08. "Vitamin V" - V
“Vitamin V”
V
“Nếu không có vanađi thì sẽ
không có cái ô tô của tôi.” Đó là lời của vua ô tô Henri Forđ (Henri Ford). Năm
1905, ông ta đã có mặt tại một cuộc đua ô tô lớn. Giống như tại nhiều cuộc đua
tương tự, ở đây cũng không tránh khỏi tai nạn. Sau một thời gian, Forđ đã đến
nơi xảy ra tấm thảm kịch và đã nhặt được ở đấy một mảnh vỡ của một chi tiết
thuộc chiếc ô tô của Pháp - một trong hai chiếc ô tô đâm nhau. Đó là một đoạn
của chiếc cần xupap. Dù chỉ là một chi tiết bình thường nhưng vì đang bị thu
hút vào những vấn đề này nên Forđ để ý đến kích thước không lớn của nó và đã
quyết định đưa mẩu kim loại này ra thử nghiệm. Quả nhiên linh tính không đánh
lừa Forđ: loại thép này tỏ ra rất cứng và rất bền. Tại phòng thí nghiệm tiến
hành phân tích hóa học mảnh vỡ được gửi đến, người ta đã cho biết là loại thép
này chứa vanađi.
Ý đồ sử dụng rộng rãi loại
thép như vậy vào việc sản xuất ô tô đã hoàn toàn chi phối Forđ. Chả phải nói:
nếu thực hiện được ý đồ này thì ô tô sẽ trở nên nhẹ hơn; điều đó cho phép có
thể tiết kiệm được nhiều kim loại và có thể ô tô có thể được bán với giá rẻ
hơn. Nghĩa là số người mua sẽ tăng lên rõ rệt, như vậy, lợi nhuận của Forđ sẽ
tăng lên. Thế là Forđ liền bắt tay vào việc thực hiện ý đồ của mình. Ông đã
phải vượt qua biết bao khó khăn trước khi đạt được mục đích. Mấy năm sau cuộc
đua ô tô mà vô tình đã đóng vai trò không kém phần quan trọng trong lịch sử
ngành chế tạo ô tô, bộ thương mại và công nghiệp Pháp đã tiến hành thử nghiệm
các chi tiết riêng rẽ của chiếc ô tô Forđ loại mới và thấy rõ rằng, thép của Mỹ
vượt hẳn thép của Pháp về nhiều chỉ tiêu.
Vậy thì vanađi - kẻ đã thực
hiện một cuộc cách mạng thực sự trong công nghiệp ô tô là cái gì vậy? Và đây,
nhà hóa học Thụy Điển nổi tiếng là Becxêliut đã mô tả lịch sử phát hiện ra
vanađi như sau: “Ngày xưa có vị nữ thần Vanađis xinh đẹp tuyệt vời và được mọi
người yêu mến sống ở phương Bắc xa xôi. Một hôm, có một người nào đó đến gõ cửa
nhà nàng. Nữ thần ngồi thoải mái trên chiếc ghế bành và thoáng nghĩ: “Cứ để cho
người ta gõ cửa lần nữa.” Nhưng rồi tiếng gõ cửa đã ngừng hẳn và người kia đã
đi khỏi. Nàng băn khoăn tự hỏi: Vị khách khiêm tốn và rụt rè ấy là ai vậy? Nữ
thần mở cửa sổ và nhìn ra đường. Một chàng Vuêle nào đó đang vội vã rời khỏi
lâu đài của nàng.
Mấy ngày sau, nàng lại nghe
thấy tiếng ai đó gõ vào cửa nhà nàng, nhưng lần này tiếng gõ dồn dập kéo dài
cho đến khi nàng đứng dậy và đi ra mở cửa. Trước mặt nàng là chàng trai khôi
ngô tuấn tú Ninx Xepxtơrôm. Thế rồi liền ngay sau đó, họ đã yêu nhau và sinh ra
một người con trai, đặt tên là Vanađi. Đó cũng là tên của thứ kim loại mới do
nhà vật lí kiêm hóa học Thụy Điển Ninx Xepxtơrôm phát hiện ra vào năm 1830.”
