Hậu cung Chân Hoàn truyện (Tập 5) - Chương 07 - Phần 2

Tôi
khẽ thở dài một tiếng nhưng lập tức chìm nghỉm giữa tiếng sóng nước rì rào.
“Chỉ e nếu người Hách Hách thực sự giết chết huynh, y sẽ lại càng thư thái vì
buông bỏ được một tảng đá lớn trong lòng.”

Y
khẽ gật đầu. “Sau khi biết được thân phận và lai lịch của ta, người Hách Hách
liền cảm thấy ta như một miếng gân gà, vứt thì tiếc mà ăn thì không được, liền
bỏ hẳn ý định dùng ta để uy hiếp hoàng huynh. Có lẽ bọn họ cũng chỉ đợi đến lúc
hai quân giao chiến thì mang ta ra trước trận làm con tin, có thể kiếm được bao
nhiêu lợi ích thì tốt bấy nhiêu. Ta bị giam ở Hách Hách, hôm ấy thừa lúc đám
người canh gác không đề phòng, liền cướp lấy một con ngựa chạy đi bất kể ngày
đêm, đến lúc về tới Thượng Kinh mới coi như được bình an.” Y gượng cười một
tiếng. “Khi đó, mọi người trong nước đều ngỡ là ta đã chết ở Điền Nam, binh
lính Thượng Kinh còn cho rằng ta hiện hồn trở về. Ta sợ nàng thương tâm nên lập
tức lên đường về kinh ngay, vốn định bái kiến hoàng huynh xong sẽ tới gặp nàng,
ai ngờ trong ngày về kinh, hoàng huynh lại giao cho ta một việc, đó là giúp y
đến chùa Cam Lộ đón một sủng phi mới về cung.” Thần sắc y lộ rõ vẻ đau đớn và
chua xót. “Ta thật không sao ngờ được vị sủng phi đó của hoàng huynh lại chính
là nàng.”

Tôi
buồn bã không thôi, trong sự buồn bã còn chất chứa nỗi oán hận với sự trêu
ngươi của ông trời. Sống trên đời này, con người giống như một quân cờ vậy, dù
chẳng thể nắm giữ vận mệnh của bản thân nhưng lại không thể không tiến bước lên
phía trước.

Tôi
nhìn y, nỗi xót xa trong mấy tháng vừa rồi hóa thành hai hàng lệ nóng tuôn rơi
trong câm lặng.

Y
đưa tay giúp tôi lau đi những giọt nước mắt bên má, hết mực dịu dàng. Đó là đôi
tay vừa có thể cầm bút vừa có thể cầm kiếm, nếu không vì Ma Cách dùng Thập
hương nhuyễn cân tán để khống chế y, có lẽ y sớm đã quay trở về bên tôi rồi, và
cũng sẽ không có những chuyện chua xót về sau xảy ra nữa. Thế nhưng... “nếu” và
“có lẽ” là những từ ngữ chất chứa nhiều nỗi cay đắng biết bao nhiêu, trên đời
này nếu thực sự có nhiều chữ “nếu” như vậy, đời người đã chẳng còn điều gì nuối
tiếc nữa rồi.

“Hoàn
Nhi, nàng vẫn chịu rơi lệ vì ta.” Y giữ chặt lấy bàn tay tôi, dịu dàng nói: “Ta
chỉ hỏi nàng một câu này thôi, có thật là nàng đã cạn tình với ta rồi không?”

Hơi
thở trở nên dài biết mấy, tôi chăm chú nhìn vào đôi mắt y, không ngờ lại chẳng
thể nói nổi lời nào.


đã phải trải qua những sự tranh đấu tàn nhẫn trong cung suốt bao năm nhưng tôi
chưa từng dừng sự truy cầu với tình cảm. Nhưng giờ đây, tôi đã ngưng bước, hơn
nữa còn phải tự tay cắt đứt mọi tình cảm giữa hai chúng tôi.

