Hậu cung Chân Hoàn truyện (Tập 5) - Chương 22 - Phần 2

Huyền
Lăng mừng rỡ xoa tay liên tiếp, dường như không biết nên nói gì mới phải, hai
mắt lấp lánh ánh sáng, lộ ra những tia rực rỡ như cầu vồng. Rồi cuối cùng y
cũng không kìm được nỗi mừng vui mà bật thốt lên: “Đây thực là một chuyện mừng
to lớn, ta phải chiêu cáo thiên hạ mới được!”

Tôi
vội vàng quỳ xuống. “Thần thiếp với tấm thân hèn mọn này có thể trở lại hầu hạ
Hoàng thượng đã là điều may mắn tột cùng, đâu dám vì cái thai trong bụng mà
được chiêu cáo thiên hạ. Huống chi đây tuy là thai song sinh nhưng cũng phải là
hoàng tử mới tốt, nhược bằng chỉ là công chúa thì đâu thể nối dài huyết mạch
cho Hoàng thượng, như thế việc gì phải chiêu cáo thiên hạ. Do đó, niềm vinh
hạnh này thần thiếp muôn vạn lần không dám nhận.”

Nghe
thấy những lời khước từ uyển chuyển ấy, Huyền Lăng trầm ngâm không nói gì, khóe
mắt tôi liếc thấy Thái hậu lộ vẻ tán thưởng, bất giác thấy yên tâm hơn nhiều.
“Thần thiếp vừa mới về cung, không muốn vì việc của bản thân mà làm nảy sinh
rắc rối, cũng mong có thể yên ổn dưỡng thai, tránh sự phiền phức vì những phen
chúc tụng. Do đó...” Tôi dừng lại một chút rồi mới tiếp: “Trước khi thần thiếp
sinh nở, hy vọng không có người thứ tư nào biết về cái thai song sinh này.”

Tôi
đã khéo léo thể hiện nỗi lo lắng của mình qua lời nói, Thái hậu hết sức lõi
đời, tất nhiên hiểu cả, liền nói: “Nếu lục cung đều biết thì sẽ chẳng có lợi gì
cho việc an thai của Hoàn Phi, đợi sau này sinh nở xong xuôi thì tất thảy tự
khắc rõ ràng, không cần phải nôn nóng nhất thời làm gì.”

Huyền
Lăng cười nói: “Mẫu hậu và Hoàn Phi đều đã nói vậy rồi, nhi thần tất nhiên
không có dị nghị gì nữa. Có điều, nhi thần cảm thấy đây là việc mừng hết sức
lớn lao, nếu không có ai chung vui thì thực là quá đáng tiếc.”

Tôi
hít một hơi thật sâu, chậm rãi nói: “Nếu sự thực đúng như lời thái y nói, Hoàng
thượng còn lo rằng sau này không có ngày vui ư? Nếu Hoàng thượng thực sự muốn
chia sẻ niềm vui của mình, chi bằng hãy nhân dịp này mà xóa bỏ lệnh cấm túc cho
Từ Tiệp dư.”

Huyền
Lăng nghe vậy, quả nhiên lộ vẻ bất ngờ. “Nàng nói sao cơ?”

Tôi
trịnh trọng quỳ xuống, cung kính nói: “Thần thiếp dùng thân phận một trong Tam
phi, kính xin Hoàng thượng xóa bỏ lệnh cấm túc cho Từ Tiệp dư. Từ Tiệp dư hiện
mang thai rồng, vì bị cấm túc nên tâm trạng mới u uất để rồi ngã bệnh, thiếu
chút nữa chẳng giữ nổi cái thai. Vì cơ nghiệp muôn đời của Đại Chu, xin Hoàng
thượng hãy bỏ lệnh cấm túc cho Từ Tiệp dư để tránh điều bất trắc.”

Trên
khuôn mặt tuấn tú của Huyền Lăng thoáng qua một tia lo lắng, giọng nói hơi mang
theo ý trách móc: “Nguy Nguyệt Yến xung nguyệt là điềm báo chẳng lành, mẫu hậu
và Hoàng hậu lần lượt đổ bệnh chính là ứng với điềm báo này, sao trẫm có thể vì
một đứa bé còn chưa ra đời mà bỏ mặc sự an nguy của mẫu hậu được.” Trong đôi
mày rậm hơi cau lại của y thấp thoáng vẻ bất mãn. “Hoàn Hoàn, nàng xưa nay vẫn
luôn hiếu thảo với mẫu hậu cơ mà.”