Trong câu chuyện này có một
điểm chưa được chính xác. Người đầu tiên gõ cửa phòng nữ thần Vanađis không
phải là nhà hóa học Đức Friđric Vuêle (Frederich Wohler), mà là nhà hóa học
kiêm hóa vật học người Mêxicô, tên là Anđret Manuen Đen Riô (Andres Manuel Del
Rio). Trước Vuêle khá lâu vào năm 1801, khi nghiên cứu quặng chì nâu của
Mêxicô, Đen Riô đã phát hiện ra rằng, trong quặng ấy có một thứ kim loại mới mà
thời bấy giờ chưa ai biết đến. Các hợp chất của kim loại này mang những mầu sắc
rất khác nhau, vì vậy mà nhà bác học này đã gọi nó là “panchromium,” nghĩa là “phiếm
sắc” và về sau, ông đã đổi tên nó thành “erythronium,” có nghĩa là “đỏ.”
Tuy nhiên, Đen Riô đã không
thể xác nhận được sự phát hiện của mình. Hơn nữa, năm 1802, ông đã đi đến một
kết luận sai lầm rằng, nguyên tố mới này chính là crom vừa được phát hiện trước
đó không lâu. Còn Vuêle cũng nghiên cứu quặng chì Mêxicô ấy và đã gần đi đến
thành công, nhưng khí hiđro florua... đã cản trở ông. Giữa lúc đang say mê làm
việc thì nhà bác học bị ngộ độc do khí này nên đành phải nằm nghỉ trên giường
mất vài tháng. Sau khi bình phục, Vuêle đã không trở lại ngay với những thí
nghiệm về quặng chì. Chính điều đó là lí do khiến Becxêliut trách ông là quá
nhút nhát khi gõ cửa nhà nữ thần Vanađis.
Và khi Vuêle ốm thì cũng
chính là lúc vanađi ra đời lần thứ hai. Lần này một học trò của Becxêliut là
nhà bác học Thụy Điển Ninx Gabrien Xepxtơrôm (Nils Gabriel Sefstrom) đã đứng
bên nôi của chú bé mới sinh. Thời bấy giờ, ngành luyện kim Thụy Điển đã bắt đầu
phát triển. Các nhà máy đã mọc lên khắp mọi miền trong nước. Và người ta nhận
thấy rằng, sắt thép luyện từ một số mỏ thì giòn, trong khi đó, từ quặng của
những mỏ khác thì lại rất dẻo. Tại sao có những sự khác biệt như vậy? Xepxtơrôm
đã quyết định tìm lời giải đáp cho câu hỏi này.
Khi nghiên cứu thành phần hóa
học của một số quặng mà từ đó luyện được thép có chất lượng cao, sau nhiều lần
thí nghiệm kéo dài, nhà bác học đã chứng minh được rằng, các quặng này chứa một
nguyên tố mới, mà đó chính là nguyên tố mà lúc sinh thời, Đen Riô đã phát hiện
ra và lầm tưởng đó là crom. Theo lời khuyên của Becxêliut, người ta gọi kim
loại mới này là vanađin và về sau đổi thành vanađi.
Cả Đen Riô và Vuêle đều không
được công nhận là “cha đỡ đầu” của nguyên tố mới, mặc dầu họ đã đi đến gần phát
minh, chỉ cách có vài bước. Sau thành công của Xepxtơrôm, Vuêle đã viết thư cho
một người bạn của mình: “Tôi quả là một con lừa thực sự, vì tôi đã bỏ qua
nguyên tố mới trong quặng chì và Becxêliut đã nói đúng khi ông cười, có phần
mỉa mai việc tôi đã gõ cửa nhà nữ thần Vanađis nhưng không gặp được nàng vì gõ
khẽ và thiếu kiên nhẫn.”