Không
biết qua bao lâu sau, y ôm tôi vào lòng, vòng tay của y ấm áp biết mấy, dường
như có thể giúp tôi ngăn cản mọi nỗi gian truân trong cuộc đời này. Ngay đến
hơi thở của y cũng giống hệt trước đây, điềm đạm, nhẹ nhàng và thấp thoáng mang
theo mùi hoa đỗ nhược, khiến người ta chỉ muốn chìm đắm cho tới cuối đời. Giọng
nói của y vang lên bên tai tôi, triền miên da diết như làn mưa xuân rả rích:
“Hoàn Nhi, bây giờ hãy còn kịp, chỉ cần nàng chịu theo ta, ta bằng lòng vứt bỏ
thân phận hoàng thân quốc thích này, cùng nàng làm một đôi vợ chồng áo vải,
sống với nhau đến đầu bạc răng long.”

Đi
theo y, sống với y đến khi đầu bạc, đó là ước nguyện duy nhất của tôi bấy lâu
nay.

Thế
nhưng bây giờ, những lời mà y vừa nói ra kia thật chẳng khác gì một chậu nước
lạnh giội xuống đầu tôi, khiến toàn thân tôi tột cùng buốt giá.

Tôi
thảng thốt giãy ra khỏi lòng y, không đành lòng nhìn vẻ mặt ngẩn ngơ chứa chan
nỗi thất vọng của y, đau xót nói: “Còn tình cảm thì sao? Hết tình cảm thì sao?
Con người sống trên đời không phải chỉ có một chữ tình.” Tôi đưa mắt nhìn về
phía An Tê quán ở hậu sơn của đỉnh Cam Lộ, nghiêm túc nói: “Nếu muội đi theo huynh,
đầu tiên là sẽ làm liên lụy tới Thái phi vốn lánh đời tu hành. Dù huynh mang
theo cả Thái phi, vậy còn những người khác thì sao? Chúng ta có thể mang theo
toàn bộ bọn họ sao?” Giọng nói của tôi trở nên hơi run rẩy: “Thanh, chúng ta
không thể vì tình yêu của mình mà không để tâm tới những người bên cạnh, chúng
ta không thể hy sinh bọn họ để thành toàn cho chúng ta.” Tôi nhìn y chăm chú:
“Muội không thể làm như thế, huynh cũng không thể làm như thế được.”

Vẻ
bi thương của y càng lúc càng đậm, thế nhưng trong sự bi thương ấy tôi đã nhìn
ra được vẻ tán đồng và thấu hiểu của y. Y là một người cao thượng, y sẽ không
vì mình mà làm liên lụy tới bất cứ ai, đây là điểm yếu của y, cũng là tính cách
vô cùng đáng quý của y.

Tôi
đưa mắt nhìn đi giữa hai hàng lệ nóng, vầng trăng kia vẫn treo cao giữa bầu
trời, như thể chẳng hề biết tới nỗi đau khổ giữa thế gian, lúc nào cũng đẹp
tươi sáng tỏ, chiếu rọi xuống khiến nỗi bi thương và kìm nén của chúng tôi
chẳng còn biết tránh vào đâu.

Nước
mắt chảy nhiều biết mấy, đã lâu lắm rồi tôi không được thỏa thuê khóc lóc thế
này. Đôi chân bỗng trở nên mềm nhũn, tôi khẽ tựa đầu vào vai y, để mặc cho trái
tim rối như tơ vò, cố ép bản thân phải đẩy chút bình tĩnh còn sót lại ra ngoài
miệng: “Nếu có thể vứt bỏ tất cả mà đi theo huynh, sao muội lại không muốn chứ?
Nhưng nếu muội đi rồi, cha mẹ muội biết phải làm sao đây? Thái phi biết phải
làm sao đây? Sau khi chúng ta rời đi, người phải chịu tai họa chính là bọn họ!”
Những giọt nước mắt khiến cổ họng tôi trở nên tắc nghẹn: “Trước đây thì còn có
thể.” Tôi ngẩn ngơ nhìn quanh bốn phía. “Nhưng bây giờ, chúng ta còn có thể đi
đâu được nữa? Thiên hạ này tuy rộng lớn nhưng chẳng chứa nổi một Huyền Thanh,
chẳng chứa nổi một Chân Hoàn, mà dù thiên hạ này có chứa nổi chúng ta thì cũng
chẳng thể chứa nổi trái tim ngập đầy nỗi hối hận sau khi bỏ mặc tất cả mà đi
của chúng ta. Thanh, chúng ta không còn lựa chọn nào khác nữa rồi... Mà không,
chúng ta xưa nay vốn chưa từng có lựa chọn nào cả.”