“Đúng
thế, Thái hậu là bậc mẫu nghi thiên hạ, thân phận cao quý tột cùng, quyết không
thể vì người nào hay việc nào mà làm điều gì tổn hại tới Thái hậu. Nhưng thần
thiếp thấy hôm nay khí sắc Thái hậu đã tốt hơn nhiều, phượng thể đã dần an
khang, do đó mới dám có lời như vậy. Cứ như suy nghĩ của thần thiếp, thiên
tượng biến ảo không ngừng, chưa biết chừng điềm chẳng lành sớm đã qua đi. Hoàng
thượng có thể hỏi lại Khâm Thiên giám xem, nếu vận hạn thực sự đã hết, Từ Tiệp
dư không còn xung khắc với Thái hậu và Hoàng hậu nữa, tới lúc đó chúng ta xóa
bỏ lệnh cấm túc cũng chưa muộn.”

Huyền
Lăng trầm ngâm im lặng nhưng Thái hậu đã lộ nét cười mỉm, chậm rãi nói: “Nghe
Hoàn Phi khẩn cầu như vậy, ai gia cũng muốn xem xem Khâm Thiên giám nói thế
nào, chẳng lẽ vận hạn thực sự mãi vẫn chẳng chịu lui sao?”

Huyền
Lăng vội cười nói: “Mẫu hậu đã mở lời như vậy, nhi thần sẽ lập tức cho triệu
quan Tư nghi của Khâm Thiên giám tới đây hỏi thử cho mẫu hậu được yên tâm.”

Chỉ
chừng một tuần trà sau, người của Khâm Thiên giám đã tới, Huyền Lăng thoáng lộ
vẻ ngạc nhiên. “Tại sao lại là ngươi?”

Người
vừa tới cúi đầu, cung kính đáp: “Vi thần là Phó Tư nghi của Khâm Thiên giám,
bái kiến Hoàng thượng. Vì Tư nghi hiện đang đau bụng, không thể diện thánh, do
đó mới sai vi thần tới gặp Hoàng thượng và Thái hậu.” Dứt lời, hắn liền lùi lại
ba bước, khấu lạy lần nữa.

Huyền
Lăng khẽ cười, nói: “Ngươi đúng là rất hiểu quy củ đấy. Lần này trẫm triệu
ngươi tới là muốn hỏi ngươi về điềm báo Nguy Nguyệt Yến xung nguyệt khi trước,
thời gian qua thiên tượng có chút biến hóa nào không?”

Phó
Tư nghi nói: “Thiên tượng biến hóa là chủ những điềm hung cát nơi nhân gian. Có
câu rằng hành sự tại nhân, thành sự tại thiên, tuy thiên tượng không thể dễ
dàng thay đổi nhưng con người cũng có thể làm ảnh hưởng tới thiên tượng phần
nào.”

Huyền
Lăng chăm chú lắng nghe một lát rồi mới hỏi: “Vậy ngươi nói đi, hiện giờ thiên
tượng thế nào rồi?”

Phó
Tư nghi cung kính đáp: “Nguy Nguyệt Yến xung nguyệt là thiên tượng từ mấy tháng
trước, trong thời gian này phong thủy biến chuyển, nhật nguyệt xoay vần, ánh
sáng của sao Nguy Nguyệt Yến đã yếu hẳn đi, thấp thoáng còn có thể thấy những
tia màu tím, chính là điềm lành, còn điềm xung nguyệt thì đã qua đi. Theo như
vi thần thấy, hiện đã không còn gì đáng ngại nữa, bằng không Thái hậu sao có
thể an khang ngồi trên ghế phượng nghe vi thần bẩm báo thế này.”

Huyền
Lăng còn chưa tin hẳn. “Nếu sự thực đúng như lời ngươi nói, tại sao tới giờ
Hoàng hậu vẫn chưa khỏi bệnh, còn Tư nghi của Khâm Thiên giám thì chẳng sớm bẩm
rõ việc này với trẫm?”