Trong suốt nhiều năm ròng,
không một ai may mắn tách được vanađi ở dạng tinh khiết. Mãi đến năm 1869, nhà
hóa học người Anh là Henri Rôxco (Henry Roscoe) mới điều chế được vanađi ở dạng
kim loại tinh khiết. Tuy vậy, nó chỉ có thể được coi là tinh khiết đối với thời
bấy giờ mà thôi, vì còn chứa tới 4% tạp chất. Mà thực ra ngay cả tạp chất không
nhiều cũng làm cho tính chất của nguyên tố này thay đổi rất rõ rệt. Vanađi
nguyên chất là một thứ kim loại màu xám bạc, có độ dẻo cao, nghĩa là có thể rèn
được. Lượng tạp chất dù rất nhỏ, không đáng kể, đặc biệt là nitơ, oxi, hiđro,
cũng làm cho kim loại này trở nên cứng và giòn, nên rất khó gia công.
Một thời gian dài người ta
không thể điều chế được vanađi tinh khiết do tính hoạt động mạnh khác thường
của nó ở nhiệt độ cao: Không chọn được thứ vật liệu làm nồi nung mà không bị
hòa tan trong vanađi và không làm bắn nó khi nấu chảy. Lúc bấy giờ, các nhà bác
học đã đi theo con đường khác: họ đã hoàn thiện phương pháp điện phân để tinh
luyện vanađi đến độ tinh khiết 99,99%. Tất nhiên, 4% và 0,01% là một sự khác
biệt rất lớn.
Suốt hàng chục năm, vanađi
không được sử dụng rộng rãi trong công nghiệp. Chẳng hạn hồi đầu thế kỉ của
chúng ta, mỗi năm trên thế giới chỉ sản xuất vài tấn vanađi. Đúng là giá của nó
hồi đó cao quá sức tưởng tượng: mỗi kilôgam giá năm mươi ngàn rúp vàng (Giá trị
một rúp vàng thời bấy giờ là 0,774235 gam vàng nguyên chất. Như vậy, giá một kilôgam
vanađi lúc bấy giờ là gần 39 kilôgam vàng! (N. D.)).
Cũng dễ hiểu là vì sao vanađi
được sản xuất ít ỏi như vậy và giá của nó đắt khủng khiếp đến thế. Mặc dầu vỏ
trái đất chứa không ít vanađi (nhiều hơn bạc khoảng một ngàn lần) nhưng cực kì
hiếm thấy những điểm tích tụ của nó trên mặt đất. Chính vì vậy nên vanađi được
xếp vào hàng các kim loại hiếm. Quặng chứa 1% vanađi được coi là cực kì giàu;
ngay cả những quặng chỉ chứa 0,1% nguyên tố quý và hiếm này cũng được khai thác
và chế biến theo quy mô công nghiệp.
Một trong những mỏ vanađi lớn
nhất thế giới nằm ở vùng núi Pêru, trên độ cao 4700 mét so với mặt nước biển.
Tại đây, ở những nơi xa tít tận chân mây, từ nhiều năm nay người ta đã khai
thác khoáng vật patronit giàu vanađi mà trên trái đất không hề gặp lại ở một
nơi nào khác nữa. Cách đây chưa lâu lắm ở bờ bắc biển Caxpi, trên bán đảo
Buzatri, đã bắt đầu khai thác dầu mỏ có hàm lượng vanađi cao theo phương thức
công nghiệp. Nhiệm vụ của các nhà địa chất là phải hoàn thiện công nghệ tách
nguyên tố quý báu này từ “quặng” dầu mỏ một cách có hiệu quả.