Y
giữ chặt lấy hai bờ vai tôi, cất giọng nặng nề như một cơn mưa rào dữ dội:
“Hoàn Nhi, cho dù nàng nói với ta rằng nàng đã cạn tình với ta, ta cũng không
bao giờ tin. Nhưng khi nàng nói với ta những lời này, ta thực sự đã hiểu được,
hiểu được rằng nàng sẽ không bao giờ trở về bên ta nữa.”

Giữa
màn đêm vô biên vô tận, những ký ức ngọt ngào thuở xưa lần lượt hiện về trước
mắt tôi như vô số bông hoa đẹp tươi rực rỡ.

Thế
nhưng, tôi lại chỉ có thể trơ mắt nhìn chúng lần lượt úa tàn.

“Huynh
xem kìa, nơi này lá vẫn xanh, hoa vẫn đẹp như xưa, nhưng Huyền Thanh, hai chúng
ta xa nhau bốn tháng, bãi bể sớm đã biến thành nương dâu mất rồi.” Bàn tay của
ông trời làm mưa làm gió, thỏa thích đùa vui với những tâm trạng từ bi thương
tới hoan lạc của con người, tôi chỉ biết dằn lòng mình mà xót xa khẽ nói:
“Thanh, tất cả mọi chuyện đều đã thay đổi rồi.”

Hai
bàn tay y nắm chặt, trán khẽ cụng nhẹ vào trán tôi. “Hoàn Nhi, hãy để ta ôm
nàng thêm lần nữa, chỉ một lát thôi. Từ nay về sau, ta có thể ôm tất cả mọi
người trên thế gian này, nhưng chỉ duy có nàng là sẽ không bao giờ còn ở trong
lòng ta nữa.”

Trong
khoảnh khắc ấy, sự yếu đuối nơi đáy lòng tôi bất giác trào dâng, tôi nghẹn ngào
lẩm bẩm: “Thanh, gặp được huynh muội có cảm giác như đang nằm mơ vậy. Muội thật
mong mình có thể mãi mãi không tỉnh khỏi giấc mơ này. Những ngày tháng vui vẻ
nhất cuộc đời muội đều là ở trong mơ, đều là do huynh mang tới cho muội.”

Y
khẽ hôn lên má tôi. “Cảm giác của ta cũng nào có khác gì.” Y dịu dàng nhìn tôi
chăm chú, dường như muốn khắc sâu hình bóng của tôi vào đầu. “Có câu nói này
của nàng, ta coi như không uổng kiếp sống này.”

Tôi
không kìm được đưa tay tới nhẹ nhàng vuốt ve khuôn mặt y, xót xa nói: “Việc gì
phải nói ra những lời như vậy chứ? Thanh, rồi huynh sẽ tìm được một nữ tử thật
lòng yêu thương huynh, nguyện lòng chung sống với huynh tới khi đầu bạc. Bọn
huynh sẽ có rất nhiều con cháu, sẽ sống rất tốt, sẽ được vui vẻ cả đời.” Tôi
ngước mắt nhìn y. “Thanh, sau này muội sẽ ngày ngày thắp hương lễ Phật, cầu
khấn cho huynh mãi mãi không gặp phải điều gì trắc trở.”

Y
đưa tay bịt miệng tôi lại, trong mắt chừng như thấp thoáng những giọt lệ long
lanh, nhìn còn sáng hơn cả vầng trăng giữa trời. Y khẽ nói: “Nàng nói những lời
như vậy là muốn khiến ta đau lòng sao? Tất cả tâm ý của ta đều nằm trong tấm
thiệp hợp hôn đó rồi. Lòng ta chỉ có một mình nàng thôi, sẽ không có thêm bất
cứ người nào khác cả.”

Tôi
không nén nổi những giọt nước mắt, giậm chân nói: “Chính những lời của huynh
mới khiến muội đau lòng ấy...” Từ phía xa bỗng có mấy tiếng lạch phạch vang
lên, thì ra là tiếng vỗ cánh của mấy con quạ đêm về muộn, lúc này vầng trăng đã
ngả dần về phía tây rồi.

Thời
gian đã chẳng còn được bao nhiêu.

