện ngu xuẩn của các cậu. Khi nào các cậu muốn nói muốn bàn đến cái thứ
tương lai ấy, các cậu chớ để tôi nghe thấy, hãy kéo nhau ra một góc nào đấy mà
bàn. Miễn đừng có lôi cái số phận mà các cậu nói tới chỉ có thể chấp nhận được nếu
chúng ta đều là những kẻ tàn phế bất lực. Các cậu đã tàn phế cả rồi sao? Trong
đám các cậu có cậu nào bị thiến? Nếu có thì cho tôi hay. Vì tôi nói cho các cậu
biết: khi tôi nghĩ đến vượt ngục, thì đó là vượt ngục cho cả bọn. Tôi nghĩ đến
long óc ra để thu xếp cách vượt ngục chỉ vì tôi muốn cả bọn chúng mình cùng
vượt ngục. Sáu người cùng vượt ngục không phải là chuyện dễ. Vì nếu chỉ mỗi một
mình tôi thì khi thấy cái ngày ấy đã quá gần mà mình chưa làm được gì cả, tôi
rất dễ giải quyết: tôi giết một tên cảnh sát Co-lom-bia để kéo dài thời gian.
Tôi mà giết một tên cảnh sát thì họ không đời nào lại trao trả tôi cho nhà chức
trách Pháp. Lúc bấy giờ tôi sẽ có thì giờ rộng rãi. Và vì trong trường hợp này
tôi vượt ngục một mình, cho nên mọi sự sẽ dễ dàng hơn.

Hai người tù Colombia chuẩn bị
một kế hoạch khác, cũng khá tinh xảo. Sáng chủ nhật vào giờ xem lễ, nhà thờ bao
giờ cũng đầy những tù nhân và những người khách vào thăm. Lúc đầu mọi người
cùng xem lễ rồi khi buổi lễ đã xong, trong nhà thờ chỉ còn lại những tù nhân có
khách đến thăm. Hai người Colombia yêu cầu tôi chủ nhật tới sẽ vào nhà thờ xem
lễ để nắm vững cách diễn biến và thu xếp chương trình hành động cho chủ nhật
sau. Họ đề nghị tôi đứng ra làm người cầm đầu cuộc nổi loạn. Nhưng tôi từ chối
cái vinh dự ấy: tôi chưa biết được thật kỹ những người sẽ cùng hành động.

Tôi nắm vững được trong tay bốn
tù nhân Pháp.

Anh chàng người Bretange và anh
chàng “Bàn là” không đồng ý tham gia. Cũng chẳng sao, họ chỉ có việc đừng đến
nhà thờ. Đến ngày chủ nhật, chúng tôi, tức bốn người trong cuộc, sẽ đến dự buổi
xem lễ. Cái nhà thờ này hình chữ nhật. Trong cùng là bàn thờ; ở khoảng giữa nhà
thờ, mỗi bên có một cái cửa mở ra sân. Cửa chính đưa thẳng vào trạm gác. Cửa
này có một dãy chấn song, ở bên kia là đội gác, gồm khoảng hai mươi cảnh binh.
Cuối cùng, sau lưng họ là cửa ra phố.

Vì trong mỗi buổi lễ, nhà thờ bao
giờ cũng đông nghịt, bọn lính gác mở chấn song và xếp hàng sát cạnh nhau đứng
chắn cửa trong suốt buổi lễ. Trong số những người khách vào thăm tù nhân sẽ có
hai người đồng lõa và mấy người khác giấu vũ khí trong người. Đó là mấy người
đàn bà mang những khẩu súng ngắn buộc vào phía trong bắp vế. Khi mọi người đã
vào trong nhà thờ, họ sẽ tuồn súng cho hai người đàn ông kia. Đó sẽ là hai khẩu
súng cỡ to, ba tám li hay bốn lăm li. Người tù đứng đầu cuộc nổi loạn sẽ nhận
được một khẩu súng ngắn từ tay một người đàn bà, và người này sẽ lập tức ra
khỏi nhà thờ. Hễ cậu bé giúp lễ rung chuông lần thứ hai, cả bọn phải hành động
vào cùng một lúc. Phần việc của tôi là gí một con dao lớn và họng viên giám đốc
nhà tù Don Grégorio, nói:

- Da la orden de nos dejar, panar, sinh, te mao. (Hãy ra lệnh bảo họ để cho
chúng tôi đi ra, nếu không tôi giết anh).