Phó
Tư nghi thưa: “Nguy Nguyệt Yến xung nguyệt, nguyệt chủ âm, chính là chỉ nữ tử
tôn quý nhất trong thiên hạ, mà người đó chỉ có thể là Thái hậu chứ không phải
ai khác, do đó theo vi thần thấy, Thái hậu mới là người chủ nguyệt. Còn Hoàng
hậu tuy cũng thuộc nguyệt, nhưng chuyện sinh lão bệnh tử là lẽ thường tình của
chốn nhân gian, tuy một phần do thiên tượng ước thúc nhưng phụ thuộc vào con
người nhiều hơn. Hiện giờ thiên tượng an lành, Thái hậu khỏi bệnh, qua đó đủ
thấy bệnh của Hoàng hậu nương nương chẳng phải do thiên tượng gây ra, vi thần
cũng chẳng có cách nào. Còn về việc tại sao Tư nghi của Khâm Thiên giám không
sớm bẩm báo, chắc Hoàng thượng đã nghe qua câu thân ở vị trí nào thì lo việc ở
vị trí đó rồi. Chỉ khi nào thiên tượng chẳng lành Hoàng thượng mới cần cậy nhờ
đến Khâm Thiên giám, rồi Tư nghi mới có bổng lộc để lĩnh, có uy thế để nở mặt
nở mày. Nhược bằng thiên tượng lúc nào cũng yên bình, Hoàng thượng há lại buồn
nhớ tới Khâm Thiên giám, khi ấy các quan viên Khâm Thiên giám ắt sẽ đều khốn
khổ vô cùng.”

Phó
Tư nghi nói năng khiêm nhường lễ độ, thế nhưng lời lẽ lại rất có chiều sâu,
khiến người ta phải trầm ngâm suy nghĩ. Huyền Lăng mỉm cười, nói: “Ngươi dường
như rất hiểu đạo lý đã làm quan thì chẳng thể ngay thẳng thì phải?”

Phó
Tư nghi trả lời một cách ngắn gọn nhưng vẫn không chút thất lễ: “Vi thần có
hiểu nhưng lại không cho như thế là đúng.”

Huyền
Lăng khẽ cười tủm tỉm, một tia tán thưởng lộ ra nơi khóe miệng nhưng y không
nói gì mà chỉ nhìn Thái hậu. Thái hậu cười nói: “Ai gia đã lâu không hỏi tới
việc triều chính, Hoàng thượng cứ nhìn ai gia mà cười như thế làm gì?”

Huyền
Lăng liếc mắt về phía khuôn mặt có vẻ không kiêu ngạo, không khúm núm của Phó
Tư nghi, nhẹ nhàng cất tiếng: “Nhi thần cảm thấy người này chỉ làm một viên Phó
Tư nghi thì đúng là đáng tiếc.”

Thái
hậu khẽ cười điềm đạm nhưng sắc mặt lại có vẻ hơi mỏi mệt. “Hoàng thượng biết
quý trọng nhân tài như thế thực là tốt quá rồi!” Sau đó ngoảnh đầu nhìn qua
phía tôi, nụ cười bên khóe miệng tựa đầm nước trong veo sâu thẳm. “Chi bằng
Hoàng thượng thử hỏi ý Hoàn Phi xem sao, Hoàng thượng trước giờ vẫn luôn khen
Hoàn Phi tài năng xuất chúng cơ mà.”

Huyền
Lăng đưa mắt nhìn tôi, mỉm cười nói: “Hoàn Hoàn, nàng cũng thử nói xem sao đi!”

Tôi
hơi khom người, nghiêm túc nói: “Thần thiếp thấy trong sách cổ có lời rằng “tẫn
kê tư thần, duy gia chi tác[13]”, thần thiếp chỉ là hạng đàn bà, sao
dám tùy tiện đàm luận chuyện triều chính trước mặt Hoàng thượng. Hơn nữa, Hoàng
thượng là chủ nhân của thiên hạ, việc thưởng phạt quan viên trong lòng sớm đã
có định đoạt rồi. Thần thiếp có thể phân ưu với Hoàng thượng nơi hậu cung nhưng
quyết không dám lạm bàn đến việc ở tiền triều.”

[13] Câu này được ghi lại trong
sách Tân Đường thư, nghĩa đen là con gà mái gáy gọi bình minh, ấy là cái điềm
nhà tan cửa nát. Ý chỉ việc đàn bà mà tiếm quyền thì âm dương điên đảo, sớm
muộn gì cũng làm cho xã tắc bại vong - ND.

Tôi
nói với giọng chân thành khẩn thiết, Huyền Lăng nghe rồi không tỏ thái độ gì,
Thái hậu cũng chỉ mỉm cười bình thản.

Phó
Tư nghi hơi cúi đầu, ngẫm nghĩ một chút rồi mới nói: “Vi thần có lời này không
biết có nên nói hay không.”

Huyền
Lăng cười bảo: “Ngươi cứ nói trẫm nghe thử xem.”

