Người Dublin - Lời giới thiệu - Phần 01
Lời giới thiệu
Jame Joyce (1882-1941), một trong những nhà văn vì đại nhất
của thế kỷ XX, là người Ireland, viết rất ít. Bốn tác phẩm chính của ông gồm:
Người
Dublin (Dubliners, 1914), A Portrait of the Artist as a Young Man (1916), Ulysses
(1922) và Finnegans Wake (1939). Ngoài ra ông còn viết thơ (tập Chamber Music, 1907),
và kịch (Exiles, 1918). Trong cuộc bình chọn gần đây (2007), do nhà xuất bản
danh tiếng về sách chuyên khảo W. W. Norton (Anh) tiến hành với sự tham gia của
một trăm hai mươi lăm trong số những nhà văn lớn nhất thế giới, Ulysses và
Dubliners của Joyce nằm trong danh sách hai mươi cuốn sách được yêu thích nhất.
I. Một James Joyce quốc tế
Nằm ở Tây Bắc châu Âu, Ireland là hòn đảo lớn thứ ba
châu Âu với diện tích trên bảy mươi ngàn ki-lô-mét vuông. Còn được gọi là hòn
đảo ngọc lục bảo bởi vùng đồng quê xanh tươi tuyệt đẹp với những con sông và hồ
đầy nước mát, những trận mưa thường xuyên, những màn sương mù, cùng với nền văn
hóa Celtic lâu đời, Ireland đã sinh ra những nhà văn nhà thơ, nhà viết kịch nổi
tiếng thế giới: Jonathan Swift, James Joyce, George Bernard Shaw, Patrick
Kavanagh, Oscar Wilde, W. B. Yeats, Samuel Beckett, Seamus Heaney... Tuy không
được trao giải Nobel văn học như Shaw, Yeats, Beckett và Heaney bởi một số lý
do ngoài văn chương, James Joyce luôn được coi là một trong những nhà văn vĩ
đại nhất, có ảnh hưởng nhất của thế kỷ XX.
[Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www. gacsach. com - gác nhỏ
cho người yêu sách. ]
James Joyce sinh ngày hai tháng hai năm 1882 tại
Rathgar, ngoại ô thủ đô Dublin, là con cả của John Stanislaus Joyce và Mary
Jane Murray, gia đình khá giả, nhưng nhanh chóng sa sút, có tới mười người con.
Tuổi thơ Joyce gắn bó thân thương với Dublin, là trung tâm hành chính của chính
quyền Anh tại Ireland. Dạo luật Liên hiệp giữa hai nước được thông qua năm 1800.
Từ thời vua Henry VIII (1509-1549) khi nước Ireland Công giáo bị đặt dưới sự
cai trị của nước Anh Tin Lành đã xuất hiện căng thẳng giữa hai phái Thiên Chúa
giáo và Tin Lành. Vào đầu thế kỷ XVII, dưới thời vua James I (1603-1625), một
lực lượng lớn người Tin Lành bắt đầu sinh sống tại miền Bắc Ireland, trong đó
có Belfast, thành phố nằm ở phía đông bắc đảo Ireland (nay là thủ đô Bắc
Ireland thuộc Vương quốc Anh), hình thành ở đây cộng đồng đa số Tin Lành, vẫn
tồn tại ngày nay. Phần còn lại của Ireland chủ yếu là người công giáo. Cuối thế
kỷ XVII, phần lớn đất đai của Ireland nằm dưới quyền kiểm soát của những người
Tin Lành. Đạo luật Chính phủ Ireland năm 1920 công nhận thực tế phân chia tôn
giáo này bằng cách tuyên bố tách Ireland thành hai chính thể riêng biệt, miền
nam Ireland chủ yếu là Công giáo, miền bắc Ireland chủ yếu là Tin lành. Sau đó
miền nam cắt đứt mọi liên hệ với Anh, tách ra độc lập thành nước Cộng hòa
Ireland vào năm 1949. Miền Bắc Ireland tiếp tục thuộc Vương quốc Anh.
Joyce học giỏi, có năng khiếu ngôn ngữ, tự học, say
mê trường ca Odyssey, tính khí bất thường, rất gần gũi mẹ, bị tác động mạnh bởi
cái chết của bà năm 1903. Joyce từ chối theo đạo Thiên Chúa, mặc dù nó rất quan
trọng với mẹ ông. Thế nhưng triết lý của Thiên Chúa giáo vẫn ảnh hưởng đến
Joyce mạnh mẽ suốt cuộc đời. Cha ông trực tính, sau khi kinh doanh sa sút phải
bươn chải đủ nghề, từ làm chính trị đến đi thu thuế. Mẹ ông sùng đạo Thiên Chúa,
bất lực trước cảnh gia đình ngày càng túng quẫn, chỉ biết là một cái bóng dưới
ảnh hưởng của ông chồng.