Thật
nhẹ nhàng và chậm rãi, tôi đẩy tay y ra, rơm rớm nước mắt nói: “Huynh xem kìa,
vầng trăng đã ngả về tây, chỉ một canh giờ nữa thôi là trời sẽ sáng.”

Y
khẽ lắc đầu, sắc mặt ảm đạm như màn đêm, không còn chút ung dung rạng rỡ của
ngày trước nữa. “Ta bỗng có cảm giác mình giống như cô hồn dã quỷ, trời vừa
sáng là đại hạn sẽ tới, dù không cam lòng đến mấy cũng phải để cho nàng đi.”

Màn
đêm dần dần lùi đi, tôi chỉ còn biết cúi đầu buồn bã. “Đại hạn kỳ thực đã tới
rồi. Muội ra ngoài đã rất lâu, nếu còn không quay về, chỉ e Cận Tịch và Hoán
Bích sẽ không ứng phó nổi.” Tôi từ từ rút tay ra khỏi lòng bàn tay y, dường như
đã phải dùng hết sức lực toàn thân. “Cùng ngồi với nhau, ngắm mây trên trời,
nhẹ nhàng trò chuyện, hoặc chỉ lặng im, hưởng thụ sự bình yên trong những phút
giây ngắn ngủi.” Tôi buồn bã nói: “Thanh, ước mơ ấy thật đơn giản biết bao,
nhưng giờ đây nó đã trở nên xa xăm quá mức rồi.”

Thời
gian lẳng lặng trôi qua, để lại trong tâm khảm mỗi người những ký ức khó có thể
xóa nhòa, nhưng khi gặp lại, tôi và y sẽ phải trở về thân phận thuở xưa, cắt
đứt hết những sợi tơ tình da diết.

Giữa
màn đêm, những bông hoa vẫn chưa ngớt buông rơi, tựa một bầy chim gãy cánh, hoàn
toàn mất đi sự tự do và linh động lúc bay lượn giữa bầu trời, chỉ còn lưu lại
một mảng thê lương, nhấn chìm mọi niềm hy vọng.

Giữa
đêm khuya, trong phòng chỉ thắp một ngọn đèn leo lắt, Cận Tịch khoác thêm áo
ngồi lặng im trên ghế, Hoán Bích ngủ gật kề bên, có điều đã lập tức bị tiếng
bước chân của tôi làm giật mình thức dậy. Nhìn thấy tôi quay về, muội ấy bất
giác cả kinh, nhưng rất nhanh sau đó đã bình tĩnh trở lại. “Tiểu thư muộn thế
này mới quay về, nô tỳ còn tưởng...”

Tôi
hờ hững nói: “Tưởng rằng ta sẽ không về nữa sao?”

Cận
Tịch rót cho tôi một chén trà, ôn tồn nói: “Nô tỳ biết nương nương nhất định sẽ
về mà.”

Trên
mái tóc nàng ta vẫn còn dính nước sương chưa khô, tôi để ý một chút, thấy nơi
mũi giày của nàng ta cũng đã bị nước sương làm cho ướt đẫm, bèn hỏi: “Vừa ra
ngoài sao?”

Cận
Tịch khẽ nở nụ cười. “Nô tỳ biết nương nương nhất định sẽ về, do đó mới thay
nương nương tới một nơi.” Thấy tôi thoáng lộ vẻ khó hiểu, nàng ta bèn chỉ tay
về hướng hậu sơn.

Tôi
lập tức hiểu ra. “Vương gia quay về là việc mừng, đúng là nên báo cho Thái phi
biết.” Hơi dừng một chút, tôi lại tiếp: “Thái phi là người thông minh, tất
nhiên biết sự thực về đứa bé này không thể nói cho y biết, bằng không sẽ xảy ra
một phen phong ba rất lớn.”

Cận
Tịch chậm rãi nói: “Nương nương đoán đúng rồi, Thái phi cũng nghĩ như vậy, bởi
nói cho Vương gia biết việc này chỉ là hại Vương gia thôi.”

Tôi
đưa tay vuốt ve khuôn mặt đầy vẻ mỏi mệt của Hoán Bích, dịu giọng nói: “Muội
yên tâm, Vương gia sẽ không thương tâm quá lâu đâu. Mau ngủ đi.” Hoán Bích khẽ
gật đầu, nhưng vẻ âu lo và sợ hãi trên mặt vẫn không sao tan đi được.