“Vận
hạn của Thái hậu tuy đã hết nhưng theo thần quan sát, hai sao Tỉnh Mộc Ngạn và
Quỷ Kim Dương trong chòm Chu Tước đều có vẻ bị lu mờ, đây vốn là hai ngôi sao
gở, chủ về điềm kinh sợ, do đó sẽ có nhiều sự chẳng lành, mọi việc mong cầu đều
bất lợi. Chòm Chu Tước chủ về phương nam, ứng với phía nam Thượng Lâm uyển, xin
thứ cho vi thần lắm miệng hỏi một câu, không biết có vị nương nương hay tiểu
chủ nào trong tên của song thân có mộc, gần đây lại phải chịu cơn kinh sợ
không?”

Huyền
Lăng hơi cau mày, trầm ngâm hồi lâu rồi mới nói: “Cung điện ở phía nam Thượng
Lâm uyển có không ít, các cung như Trường Dương, Trường Xuân, Trường Hòa, Tiên
Đô, Doanh Thọ đều ở đó cả. Có điều trong tên của song thân có mộc... An Bỉ
Hòe... mẫu thân của nàng ấy hình như tên là... Lâm Tú.”

Tôi
bất giác hơi biến sắc mặt. “Phụ thân của An muội muội tên là An Bỉ Hòe không
sai, còn về tên của mẫu thân muội ấy, ngay đến thần thiếp và My tỷ tỷ cũng
không biết.”

Thái
hậu vẫn giữ nguyên vẻ thản nhiên, bàn tay lặng lẽ lần tràng hạt, hờ hững nói:
“Cơn kinh sợ mà thị phải chịu gần đây còn nhỏ hay sao?” Sau đó lại đưa mắt nhìn
Phó Tư nghi, hỏi: “Ngươi mau nói đi, phải làm như thế nào?”

Phó
Tư nghi khấu đầu thưa: “Đây cũng không phải vấn đề gì nghiêm trọng, chỉ là
tướng tinh bất lợi, e sẽ sinh việc chẳng lành, cứ nên tĩnh tu là tốt nhất.”

Thái
hậu khẽ gật đầu, nói: “Thị đúng là nên đóng cửa xem xét lại bản thân một chút
rồi.”

Vừa
khéo lúc này Phương Nhược dâng đồ điểm tâm lên, nghe vậy liền ngạc nhiên nói:
“Hoàng hậu mắc bệnh lâu ngày, nghe nói bấy lâu nay vẫn luôn là An Quý tần ở bên
hầu hạ. Người mắc bệnh vốn đã hao tổn khí âm, An Quý tần lại gặp lúc tinh tướng
chẳng lành, không biết có gây ra sự xung khắc gì không đây?”

Huyền
Lăng do dự nói: “Từ khi Hoàng hậu đổ bệnh tới giờ, An Quý tần quả đúng là người
hầu hạ nhiều nhất.” Y suy nghĩ một chút rồi lại tiếp: “Thế này đi, tạm thời
không cho phép nàng ấy vào cung của Hoàng hậu, bắt đóng cửa tĩnh tu mấy ngày là
được rồi.” Rồi Huyền Lăng nhìn qua phía Phó Tư nghi. “Đã có người bị đau bụng,
vậy ngươi hãy nắm chức Tư nghi của Khâm Thiên giám luôn đi.” Sau đó lại hỏi:
“Trẫm còn chưa biết tên của ngươi là gì đấy?”

“Dạ,
thần tên Quý Duy Sinh.” Y dõng dạc trả lời, kế đó liền cúi đầu cung kính cáo
lui.

Tôi
khẽ cười một tiếng, thầm ghi nhớ cái tên này. Thái hậu xua tay một cái, nói với
Tôn cô cô: “Đi đốt chút đàn hương đi, ta ngửi mùi thảo dược suốt mấy tháng nay,
đã sắp biến thành thảo dược đến nơi rồi.”

Tôn
cô cô y lời đi lấy một nén đàn hương ra thắp, từng làn khói mỏng thoang thoảng
hương thơm lững lờ bay ra, tựa như tấm lưới vô hình bao bọc người ta vào giữa.

Thái
hậu cất giọng hiền từ, nhưng ở giữa gian điện trống trải nghe có chút không
chân thực: “Khâm Thiên giám cũng đã nói là không sao rồi, vậy Hoàng thượng hãy
bỏ lệnh cấm túc cho Từ Tiệp dư đi, hy vọng nàng ta có thể yên tâm sinh nở, tăng
thêm thành viên cho hoàng thất.” Sau đó, bà ta vẫy tay gọi tôi lại, hờ hững
hỏi: “Tại sao tự dưng lại nghĩ tới việc cầu xin cho Từ Tiệp dư thế?”

