21. Kim loại của mặt trăng - Ag - Phần 1

Kim loại của mặt trăng

Ag

Thắng hết trận này đến trận khác, quân của Alecxanđre xứ Makeđonia ào ạt
tiến về phía đông. Ba Tư rồi Phenicia, Ai Cập rồi Babilon, Bactria rồi Sogdiana
lần lượt bị chinh phục. Năm 327 Trước Công nguyên, quân Hy Lạp tràn đến biên
giới Ấn Độ. Tưởng như không có sức mạnh nào chặn được đạo quân thiện chiến của
vị tướng lừng danh đó. Nhưng bỗng nhiên, quân Hy Lạp bắt đầu mắc bệnh nặng hàng
loạt về đường tiêu hóa. Những người lính gầy còm và kiệt sức đã nổi loạn, đòi
trở về quê hương. Mặc dầu sự khát khao những chiến công mới đang lôi cuốn nhà
vua, ông vẫn buộc lòng phải lui quân.

Nhưng có một điều đáng chú ý: So với binh lính thì các tướng lĩnh Hy Lạp bị
bệnh ít hơn nhiều mặc dầu họ đã chia xẻ với tướng sĩ những nỗi gian lao vất vả
của cuộc đời chinh chiến.

Các nhà bác học phải mất hơn hai ngàn năm mới tìm được nguyên nhân của hiện
tượng bí ẩn đó: thực chất là các binh lính của quân đội Hy Lạp thời ấy giờ đã
uống nước đựng trong cốc bằng thiếc, còn các tướng lĩnh thì dùng cốc bằng bạc.
Mà bạc thì có một tính chất kì diệu: Khi hòa tan trong nước, nó giết chết các
vi khuẩn gây bệnh có mặt trong đó, thêm vào đó, để khử trùng cho một lít nước
chỉ cần vài phần tỉ gam bạc là đủ. Chính vì vậy, nhóm người có vai vế trong
quân đội vốn dùng cốc chén bằng bạc nên mức độ nhiễm bệnh ở họ ít hơn hẳn so
với ở những người lính bình thường.

Nhà viết sử thời cổ Herođot kể rằng, ngay từ thế kỉ VI Trước Công nguyên,
trong thời gian tiến hành rất nhiều các cuộc chính chiến, vua Ba Tư là Kyros đã
chứa nước uống trong những bình “linh thiêng” bằng bạc. Trong các sách tôn giáo
Ấn Độ cũng gặp những đoạn nói rằng, người ta dùng thỏi bạc nung đỏ nhúng vào
nước để khử trùng cho nước. Tại nhiều nước đã có tục lệ ném xuống giếng vài
đồng tiền bạc để “cúng giếng.”

Có lẽ ta có thể coi tác dụng làm sạch nước của bạc là nghề nghiệp cổ xưa
nhất của kim loại này, mà ngay cả hiện nay nó cũng không từ giã nghề ấy: các
ion bạc giúp cho việc bảo quản nước uống dự trữ cho các nhà du hành vũ trụ trên
trạm quỹ đạo “Chào mừng.”

Đôi khi, do tính ngang tàng của một số nhân vật quyền quý mà bạc đành phải
làm những việc hoàn toàn vô nghĩa. Chẳng hạn, hoàng đế La Mã Nêrong vốn nổi
tiếng về thói hoang phí đã không tìm được việc gì hay ho hơn là việc đóng móng
bạc cho hàng ngàn con la của mình. Nhưng đó cũng chỉ là một tình tiết nhỏ mọn
trong tiểu sử của kim loại này. Nghề nghiệp cổ xưa thứ hai của bạc - nghề mà
bạc đã hiến dâng trọn đời mình, là nghề làm thước đo giá trị, nghĩa là tiền.

Những đồng tiền bằng bạc đầu tiên đã xuất hiện vài thế kỉ Trước Công
nguyên. Plini Bố cho biết, ở La Mã cổ đại vào năm 269 Trước Công nguyên, người
ta đã đúc những đồng tiền bằng bạc - đó là các đồng denarius. Từ giữa thế kỉ I
Trước Công nguyên, trên các đồng tiền này thường có hình của các hoàng đế.
Julius Cesar là vị hoàng đế đầu tiên được hưởng vinh dự đó. Ngay cả hoàng đế
Quintillus tuy chỉ giữ được chức vị cao cả này mười bảy ngày vào năm 270 cũng
đã kịp để lại cho đời sau những đồng tiền bằng bạc có mặt uy nghiêm của mình.