Một điều đáng chú ý là trong
các thiên thạch rơi xuống trái đất, hàm lượng vanađi lớn gấp hai đến ba lần so
với trong vỏ trái đất. Trong quang phổ của mặt trời có thể dễ dàng tìm thấy
những vạch đặc trưng cho các nguyên tử vanađi; điều đó chứng tỏ rằng, mặt trời
cũng rất giàu nguyên tố này và còn giàu hơn cả hành tinh chúng ta. Có thể đến
một lúc nào đó, việc đưa các chuyến quặng giàu vanađi, từ sao Hỏa hoặc sao Kim
chẳng hạn, đến nhà máy luyện kim sẽ được coi như một công việc vận chuyển bình
thường, còn bây giờ thì con người trên trái đất vẫn phải trông cậy vào dự trữ
của chính mình mà thôi.
Cái khó của việc lấy vanađi
ra khỏi quặng cũng chính là nguyên nhân khiến cho kim loại này trong một thời
gian lâu đến thế không thể tìm được việc làm cho mình. Tuy nhiên, sự phát triển
như vũ bão của kĩ thuật đã nhanh chóng mở rộng cửa để đón vanađi vào thế giới
công nghiệp. Nguyên tố này có khả năng truyền cho thép những tính chất rất quý;
điều đó đã quyết định số phận của nó - vanađi bắt đầu đóng vai trò “vitamin”
đối với thép.
Chỉ cần pha thêm một lượng
vanađi rất ít (vài phần trăm), thế là thép liền có cấu trúc mịn hạt, có đồ bền
cao và độ đàn hồi lớn. Loại thép như vậy “có tài” chịu đựng va đập và lực uốn,
bền bỉ chống lại được sự mài mòn và chống được sự đứt gãy rất tốt. Mà chính các
tính chất này lại hết sức cần thiết cho các chi tiết ô tô. Bởi vậy, các cụm máy
và các chi tiết quan trọng của ô tô như động cơ, lò xo xupap, nhíp, trục quay,
trục bánh xe, bánh răng... đều được chế tạo bằng thép vanađi không mỏi. Cũng vì
thế mà Henri Forđ đã đánh giá vai trò của vanađi cao như vậy. Và cũng không
phải ngẫu nhiên mà Viện sĩ A. E. Ferxman đã nói về nguyên tố này: “… huyền diệu
thay những sức mạnh mà nó truyền cho sắt và thép bằng cách trang bị cho sắt và
thép độ cứng và độ bền, độ dẻo và độ dai, tính không bị phá hủy rất cần thiết
cho trục ô tô.”
Trong những năm Chiến tranh
thế giới thứ nhất, máy bay do các kĩ sư Pháp chế tạo đã gây nên được sự chấn
động thật sự. Máy bay này được trang bị không phải là súng máy như thường thấy,
mà là pháo; những khẩu pháo này đã gây nên nỗi kinh hoàng cho các phi công Đức.
Nhưng bằng cách nào mà có thể đặt được pháo lên máy bay? Sức chở của những “chiếc
giá gỗ” thời bấy giờ rất nhỏ. Thì ra vanađi đã giúp khẩu pháo “trèo lên” máy
bay. Những khẩu pháo của không quân pháp được chế tạo bằng thép vanađi. Với
khối lượng không lớn lắm, chúng có những tính năng tuyệt vời về độ bền, cho
phép giội hỏa lực kinh người vào máy bay Đức.
Tiếp theo đó, người ta bắt
đầu dùng thép vanađi để sản xuất mũ cho binh lính. Loại mũ khá nhẹ, làm bằng
thép mỏng nhưng bền này đã che chắc chắn cho người chủ của nó khỏi bị đầu đạn
và mảnh bắn vào. Vỏ bọc bằng thép cũng rất cần thiết để bảo vệ các pháo thủ
khỏi làn đạn súng trường thiện xạ. Nhằm mục đích này, trong những năm đó, ở
Sêfin (Sheffield, nước Anh), người ta đã sản xuất loại thép làm vỏ bọc chứa khá
nhiều silic và niken. Tiếc thay, khi thử nghiệm thì đầu đạn đã dễ dàng xuyên
thủng những lớp vỏ bọc làm bằng loại thép này. Lúc bấy giờ người ta đã quyết
định đem ra thử nghiệm loại thép chứa 0,2% vanađi. Thành công đã vượt qua mọi
sự mong đợi: thép này đã vượt qua được cuộc sát hạch về độ bền trong chín mươi
chín đến một trăm trường hợp!