Một người khác cũng sẽ làm như vậy với ông linh mục. Ba người kia, từ ba
gốc khác nhau, sẽ chĩa súng vào mấy tên cảnh sát đứng ở cửa chấn song của lối
vò chính. Hễ tên nào không bỏ súng xuống thì phải bắn chết ngay. Những người
tham cuộc không có vũ khí sẽ ra trước. Ông linh mục và ông giám đốc sẽ được
dùng làm bình phong cho hậu quân. Nếu mọi việc diễn biến một cách bình thường,
tốp cảnh sát đều sẽ bỏ súng xuống đất. Những tù nhân có súng ngắn sẽ lùa họ vào
nhà thờ. Chúng tôi sẽ ra ngoài, sau đó đóng cửa chấn song trước, rồi đến cánh
cửa gỗ. Căn phòng dùng làm trạm canh sẽ bỏ trống vì cả tốp cảnh sát đều phải
đứng dự buổi xem lễ. Ở bên ngoài, cách đây năm mươi mét, sẽ có một chiếc xe tải
đậu sẵn, phía sau có móc một cái thang nhỏ để lên xe thật nhanh. Chiếc xe tải
sẽ khởi hành sau khi người đứng đầu cuộc nổi loạn lên xe. Người này sẽ lên xe
sau cùng. Sau khi dự một buổi xem lễ, tôi đồng ý với kế hoạch này. Mọi việc đều
diễn ra như Fernando đã miêu tả.

Joseph Dega sẽ không vào thăm chúng tôi vào chủ nhật tới. Anh ta biết rõ
tại sao. Anh ta sẽ chuẩn bị một chiếc xe tắc-xi giả để cho chúng tôi khỏi phải
lên xe tải, và sẽ đưa chúng tôi đến một chỗ trống cũng là do anh ta chuẩn bị.
Suốt tuần ấy tôi ở trong một tình trạng kích thích cao độ và rất nóng lòng chờ
lúc hành động. Fernando đã tìm cách có được một khẩu súng lục bằng một phương
tiện khác. Đó là một khẩu bốn lăm li của quân Cảnh vệ Colombia, một vũ khí rất
đáng sợ. Đến thứ năm, một cô gái trong nhóm “chị em” của Joseph vào thăm tôi.
Cô ta rất hòa nhã ân cần, và cho tôi biết rằng chiếc tắc-xi sẽ đón chúng tôi là
một chiếc xe sơn màu vàng, chúng tôi sẽ không thể nhầm lẫn được.

- O K., cám ơn.

- Chúc các anh may mắn.

Cô ta hôn lên hai má tôi một cách
dịu dàng và không khỏi có phần xúc động.

- En tra, en tra (mời vào, mời vào). Hãy vào cho chật ngôi nhà thờ này để
lắng nghe tiếng nói của Chúa, - ông linh mục nói.

Clousiot đã sẵn sàng từ đầu đến chân. Maturette hai mắt sáng long lanh, còn
người kia không rời tôi một tấc. Rất điềm tĩnh, tôi đứng vào chỗ đã định. Don
Grégorio, viên giám đốc nhà tù, ngồi trên một chiếc ghế tựa bên cạnh một bà béo.
Tôi đứng sát đường. Bên phải tôi là Clousiot, bên trái tôi là hai bạn kia, đều
ăn mặc tử tế để đến khi ra đường không bị người ta để ý. Con dao của tôi đã mở
sẵn, được áp sát vào cánh tay phải bằng một sợi dây thun và khuất hắn trong ống
tay áo sơ-mi ka-ki cài kỹ ở cổ tay. Bây giờ phải chờ đến lúc “nâng mình thánh”,
khi mọi người cúi đầu xuống như thể để tìm một cái gì ở dưới đất, và cậu bé
giúp lễ sau khi rung chuông rất nhanh, sẽ cho nghe ba hồi chuông tách bạch. Hồi
chuông thứ hai là hiệu lệnh của chúng tôi, mỗi người đều biết rõ lúc ấy mình
phải làm gì.