Dần dần, chủ đề trên các đồng tiền được phát hành ở các nước càng trở nên
đa dạng hơn và đôi khi rất kì quặc. Chẳng hạn, năm 1528, ở xứ Bôhemi đã lưu
hành những đồng tiền bằng bạc, trên đó in hình một người rừng, một tay cầm cây
chùy, một tay cầm ngọn nến. Vì những công trạng gì mà con người hoang dã này đã
nhảy được vào đồng tiền bằng bạc?

Theo truyền thuyết kể lại thì một người hoang dã ở miền rừng núi Bohemi
biết nhiều người đi tìm bạc nên đã đến gặp những người đó, thắp một ngọn nến và
gọi họ đi theo mình. Mọi người đi theo người rừng này một hồi lâu, rồi bỗng
nhiên, ngọn nến tắt phụt và chính người rừng biến mất. Tại nơi xảy ra sự việc
này, người ta đã tìm thấy một mỏ rất nhiều bạc.

Ở nước Nga, những đồng tiền bằng bạc do chính người Nga làm ra đã xuất hiện
vào khoảng thế kỉ IX - X. Hiện nay còn giữ lại được những đồng tiền bằng bạc
của công tước nước Nga là Vlađimia. Trên một mặt, có hình công tước ngồi trên “ngai”
(là một cái bàn), còn trên mặt kia thì có hình gia huy của công tước. Trên đồng
tiền có đề hàng chữ: “Vlađimia ngự trên ngai, còn đây là bạc của ngài.”

Hồi thế kỉ XII - XIII, tiền bằng bạc không lưu hành ở nước Nga nữa. Thời
bấy giờ, các vùng đất đai từng hợp nhất lại thành nước Nga Kiev bị phân chia
thành các công quốc riêng biệt, nên không có đồng tiền thống nhất cho cả nước
nữa. Các nhà sử học đã gọi thời gian này là thời kì không có tiền tệ. Những
thỏi bạc gọi là gripna, nặng chừng hai trăm gam lại bắt đầu được dùng làm tiền
tệ. Sức mua của đơn vị tiền tệ này rất cao: một gripna có thể mua được hai trăm
bộ lông sóc. Một nhà viết sử thời xưa chép rằng, phải mất hai ngàn gripna bằng
bạc mới chuộc được mạng của công tước Igor - người đã bị dân Polovet bắt giữ
vào năm 1185.

Đồng gripna nặng trình trịch không phải lúc nào cũng thuận tiện cho việc
chi tiêu, bởi vì không phải chỉ cần để chuộc mạng các vị công tước, mà còn cần
để thực hiện các giao dịch buôn bán và tài chính ít quan trọng hơn. Vậy là cần
phải có những đồng tiền nhỏ hơn: Người ta chặt đồng gripna ra làm đôi. Từ đó mà
có những đồng rúp (Trong tiếng Nga, “rubit” nghĩa là “chặt,” vì vậy mà xuất
hiện chữ “rubi” để chỉ đơn vị tiền tệ (N. D.)).

Ách thống trị của người Mông Cổ - Tacta đã kìm hãm sự khôi phục việc đúc
tiền ở nước Nga. Đồng tiền “dirgema” hoặc “denga” (theo tiếng Tacta, “denga”
nghĩa là “kêu leng keng”) do Lũ Rợ Vàng (Trong ngôn ngữ châu Âu, quân viễn
chinh của người Mông Cổ - Tacta hồi thế kỉ XII được gọi là “Lũ Rợ Vàng”:
golden Horde) tung ra đã một thời lưu hành ở Nga. Dần dần từ “denga” chuyển
thành “dengi” (nghĩa là “tiền” trong tiếng Nga).