Thế là vanađi đã bắt đầu phục
vụ cả việc phòng thủ nữa chứ không phải chỉ phục vụ tấn công mà thôi. Các hãng
ở Mỹ, Anh, Pháp đã sẵn sàng sử dụng thép vanađi vào những mục đích khác nhau.
Thế mà các nhà luyện kim Đức, vốn luôn luôn được coi là các chuyên gia cỡ lớn
về những vấn đề này, đã bày tỏ một quan điểm mà mới nhìn qua thì qua thì hoàn
toàn khó hiểu: họ đã tỏ ra rất hoài nghi đối với vanađi trong vai trò nguyên tố
điều chất và trên thực tế, họ đã từ chối sử dụng thép vanađi. Thậm chí, một nhà
máy của Đức đã đưa ra kết luận dứt khoát rằng, luyện thép vanađi là một việc
chẳng có ý nghĩa gì cả. Điều này có vẻ như là một nghịch lí.
Nhưng ngay sau đó, mọi việc
đều sáng tỏ: Vì người Đức không có quặng vanađi trong nước nên họ chẳng thích
thú gì khi thấy giá vanađi trên thị trường thế giới tăng lên cùng với nhu cầu
của kim loại này; do đó, họ cố tìm mọi cách kìm hãm việc sử dụng thép vanađi.
Cũng chính họ đã ráo riết tìm kiếm những nguyên tố có khả năng tác động đến
thép như vanađi, song chẳng bao lâu, họ đã biết chắc chắn rằng, không có vanađi
thì không xong. Thế là những mưu mô của các “nhà ngoại giao” luyện kim hòng nói
xấu thép vanađi đã thất bại, còn việc sản xuất kim loại này thì tiếp tục tăng
lên từ năm này sang năm khác.
Chính vanađi đã giúp thép
hoàn thành công vụ một cách tốt đẹp trong những điều kiện khắc nghiệt của vùng Bắc
Cực và vùng Xibia: thì ra nếu pha thêm vanađi và nitơ vào thép - dù chỉ vài
phần vạn thôi - sẽ làm tăng rõ rệt tính chịu lạnh của loại thép dùng để làm các
đường ống dẫn, các loại máy khoan, tháp khoan. Bất kì loại thép nào cũng không
chịu được giá rét ở phương bắc và đều trở nên giòn như thủy tinh. Còn thép
vanađi thì không hề suy suyển gì ngay cả âm 60 độ C.
Ngành hàng không, ngành vận
tải đường sắt, kĩ thuật điện, kĩ thuật vô tuyến, công nghiệp quốc phòng... -
thật khó kể cho hết mọi lĩnh vực công nghiệp hiện đại mà hiện nay đang sử dụng
thép vanađi. Cả gang cũng được hưởng thụ công lao của vanađi, gang vanađi chất
lượng cao được dùng để đúc vòng găng, đúc khuôn đúc thép thỏi, trục cán, khuôn
dập nguội.
Tuy nhiên, vanađi làm việc
không chỉ với tư cách là một kim loại - vitamin. Các muối của nguyên tố này -
màu xanh vàng, đỏ, đen vàng chóe (chúng ta hãy nhớ lại cái tên “panchromium” -
phiếm sắc, mà đen Rio đã đặt cho kim loại này) đều được sử dụng rất hiệu quả
trong việc sản xuất các chất màu và các loại mực đặc biệt, trong công nghiệp
thủy tinh và đồ gốm. Nhân tiện nói thêm là chính vanađi đã bắt đầu cuộc đời
hoạt động thực tiễn của mình từ nghề sản xuất đồ gốm ngay sau khi được
Xepxtơrôm phát hiện ra. Nhờ các hợp chất của vanađi người ta đã tráng lên các
sản phẩm sứ và sành một lớp men mầu vàng óng ánh và đã nhuộm cho thủy tinh có
màu xanh lá cây hoặc màu xanh da trời.