Hồi chuông thứ nhất, hồi thứ hai... Tôi lao vào Don Grégorio, con dao gí
sát cái cổ to và nhăn nheo của ông tạa. Ông linh mục kêu:

- Misericordia, no me ma ta! (Xin
tha cho, đừng giết tôi!)

Và tuy không nhìn thấy, tôi nghe
rõ ba người kia ra lệnh cho bọn lính gác bỏ súng xuống. Mọi việc đều trôi chảy.
Tôi nắm chặt cái cổ áo bộ com-lê rất đẹp của Don Grégorio, nói:

- Sigua y no tengas miedo, no te
ha ré dao. (Theo tôi và đừng sợ, tôi không làm gì ông đâu).

Ông linh mục được giữ yên bằng
một con dao cạo dí sát họng, gần nhóm chúng tôi. Fernando nói:

- Vamos, Francès, vamos a la salida. (Ta đi thôi, anh bạn Pháp, ra cửa đi).

Lòng khấp khởi vì niềm vui đắc thắng, tôi xua các bạn về phía cửa dẫn ra
đường, thì bỗng nhiên có hai tiếng súng nổ cùng một lúc. Fernando gục xuống, và
một trong những người có súng cũng ngã lăn ra. Tôi vẫn tiến thêm được một thước
nữa, nhưng lúc bấy giờ bọn lính gác đã đứng dậy và giơ súng chặn lại. May thay
giữa họ với chúng tôi có mấy người đàn bà, nên họ không dám bắn. Lại hai phát
súng trường nữa, sau đó là một phát súng lục. Người bạn có súng thứ ba của
chúng tôi vừa bị bắn chết sau khi đã bịp bắn một phát hú họa làm bị thương một
người con gái. Don Grégorio mặt xanh như tàu lá, nói với tôi:

- Đưa dao đây.

Tôi đưa dao cho ông ta. Tiếp tục đánh nhau chẳng có ích gì. Trong khoảng
không đầy nửa phút tình thế đã bị đảo ngược lại.

Hơn một tuần sau tôi được biết rằng cuộc nổi loạn đã thất bại vì một tù
nhân thuộc một sân khác lúc bấy giờ đứng ở ngoài nhà thờ để xem mọi người làm
lễ. Ngay những giây đầu tiên chúng tôi hành động, hắn đã báo cho bọn lính canh
ở trên thành. Những tên này đã nhảy từ trên bức tường cao hơn sáu mét này xuống
sân, hai tên nhảy xuống hai bên nhà thờ, rồi qua những chấn song cửa hai cửa
ngang, họ bắn vào hai người đang đứng trên một chiếc ghế dài chĩa súng vào tốp
cảnh sát. Sau đó vài giây họ lại bắn gục người thứ ba lúc bấy giờ đi qua tầm
bắn của họ. Sau đó là một cuộc “corrida”* (*trận
đấu bò tót, trong đó những người đấu bò (toreadores) phải giết chết con bò
)
ngoạn mục. Tôi lúc bấy giờ đang đứng cạnh viên giám đốc bắt ông ta ra lệnh này
nọ. Rốt cục mười tù nhân trong đó có bốn chúng tôi bị xích lại và nhốt vào xà
lim, chỉ được ăn bánh mì với nước lã.

Don Grégorio đã tiếp Joseph Dega. Ông ta cho gọi tôi lên nói rằng để làm
vui lòng Joseph, ông ta sẽ cho tôi trở ra sân cùng với các bạn tôi. Nhờ có
Joseph, mười ngày sau cuộc nổi loạn, tất cả chúng tôi đều được trở về khoảng
sân cũ và cùng được giam chung trong phòng giam trước kia. Khi về đến phòng
giam, tôi yêu cầu các bạn im lặng vài phút để tưởng nhớ đến Fernando và hai
người bạn của anh ta đã chết trong khi hành động. Trong một buổi vào thăm
Joseph cho tôi biết rằng anh ta đã tổ chức một cuộc quyên tiền, và trong giới
trùm điếm anh ta đã thu được năm ngàn pesos để đút cho Don Grégorio. Cử chỉ này
làm cho chúng tôi có phần coi trọng bọn trùm điếm hơn trước chút ít. Bây giờ
tôi sẽ làm gì? Biết phát minh ra cách gì khác đây? Chẳng lẽ tôi lại chịu thua
và đợi chuyến tàu kia mà không hành động gì cả hay sao?