Mãi đến giữa thế kỉ XIV, khi nhân dân Nga đã làm suy yếu ách thống trị
Mông Cổ - Tacta, ở Nga lại bắt đầu có tiền riêng. Năm 1534, trong thời gian trị
vì của Elena Glinxkaia (mẹ của Ivan Hung bạo), hệ thống tiền tệ thống nhất cho
toàn quốc gia Nga đã hình thành. Trên đồng tiền nhỏ bằng bạc có hình một kị sĩ
cầm gươm; đồng tiền này được gọi là “tiền có gươm.” Còn trên những đồng tiền
cũng bằng bạc nhưng hơi lớn hơn thì có hình một kị sĩ cầm ngọn giáo. Những
đồng tiền như vậy được gọi là “tiền có giáo” - từ đấy phát sinh ra từ “côpech”
(vì trong tiếng Nga, “kopio” nghĩa là “ngọn giáo”).

Hiện nay, thật khó mà truy tìm đến ngọn nguồn, nhưng hẳn là những kẻ làm
tiền giả đầu tiên đã xuất hiện ngay từ khi những đồng tiền đầu tiên mới ra đời.
Khi khai quật một thôn xóm của người Viking (một bộ tộc ở Bắc Âu chuyên nghề
buôn bán và cướp bóc ở các vùng ven biển châu Âu từ cuối thế kỉ VIII đến giữa
thế kỉ XI - N. D.), các nhà khảo cổ học người Anh đã tìm thấy một đồng tiền
Ảrập kì lạ, từng được phát hành trước đó một ngàn năm. Trong danh mục các hiện
vật tìm được, đồng tiền này được ghi nhận là bằng bạc, nhưng chẳng bao lâu sau
đã phải đính chính lại, vì phép phân tích bằng tia rơngen đã cho biết rằng,
đồng tiền “bằng bạc” này đã được làm bằng đồng và chỉ được bọc một lớp bạc mà
thôi. Cần phải đánh giá đúng tài nghệ của kẻ làm tiền giả thời xưa: Chất lượng
sản phẩm do y làm ra rất cao. Không phải nghi ngờ gì nữa, những người cùng thời
với y không có phương tiện phân tích chính xác nên đã coi những đồng tiền giả
được làm rất khéo này là tiền thật.

Một vật tương tự khác do các nhà khảo cổ học tìm thấy trong các cuộc khai
quật ở gần Tasken cũng rất đáng chú ý: Tại một hố rác của một di chỉ thành phố Trung
Cổ có một “kho tiền” gồm mười sáu đồng “dirgema” bằng bạc từng được phát hành
hồi đầu thế kỉ XI tại quốc gia Carakhanit. Sau khi lau sạch những đồng tiền đó
thì mới vỡ lẽ ra: Chúng đều được làm bằng đồng và chỉ được “xoa phấn” bạc mà
thôi. Nhưng theo các nhà sử học thì triều đại cầm quyền thời bấy giờ chỉ đúc
tiền bằng bạc nguyên chất. Các nhà chuyên môn đã đi đến kết luận rằng, đó là
những đồng tiền giả. Còn điều này vẫn chưa rõ: vậy chúng đã rơi vào hố rác bằng
cách nào? Có lẽ do nhà cầm quyền đã biết về việc làm ăn phi pháp này, nên để “phi
tang,” kẻ làm tiền giả đã tạm cất giấu những đồng tiền trong hố rác nhà mình.
Thế rồi chúng đã nằm luôn ở đấy ngót cả ngàn năm.

Đến thế kỉ XVII, việc làm tiền giả đã được thực hiện trên quy mô nhà nước.
Năm 1654 đã qua. Cuộc chiến tranh quá sức mà nước Nga đã dấy lên với Ba Lan làm
cho ngân khố trống rỗng, trong khi nhu cầu về tiền ngày càng tăng thêm. Sa
hoàng Alecxây Mikhailovich đã tăng các thứ thuế má rất nặng nề, nhưng nhân dân
đã lâm vào cảnh bần cùng nên không thể nộp đủ. Lúc bấy giờ, quan cận thần Feđor
Rtisep đã nghĩ ra một cách mà y tưởng là có thể làm giàu cho ngân khố, nhưng
thật ra thì đã dẫn đến những hậu quả tệ hại nhất.