Năm 1842, nhà hóa học Nga nổi
tiếng N. N. Zinin đã điều chế được anilin. Điều đó đã thúc đẩy mạnh mẽ sự phát
triển của ngành sản xuất thuốc nhuộm. Và ở đây, vanađi đã có mặt ngay: Chỉ cần một
gam vanađi oxit hóa trị năm là đủ để biến 200 kilôgam muối anilin không màu
thành một chất nhuộm màu rất mạnh - đó là anilin đen.
Ngày nay, nếu không có vanađi
thì hóa học cũng chẳng làm nên công chuyện gì: oxit của nó là một chất xúc tác
tuyệt vời trong quá trình sản xuất axit sunfuric mà người ta vẫn gọi là “bánh
mì của hóa học.” Suốt nhiều năm amian nhuốm platin (tức là amian có rắc bột
platin) đã đóng vai trò này. Nhưng trước tiên, chất xúc tác này rất đắt, thứ
hai là nó không bền vững lắm: nó thường không chịu làm việc do bị “ngộ độc” bởi
các tạp chất ở thể khí. Chính vì vậy, khi công nghệ sản xuất axit sunfuric với
chất xúc tác là các hợp chất của vanađi được đề ra, thì công nhân các nhà máy
sản xuất axit sunfuric liền từ giã amian nhuốm platin mà không hề do dự. Những
tính chất thần diệu của vanađi oxit cũng được sử dụng trong việc chưng cất dầu
mỏ và khi điều chế nhiều hợp chất hữu cơ phức tạp.
Ngay cả... lợn cũng quý trọng
những phẩm chất tốt đẹp của vanađi. Ở Achentina người ta đã thí nghiệm đưa
nguyên tố này vào khẩu phần thức ăn của lợn. Kết quả ra sao? Bọn lợn con hay ăn
hẳn lên và tăng trọng rất nhanh.
Các nhà bác học Mỹ ở phòng
thí nghiệm của Bệnh viện Long-Bích đã nghiên cứu ảnh hưởng của vanađi đối với
sự trưởng thành của chuột. Những con chuột được thí nghiệm với chế độ ăn uống
hoàn toàn thiếu hẳn nguyên tố này thì lớn chậm bằng một nửa “bạn bè” của chúng
ở nhóm đối chứng được nuôi bằng thức ăn bình thường. Song chỉ cần cho thêm vào
thức ăn của chúng một lượng nhỏ vanađi thì chỉ sau vài ngày là tốc độ lớn lên
của chuột được khôi phục đến mức bình thường.
Có lẽ vanađi cũng cần thiết
đối với nhiều mô động vật: nó có mặt trong trứng gà, thịt gà, sữa bò, gan động
vật và ngay cả trong não người.
Một điều đáng chú ý là một số
thực vật và động vật dưới biển - các loài hải sâm, hải quỳ, hải đởm - biết “sưu
tầm” vanađi. Chúng lấy vanađi từ môi trường xung quanh bằng phương pháp nào đó
mà con người chưa biết. Một số nhà bác học giả định rằng, ở nhóm sinh vật này,
vanađi cũng đóng vai trò như sắt trong máu của người và của các động vật bậc
cao, tức là giúp máu hấp thụ oxi, hay nói một cách hình ảnh là giúp chúng thở.