Thời thơ ấu, Joyce được học trường dòng Clongowes
Wood nổi tiếng gần Dublin, cha mẹ cậu đồng tình nếu chính cậu cảm thấy linh hồn
mình có sức khát khao gia nhập Giáo hội. Sau vài lần tiếp xúc với tôn giáo, cậu
mất niềm tin và thay đổi cách nghĩ về những gì cậu đã từng cho là vĩ đại. Nền
giáo dục của thế giới Giáo hội đã dạy Joyce hơn cả những gì họ định đào tạo cậu.
Nó đã giúp cậu mở to cặp mắt trong sáng để nhìn thấy sự giả dối, lừa đảo của
giới thầy tu, cha cố. Và cả niềm tin kính Chúa cũng bị đổ vỡ trước dòng đời bế
tắc, những thân phận bất hạnh, đói khổ và đau ốm... ngay chính từ người mẹ yêu
thương của cậu.
Năm 1898, Joyce nhập học Đại học Tổng hợp Dublin
ngành Ngôn ngữ, học tiếng Anh, Pháp và Ý. Ở đây cậu bắt đầu tìm thấy niềm đam
mê văn chương qua các tác phẩm, nhất là của nhà viết kịch Na Uy Henrik Ibsen. Lúc
này Joyce bắt đầu viết văn và sáng tác thơ.
Tốt nghiệp đại học năm 1902, chàng thanh niên hai
mươi tuổi Joyce quyết định rời bỏ thành phố Dublin nhỏ bé để tìm đường sang
Paris, với ý định ban đầu sẽ học Y khoa. Sau đó, cái chết của mẹ ông khiến ông
phải quay lại Ireland, nhưng không lâu sau, sau khi gặp Nora Barnacle vào ngày mười
sáu tháng sáu năm 1904, người chính thức trở thành vợ ông năm 1931, Joyce rời
bỏ Dublin, sống lưu vong suốt đời và trở thành một trong những nhà văn vĩ đại
nhất của thế kỷ XX. (Lần cuối cùng ông quay lại quê hương là năm 1912, để thu
xếp việc in Dubliners, sau đó Joyce không bao giờ trở lại Ireland nữa. )
Cùng với Nora, Joyce chuyển đến và sống bằng nghề
dạy tiếng Anh từ năm 1905 đến năm 1915 tại Trieste, nay thuộc Ý, lúc đó được
xếp vào hàng những thương cảng lớn nhất thế giới. Những năm tháng nghèo túng ở
Trieste chính là thời gian Joyce có nhiều sáng tác được xuất bản nhất - tập
truyện ngắn Dubliners, tiểu thuyết A portrait of the Artist as a Young Man, kịch
Exiles và cũng tại đây ông bắt tay viết tác phẩm quan trọng nhất Ulysses. Tên
tuổi Joyce bắt đầu gây được sự chú ý với phong cách viết theo dòng ý thức.
Chiến tranh thế giới thứ nhất đe dọa, Joyce đưa gia
đình mình (khi đó có thêm hai con Georgio và Lucia) sang Zurich Thụy sĩ để sống
rất nghèo khổ trong lúc Joyce tiếp tục viết Ulysses và trải qua những lần phẫu
thuật mắt liên miên. Chiến tranh kết thúc, mặc dù Joyce muốn quay trở lại định
cư ở Trieste nhưng bạn bè đã thuyết phục họ ở lại Paris hai mươi năm. Tại đây, Joyce
hoàn thành và cho xuất bản Ulysses và sáng tác toàn bộ cuốn Finnegans Wake.
Đại chiến thế giới lần thứ hai bùng nổ, gia đình Joyce
quay lại Zurich, tháng một năm 1941, ông mất tại đó.
II. James Joyce - nhà văn khởi đầu Chủ nghĩa hiện đại.
James Joyce được xem là nhà cách mạng tiên phong
trong nghệ thuật viết tiểu thuyết của thế kỷ XX. Theo kết quả thăm dò của báo
Time (Mỹ) và Le Figaro (Pháp), hai tờ báo uy tín trên thế giới, thì dẫn đầu các
nhà văn nổi tiếng nhất thế kỷ XX là James Joyce, tiếp theo là Franz Kafka (Tiệp
Khắc), Virginia Woolf (Anh), Ernest Hemingway (Mỹ), Gabriel Garcia Maquez
(Colombia)...