Tôi
chẳng thấy buồn ngủ chút nào, liền lấy cây trâm bạc đang cài trên búi tóc
xuống, khẽ khều vào bấc lửa cho nó sáng hơn một chút, như thể làm vậy sẽ có thể
soi rọi trái tim của tôi. “Cận Tịch.” Tôi khẽ nói: “Hồi nhỏ, cha thường khen ta
thông minh, làm việc gì cũng dễ hơn người khác. Nhưng dù ta thông minh đến mấy
thì cũng chẳng thể hiểu thấu được một chữ tình. Cận Tịch, nếu có thể, ta thực
sự mong mình cả đời này chẳng biết ái tình là gì, cả đời chỉ là một nữ tử tầm
thường phàm tục, có lẽ như thế sẽ vui vẻ, dễ chịu hơn một chút.”

Cận
Tịch giúp tôi cởi áo choàng, giũ đi những hạt sương bên trên, lại khoác cho tôi
một chiếc áo mới sạch sẽ, động tác rất dịu dàng và nhanh nhẹn. Ánh trăng chiếu
xuống mái tóc dài tha thướt của tôi, làm phản chiếu những tia sáng lấp lánh như
ánh lệ.

“Những
nữ tử dịu dàng thường mang số mệnh của kẻ mày râu cứng cỏi, dù thông minh tuyệt
đỉnh cũng khó thắng nổi một chữ tình. Là thân con gái, ai mà có thể nhìn thấu
được chữ tình, cho dù là...” Nàng ta khẽ thở dài một tiếng. “Sự khác biệt chẳng
qua là ở chỗ đã tuyệt vọng hay chưa tuyệt vọng mà thôi.”

Tôi
yếu ớt tựa người vào cửa sổ. “Trước đây ta xem vở kịch Mẫu Đơn đình, thấy Đỗ Lệ Nương vì Liễu Nhược Mai mà chết rồi sống
lại, cứ ngỡ rằng tình có thể gặp thần giết thần, gặp Phật giết Phật. Bây giờ
mới hiểu, kịch dù sao cũng chỉ là kịch mà thôi.”

“Do
đó trước đây nô tỳ mới nói lửa cháy ngang mày, nhìn ngay trước mắt. Nhưng bây
giờ tình hình đã khác rồi, tất nhiên cần phải nhìn trước ngó sau, tính toán cẩn
thận mới được.”

Tôi
lặng im, bỗng nhớ lại hồi nhỏ khi xem vở kịch Mẫu Đơn đình từng thấy một câu thế này: “Tình chẳng biết từ đâu mà
có, càng lúc càng sâu. Khi sống có thể vì tình mà chết, chết rồi lại có thể vì
tình mà sống.” Hồi còn nhỏ tôi luôn có cái nhìn rất rạch ròi về tình cảm, yêu
tức là yêu, không yêu tức là không yêu, rõ ràng như là sống và chết vậy. Mà chỉ
cần yêu rồi, ngay đến việc sống chết cũng có thể vượt qua, vạn vật giữa thế
gian này đều không thể ngăn cản.

Nhưng
hóa ra, khi tình đã đậm sâu rồi, có rất nhiều việc nếu chỉ dựa vào chút sức lực
yếu ớt của chúng tôi thì không thể nào ngăn cản được.

Tôi
cầm chén trà lên, đau đớn cười nói: “Người ta hay nói nhất túy giải thiên sầu,
nhưng giờ đây ta có muốn say cũng chẳng thể.” Dứt lời, tôi liền ngẩng đầu uống
một hơi cạn sạch trà trong chén. Trong khoảnh khắc dòng nước trà ấm nóng chảy
xuống cổ họng, tôi bỗng cảm thấy đắng chát vô chừng, dường như có một nỗi bi
thương tột độ đang chảy vào trái tim, khiến tôi lệ tuôn thành hàng, bất giác
ngoảnh đầu qua nhìn Cận Tịch. “Đến nước này rồi, dù ta được hưởng bao nhiêu
vinh hoa phú quý thì cũng chỉ còn lại một kiếp sống thương tâm mà thôi.”

Báo cáo nội dung xấu