Các nhà bác học khác thì cho rằng, các “cư dân” dưới đáy biển cần vanađi không
phải để thở mà là để ăn. Những kết quả nghiên cứu tiếp tục sẽ cho biết ai đúng
ai sai. Còn bây giờ thì đã xác định được rằng, trong máu của loài hải sâm có
rất nhiều vanađi, còn ở các biến chủng của loài hải quỳ thì hàm lượng nguyên tố
này trong máu cao gấp hàng tỉ lần so với hàm lượng của nó trong nước biển. Quả
thật, chúng đúng là những cái ống gom góp vanađi. Rõ ràng là các nhà bác học
đang rất quan tâm đến khả năng khai thác vanađi nhờ sự giúp đỡ của các cư dân ở
chốn “thủy cung.”
Ở Nhật Bản chẳng hạn, các đồn
điền hải quỳ kéo dài hàng trăm kilômét dọc bờ biển. Hải quỳ rất “mắn đẻ”: Từ
một mét vuông đồn điền mầu xanh da trời này, người ta lấy được khoảng 150 kilôgam
động vật này. Sau khi thu hoạch “mùa màng,” thứ “quặng” vanađi sống này được
gửi đến các phòng thí nghiệm chuyên môn để từ đó tách ra thứ kim loại mà công
nghiệp đang rất cần. Gần đây, trên báo chí đã có tin nói rằng, các nhà luyện
kim Nhật Bản đã chế tạo được thứ thép mà trong đó nguyên tố điều chất là vanađi
khai thác được từ loại hải quỳ.
Trên cạn cũng có những “nhà
sưu tập” vanađi: một trong những “vị” ấy là loại nấm độc amanita trắng mà mọi
người đều biết khá rõ. Một số loại nấm mốc cũng không thờ ơ với vanađi: thiếu
vanađi thì chúng hoàn toàn không phát triển được. Trong khoa học, những loài
thực vật có khả năng tích lũy một nguyên tố nào đó trong cơ thể được gọi là
những “máy” tích tụ sinh học (bioconcentrator). Chúng giúp sức cho các nhà địa
chất rất nhiều, vì chúng đóng vai trò những vật chỉ thị độc đáo trong việc tìm
kiếm quặng của một số kim loại quý.
Năm 1971, trên các nhánh núi
thuộc dãy Thiên Sơn, các nhà cổ sinh vật học Xô-viết đã phát hiện ra dấu vết
của một loài thực vật mà khoa học chưa hề biết đến tên (người ta gọi nó là
menneria) - đó là một loài tảo đơn bào, từng sinh sống trên trái đất chừng...
một tỉ rưỡi năm trước đây. Đến đây, bạn đọc hoàn toàn có quyền hỏi: “Vậy thì
loại tảo mới này có quan hệ gì với vanađi?” Đúng, có quan hệ trực tiếp đấy: các
nhà bác học cho rằng, lúc sinh thời, menneria đã đóng vai trò quan trọng trong
sự hình thành bầu khí quyển của chúng ta, trong việc tạo nên tụ thể của các
nguyên tố hóa học như vanađi và urani trong vỏ trái đất.
Chúng ta vừa nghe kể về quá
khứ và hiện tại của vanađi. Và cái gì còn đợi nó ngày mai? Tới đây, số phận của
thứ kim loại tuyệt vời này sẽ ra sao?
Vì không có cái “máy thời
gian” như trong truyện viễn tưởng nên hẳn là không thể tiên đoán tương lai của
vanađi một cách “chẳng sai chút nào,” nhưng vì biết được những tính chất quý
báu của nó - độ bền cơ học đáng kể, sức chống ăn mòn lớn, nhiệt độ nóng chảy
cao, tỉ trọng nhỏ hơn của sắt - cho nên rất có lí để giả định rằng, vanađi sẽ
trở thành một thứ vật liệu kết cấu tuyệt vời. Song trước hết, con người phải
biết cách “tước đoạt” vanađi của thiên nhiên với một khối lượng thật lớn (lớn
hơn nhiều so với bây giờ!), vì thiên nhiên đang cất giữ nó rất cẩn thận trong
những kho tàng không bao giờ cạn kiệt của mình.