Có thể coi Joyce là một trong những nhà văn hàng đầu
của lối viết “dòng ý thức” với bút pháp độc thoại nội tâm chân thật nhất trong
văn học hiện đại. Chủ nghĩa hiện đại hay chính là James Joyce - không chấp nhận
lối sáng tác giống các thể loại văn học truyền thống. Nhà văn phá bỏ hoặc tưởng
tượng lại các cấu trúc đã được nhận thức và nỗ lực tạo ra chính xác những dòng
suy nghĩ theo quy luật hàng ngày với những gì xảy ra. Trong bài viết của nhà
nghiên cứu Paul Gray về James Joyce đăng trong tuyển tập Một trăm con người tạo
nên thế kỷ XX do báo Time (the Time 100, ngày sáu tháng tám năm 1998) bình chọn,
ông cho rằng chính Ulysses đã mở đường và in dấu sâu đậm trong tác phẩm của
nhiều nhà văn lớn của thế giới sau đó như William Faulkner, Albert Camus, Samuel
Beckett, Saul Bellow, Gabriel Garcia Marquez và Toni Morrison. Các tác giả này,
Paul Gray viết một cách châm biếm, không như Joyce, đều đoạt giải Nobel văn học.
James Joyce từng nói “Một trong những điều khi còn
trẻ tôi không tài nào quen được là sự khác biệt tôi nhận thấy giữa cuộc sống và
văn chương” (trích từ bài của Paul Gray). Joyce dường như đã dành cả sự nghiệp
của mình để xóa bỏ sự khác biệt này, đồng thời cách mạng hóa cả nền văn chương
thế kỷ XX. Cuộc sống trong tác phẩm của Joyce phần lớn là cuộc đời của chính
ông.
Tác phẩm được xuất bản đầu tiên của ông, người
Dublin, gồm mười lăm truyện ngắn, bề ngoài có vẻ đơn giản và truyền thống nhưng
lại theo một phong cách và ngôn ngữ đa chiều lạ lẫm.
Tiếp sau đó là tiểu thuyết mang đậm tính tự thuật A
Portrait of the Artist as a Young Man, câu chuyện của chàng Stephen Dedalus, hay
chính là Joyce, từ những ngày thơ ấu ở Dublin đến khi quyết định rời quê hương
ra đi theo đuổi nghệ thuật. Với độ phức tạp, sáng tạo về ngôn ngữ mô tả những
bí ẩn nội tâm thường hiếm khi được tiết lộ, cuốn sách, dù không bán chạy nhưng
đã thu hút được sự chú ý của một số nghệ sĩ thuộc trường phái cách tân nổi
tiếng thời đó, cho rằng thế kỷ mới đòi hỏi mọi thứ - nghệ thuật, thi ca, văn
chương, âm nhạc... cũng phải có gương mặt mới. Vậy là thử nghiệm ngôn từ của
James Joyce đã được ủng hộ, và ông cũng không làm họ phải thất vọng.
Joyce bắt tay viết Ulysses năm 1914, một số phần của
tác phẩm xuất hiện trước trên tạp chí Egoist ở Anh và Little Reivew ở Mỹ, cho
đến khi ba số tạp chí bị đình chỉ và chủ báo bị phạt một trăm đô la vì bị buộc
tội đã đăng bài tục tĩu, không phù hợp với đạo đức xã hội và thuần phong mỹ tục.
Tuy nhiên việc này chỉ càng làm tăng thêm sự tò mò của độc giả đối với tác phẩm
sắp chào đời. Thậm chí trước khi Ulysses được xuất bản năm 1922, các nhà phê
bình đã so sánh những sáng tạo của Joyce với khám phá của Einstein và Freud.
Được ca ngợi là tiểu thuyết vĩ đại nhất trong lịch
sử, Ulysses, như tên gọi của nó, được sáng tác với cảm hứng từ Odyssey của
Homer (khoảng thế kỷ VIII trước công nguyên). Khi còn bé, Joyce đã bị mê hoặc
bởi sử thi Odyssey. Năm hai mươi tuổi, khi được viết về người anh hùng yêu
thích nhất của mình, Joyce đã chọn Ulysses, người chiến thắng bằng chính sự
khéo léo và thông minh hơn là dùng bạo lực. Khi viết Ulysses, (tên của Odysseus
theo cách gọi của người La Mã), Joyce đã nói rằng Odysseus là một tính cách
toàn diện và mang tính nhân văn nhất trong văn học.