Thời bấy giờ, tiền bằng bạc vẫn lưu hành ở nước Nga. Nhưng vì nước Nga
không có bạc nên đành phải sản xuất tiền bằng... tiền nước ngoài. Thông thường
để làm việc đó, triều đình đã dùng những đồng tiền Tây Âu staler đúc ở Iakhimop
(thuộc vùng Czech ngay, nước Tiệp Khắc ngày nay) hoặc còn gọi là đồng “efimok,”
rồi xóa chữ La Tinh trên đó và điền chữ Nga vào.

Theo lời khuyên của Rtisep và của các nhà quý tộc khác, nhà vua đã kiếm lời
bằng cách sửa lại giá trị của đồng tiền. Đối với ngân khố, đồng “efimok” trị
giá năm mươi côpech (nửa rúp), vậy mà nhà vua đã ra lệnh đóng vào đó con dấu
một rúp. Ngoài ra, nhà vua còn ra lệnh cho lưu hành những đồng tiền nhỏ hơn,
đúc bằng thứ đồng rẻ tiền và bắt dân phải coi chúng có giá trị như bạc. Theo dự
tính của các nhà tài chính trong triều đình thì cuộc cải cách này sẽ đem lại
cho ngân khố bốn triệu rúp - cao gấp vài lần tiền thu mọi thứ thuế trong một
năm! Đầu óc nhà vua quay cuồng vì những món tiền lớn như thế, nên ông ta đã ra
lệnh làm thêm thật nhiều tiền mới, “gấp rút ngày đêm, dốc hết sức lực để nhanh
chóng làm ra nhiều tiền.”

Những đồng tiền rẻ mạt đã tràn ngập nước Nga. Nhưng sự lưu thông tiền tệ
vẫn có những quy luật của nó mà không phụ thuộc vào quyền lực của ai, dù là của
vua chúa cũng vậy. Nếu phát hành nhiều tiền hơn mức đã ấn định thì sức mua của
đồng tiền sẽ giảm sút, từ đó giá cả mọi hàng hóa đều tăng lên. Điều đó cũng đã
xảy ra ở nước Nga. Người dân bình thường rất nhảy cảm với những hậu quả của
cuộc cải cách do nhà vua đề ra. Giá bánh mì và các thực phẩm khác tăng vọt,
thêm vào đó, các nhà buôn chỉ đòi đổi hàng hóa lấy bạc chứ không muốn lấy tiền.
Nhưng lấy đâu ra bạc bây giờ khi mà bạc đã bị vơ vét hết về kho của nhà vua?
Nạn đói nổi lên trong nước. Sức chịu đựng của người dân đã đến mức tột cùng.
Thế là vào năm 1662, ở Matxcơva đã nổ ra một cuộc khởi nghĩa - đó là “cuộc nổi
loạn vì đồng.” Cuộc khởi nghĩa này đã bị nhà vua đàn áp khốc liệt, nhưng dù sao
dân chúng vẫn đạt được nguyện vọng của mình: Tiền đồng đã bị thu hồi và được
thay thế bằng tiền bạc như cũ.

Trong thời gian trị vì của Piôt đệ nhất, việc đúc tiền được tập trung tại
xưởng đúc tiền Matxcơva nằm ở quận có tên gọi là “thành phố Trung Quốc.” Năm
1711, nghị viện đã “tuyên cáo: chỉ đúc tiền bằng bạc ở một xưởng đúc tiền ở
thành phố Trung Quốc.” Về sau, theo chỉ dụ của Sa hoàng, một xưởng đúc tiền
khác đã được thành lập ở Petecbua vào năm 1724. Xí nghiệp này - xưởng đúc tiền
ở Lêningrat - hiện vẫn hoạt động và gần đây đã kỉ niệm hai trăm năm mươi năm
ngày thành lập.

Piôt đệ nhất đã sử dụng những biện pháp tích cực để mở rộng việc khai thác
vàng và bạc. Mặc dầu nhà vua đã đạt được một số kết quả, song các kim loại quý
này vẫn phải mua ở nước ngoài một thời gian dài nữa. Hiện còn giữ được những
tài liệu rất đáng chú ý nói lên điều đó. Chẳng hạn, năm 1734, triều đình đã
giao cho phó tổng đốc tỉnh Ircutxcơ mua một lượng bạc lớn của Trung Quốc.