Nằm trong phòng rửa mặt chung, tránh được ánh nắng gay gắt, tôi có thể kín
đáo theo dõi cách thức đi lại của bọn lính canh trên con đường tuần tra. Ban
đêm cứ mười phút họ lại lần lượt gọi nhau:

- Lính canh, hãy coi chừng.

Làm như vậy viên chỉ huy đội canh có thể kiểm tra xem trong bọn tên lính
canh có tên nào ngủ không. Nếu có ai không trả lời, người kia gọi lại cho đến
khi hắn trả lời mới thôi.

Tôi tưởng đã tìm được một chỗ sơ hở. Số là ở mỗi chòi canh đặt ở bốn góc
đường đi tuần đều có treo một cái lon buộc vào một sợi dây. Khi một người lính
canh muốn uống cà phê, hắn gọi người cafetero đến rót cho hắn một hay hai chén
cà phê vào lon, rồi kéo dây lên mà uống. Cái chòi canh ở cuối sân bên phải hơi
nhô ra phía sân một chút. Tôi tự nhủ là nếu tôi có được một cái móc to buộc vào
đầu một sợi dây đan, nó sẽ có thể mắc vào cái chòi canh ấy một cách dễ dàng.
Chỉ trong mấy giây tôi có thể vượt qua bức tường trông ra đường. Vấn đề duy
nhất là làm sao vô hiệu hóa được tên lính canh. Bằng cách nào?

Tôi trông thấy tên lính canh đứng dậy đi mấy bước trên con đường tuần tra.
Tôi thấy hình như hắn nóng quá không chịu nổi và đang ra sức chống lại cơn buồn
ngủ. Thôi đúng rồi, phải làm thế nào cho hắn ngủ? Trước hết tôi sẽ đang sợi
dây, và nếu kiếm được một cái móc chắc chắn, tôi sẽ tìm cách làm cho hắn ngủ và
cố thể phen nữa. Trong hai ngày một sợi dây dài gần bảy mét đã được tết bằng
tất cả những chiếc áo sơ-mi bằng vải bền mà chúng tôi kiếm được, nhất là những
chiếc áo bằng vải ka-ki. Cái móc thì tìm tương đối dễ, đó là thanh sắt đỡ một
cái mái hiên lắp ở cửa các phòng giam cho mưa khỏi hắt vào. Joesph Dega đã đem
đến cho tôi một chai thuốc ngủ rất mạnh. Theo lời chỉ dẫn thì mỗi lần chỉ được
uống mười giọt. Cái chai đựng gần mười thìa xúp lớn. Tôi tìm cách làm cho tên
lính canh chịu uống cà phê của tôi biếu và quen dần với việc ấy. Hắn thòng cái
lon xuống, tôi rót cho hắn mỗi lần ba cốc cà-phê. Vì dân Colombia đều hay rượu,
mà thứ thuốc ngủ kia lại có vị giống như rượu hồi, cho nên tôi nhờ kiếm một
chai rượu hồi. Tôi nói với tên lính canh:

- Anh muốn uống cà phê pha kiểu Pháp không?

- Nó là thế nào.

- Có cho cả rượu hồi vào đấy.

- Để thử xem, cho tôi nếm đã.

Nhiều tên lính canh đã được nếm mùi cà phê rượu hồi của tôi. Bây giờ mỗi lần
tôi mời cà phê họ đều nói:

- Kiểu Pháp nhé!

- Có ngaỵ - Tôi cứ thế rót rượu hồi vào.

Giờ G đã đến. Ấy là vào giữa trưa một ngày thứ bảy. Trời nóng kinh khủng.
Các bạn tôi biết không thể nào có thì giờ cho hai người vượt qua tường được,
nhưng một người tù Colombia có một cái tên A-rập là Ali nói với tôi là hắn sẽ
trèo sau tôi. Tôi đồng ý. Tôi đi với anh này thì các bạn tôi khỏi bị nghi là
đồng lõa và khỏi bị phạt về sau. Mặt khác tôi không thể cầm sẵn dây và móc được
vì tên lính canh có đủ thì giờ quan sát tôi trong khi tôi chuyển cà phê lên.
Theo ý kiến chung của các bạn tôi, nội trong năm phút hắn phải bị đo ván.

Báo cáo nội dung xấu