Trường ca Odyssey kể chuyện Ulysses, người anh hùng
muôn vàn trí xảo, au khi dùng mưu hạ được thành Troy thần thánh, đã phiêu lưu
khắp nơi, chiến đấu bảo vệ tính mạng của mình và để cho các bạn đồng hành được
trở về xứ sở. Ulysses đã chịu nhiều đắng cay, cám dỗ, những gian nan, nguy hiểm...
và chàng đã chiến thắng tất cả bằng mưu trí. Ulysses là hiện thân của trí tuệ, sự
thông minh. Chàng không biết khuất phục, không biết nản lòng, là hình tượng
người đi tiên phong mở đường cho một sự nghiệp lớn. Ulysses đã tự tạo nên số
phận mình bằng tinh thần đấu tranh không mệt mỏi với các lực lượng tự nhiên
cũng như với những kẻ thù trong xã hội. Ulysses tiêu biểu cho sự giải phóng
tinh thần quan trọng, chứng tỏ sự trưởng thành mạnh mẽ của con người. Sau hai
mươi năm lưu lạc, Ulysses đặt chân lên mảnh đất quê nhà, sống trọng nghĩa vợ
chồng, tình cha con, tình cảm bè bạn, giống nòi, quê hương, đất nước...
Tiểu thuyết Ulysses của James Joyce sử dụng thiên
trường ca cổ điển Odyssey như một phương pháp sắp đặt những trải nghiệm của con
người hiện đại, để miêu tả cuộc sống đương đại. Ông sáng tạo Ulysses là một
người đàn ông bình thường tên là Leopold Bloom, đấu tranh trước những thử thách
thường ngày, trong một ngày bình thường. Cuốn tiểu thuyết dõi theo những khoảnh
khắc hành động và suy nghĩ, ẩn ức, tưởng tượng của Leopold Bloom, của vợ anh ta,
Molly, và Stephen Dedalus (nhân vật trong A Portrait of the Artist as a Young
man) trong một ngày trọn vẹn ở Dublin, ngày mười sáu tháng sáu năm 1904 (là món
quà của Joyce dành cho Nora Barnacle, ngày đầu tiên hai người hẹn hò). Cùng với
ba nhân vật chính, tác phẩm đã tải hiện cuộc sống của người dân Dublin trên
đuờng phố, những cảnh tượng, không gian, âm thanh, thậm chí cả mùi vị của
Dublin. Mọi hoạt động diễn ra tưởng chừng ngẫu nhiên, nhưng ẩn sau chúng là rất
nhiều bí ẩn và câu đố đến mức nó sẽ khiến cho các giáo sư phải bận rộn trong hàng
thế kỷ để tranh cãi điều tác giả muốn nói, như Joyce từng tuyên bố.
Sáng tạo ngôn từ không mệt mỏi của Joyce (nhiều đoạn
trong Ulysses ông viết liên tục không hề có dấu câu) cùng thủ pháp “dòng ý
thức” miên man giữa hiện tại, quá khứ và tương lai, và tâng tầng lớp lớp ám chỉ
về tôn giáo lịch sử, thần thoại trong mỗi từ, mỗi câu nói, đã khiến Ulysses trở
thành một cuốn từ điển về bản chất con người, tiến gần nhất đến sự khám phá
hoàn hảo về con người, nhưng cũng trở thành cuốn sách khó đọc, và có lẽ chỉ dành
riêng cho “một số độc giả nhạy cảm, tinh tế” như nhà phê bình Joseph Collins
nhận xét.
Một tác phẩm quan trọng khác của Joyce sau đó, và
cũng là tác phẩm cuối cùng của ông, Finnegans Wake, thậm chí còn khó đọc hơn cả
Ulysses, được viết với ngôn ngữ riêng do Joyce sáng tạo ra. Nếu Ulysses nói về
Dublin ban ngày thì Finnegans Wake mô tả cuộc sống ban đêm của Dublin theo logic
của những giấc mơ, hơn sáu trăm trang sách tưởng như ngớ ngẩn với những suy
nghĩ được mô tả bằng ngôn ngữ đứt đoạn và ngoại lai, thách thức mọi quy ước về
cốt truyện và nhân vật. Thủ pháp dòng ý thức, ám chỉ và những giấc mơ, ẩn ức
lộn xộn của Joyce trong Ulysses đã được đẩy đến đỉnh cao với Finnegans Wake. Joyce
đã vượt lên chính mình, vượt qua bộ bách khoa Ulysses của chính mình mà không
ai vượt nổi.
Viết về Joyce, Allen Ruch ca ngợi “James Joyce là
nhà văn duy nhất chúng ta có thể hoàn toàn đặt niềm tin, con người duy nhất mà
chúng ta có thể chắc chắn một nghìn năm sau vẫn sẽ được nhớ đến, nếu như có con
người ấy. Như câu nói nổi tiếng của một nhà phê bình: James Joyce đã và sẽ là
nhà văn độc nhất trong lịch sử bởi chỉ xuất bản không gì ngoài kiệt tác. ”