Cũng khoảng trong thời gian đó, những người sành sỏi về quặng trong gia
đình Akinfi Đemiđop - đại biểu cho triều đại hùng cường của các chủ mỏ ở Uran,
đã phát hiện được một số mỏ bạc. Theo luật lệ nhà nước hiện hành lúc bấy giờ
thì quặng bạc dù do ai tìm được ở bất cứ đâu cũng đều phải dung vào tài sản của
triều đình. Nhưng Đemiđop lại không muốn từ bỏ những của cải mới lọt được vào
tay mình. Ông ta bắt đầu đúc tiền riêng của mình, chẳng hề khác tiền của nhà
vua một tí nào. Tuy nhiên, vẫn có một sự khác biệt: Tiền của Đemiđop chứa nhiều
bạc hơn tiền của nhà vua. Có lẽ đây là trường hợp duy nhất trong lịch sử mà
tiền giả lại quý hơn tiền thật.

Nếu có thể tin vào truyền thuyết thì ở Nevianxcơ - lãnh địa của gia đình
Đemiđop, có một xưởng đúc tiền bí mật. Trong tầng hầm của một ngọn tháp cao ở
đây, những người nô lệ bị xiềng vào tường phải làm tiền giả suốt ngày đêm. Đó
là một nhà tù khủng khiếp mà không ai có thể thoát ra khỏi, nên triều đình
không thể biết được bí mật của ngọn tháp ở Nevianxcơ. Mặc dầu vậy, những tin
đồn về ngọn tháp vẫn lọt đến kinh đô. Ban đầu, đó là những lời đồn đoán và
chính nữ hoàng Anna Ivanopna cũng không dại gì làm tổn hại những mối quan hệ
với ông vua chưa thụ phong của xứ Uran này. Thật vậy, người ta kể rằng, một
hôm, khi đánh bài với Đemiđop, nữ hoàng thắng cuộc và khi nhận một đồng bạc mới
tinh từ tay ông ta, nữ hoàng đã bất ngờ hỏi: “ Đây là tiền do ta làm ra hay là
do ngươi hả Nikitich?” Đemiđop liền đứng dậy, buông thõng hai tay, cúi đầu và
mỉm cười, thưa: “Tất cả chúng tôi đều là của bệ hạ, cả tôi nữa cũng là của
ngài, mọi thứ của tôi nữa cũng đều là của ngài!”

Nhưng chẳng bao lâu sau đã xảy ra một sự kiện dẫn đến sự kết liễu cái xưởng
đúc tiền bí mật này. Vì sợ cơn thịnh nộ của chủ, một người thợ trong xưởng của
Đemiđop đã chạy trốn từ Nevianxcơ về Petecbua. Vừa biết được việc này, Đemiđop
liền phái ngay một toán quân truy đuổi sau khi ra lệnh phải bắt kì được và
giết chết tên đào tẩu, còn nếu không làm được như thế thì phải cấp tốc phi về
thủ đô để báo cho nữ hoàng biết “tin mừng” về việc tìm ra mỏ bạc.

Người đào tẩu đã không bị bắt, thế là đành phải báo “tin mừng.” Một ủy ban
đã được cử đến Nevianxcơ để tiếp nhận mỏ bạc. Hai ngày trước khi ủy ban này
đến, Akinfi đã ra lệnh mở các cửa cống ngăn tầng hầm của tháp với hồ nước, thế
là tất cả những người thợ ở đây - những nhân chứng về vụ phạm tội của Đemiđop -
đã vĩnh viễn ở lại dưới nước.

Từ thời xa xưa, bạc đã được sử dụng làm đồ trang sức: Những bộ đồ để ăn
uống, cốc chén, hộp phấn sáp, hộp thuốc lá và những đồ dùng xa xỉ khác đã được
làm bằng bạc. Giới quý tộc Nga và Pháp rất ưu chuộng những vật phẩm làm bằng
kim loại này. Đối với họ, đồ bằng bạc “gia truyền” có ý nghĩa như tấm danh
thiếp chứng tỏ nguồn gốc quyền quý và sự giàu sang của người chủ. Bá tước Orlop
là chủ của một bộ đồ bằng bạc mà ngoài ông ta thì chẳng ai có: bộ đồ này gồm ba
nghìn hai trăm bảy mươi lăm thứ; để làm ra chúng, phải tốn gần hai tấn bạc
nguyên chất!

Báo cáo nội dung xấu