“Lấy
mình xét người, thần thiếp thực sự cầm lòng không đặng.” Tôi thoáng đắn do một
chút rồi bèn nói ra tâm tư của bản thân: “Từ Tiệp dư cũng đang mang thai như
thần thiếp, thần thiếp không đành lòng nhìn muội ấy phải chịu nỗi khổ tinh thần
như vậy. Mà nếu lòng người mẹ không thoải mái thì sao đứa bé trong bụng có thể
khỏe mạnh được. Nếu bây giờ người bị cấm túc là thần thiếp, trong lòng thần
thiếp nhất định cũng đầy nỗi bất an.”

Trong
khi nói, tôi hơi nghiêng đầu nhìn qua bên cạnh, mé tây tẩm điện của Di Ninh
cung trồng toàn những gốc chuối biếc xanh, những tàu lá chuối to lớn được các
tiểu thái giám giội nước lau rửa sạch sẽ, trông lại càng thêm xanh mướt. Dưới
bụi chuối có mấy con hạc đầu đỏ đang đứng nhởn nhơ tránh nắng, trong đó có hai
con hạc nhỏ chừng như vừa mới ra đời không lâu, bộ lông vũ trên người trắng
muốt và mềm mại, đáng yêu vô cùng. Nhìn thấy người, bọn chúng cũng không hề tỏ
ra sợ hãi, chỉ ung dung bước qua bên cạnh mấy bước, tựa hồ đã quen với sự xuất
hiện của con người.

Thái
hậu nhìn theo hướng ánh mắt tôi, cũng bất giác lộ vẻ chấn động. Thời gian cứ
thế lặng lẽ trôi, tôi gần như có thể nghe thấy tiếng tim đập của mình, liền
nhẩm đếm, dường như bỏ sót mất vài nhịp. Thái hậu rốt cuộc đã mỉm cười, nơi đáy
mắt cũng là một nét cười đầy thâm ý, rồi bà ta nói với Huyền Lăng: “Hoàn Phi
không lạm bàn việc triều chính, đức hạnh vẹn toàn, ai gia lấy làm vui mừng
lắm.”

Tôi
vội vàng quỳ xuống thưa: “Thái hậu quá lời, thần thiếp thẹn không dám nhận.”

Thái
hậu lệnh cho Tôn cô cô: “Mau đỡ Hoàn Phi ngồi xuống.” Sau đó liền nắm lấy bàn
tay tôi, ôn tồn nói: “Ai gia vốn thấy con tuy thông minh nhưng sự nền nã thì
không so được với Huệ Quý tần. Từ sau khi con về cung, ai gia vẫn luôn lẳng
lặng quan sát, con phạt nhẹ để răn đe Tường Tần, vì sự an nguy của Từ Tiệp dư
mà đội mưa cầu kiến ai gia, không can dự vào việc triều chính, dám cất lời
thẳng thắn cầu xin thay Từ Tiệp dư, thực là vô cùng đáng quý. Xem ra ánh mắt
của Hoàng thượng không sai chút nào, con rất xứng với sự sủng ái mà Hoàng
thượng dành cho con.”

Tôi
cúi đầu lộ vẻ thẹn thùng, nói: “Thần thiếp may được hưởng hoàng ân, không khi
nào dám quên.”

Thái
hậu lại càng tỏ ra hài lòng. “Mấy năm ở chùa Cam Lộ đúng là đã khiến con trưởng
thành hơn rồi.” Sau đó lại nhìn Huyền Lăng, nói giọng trách cứ: “Bên cạnh Hoàng
thượng nên có thêm các phi tần hiền đức như Hoàn Phi và Huệ Quý tần, chứ không
phải hạng như An thị và Diệp thị. Mà trong việc Dương Phương nghi ngày đó Hoàng
thượng quan tâm quá nên đâm loạn, có hơi hấp tấp, nếu suy xét kĩ càng thì có
thể nhận ra ngay Dương Phương nghi chưa chắc đã là loại người lòng dạ thâm độc
như thế.” Sắc mặt Thái hậu dần trở nên trịnh trọng. “Mối họa Phó Như Kim ai gia
không muốn thấy lại nữa, Dương Phương nghi có phải chết oan hay không ai gia
cũng không tính toán thêm làm gì, Hoàng thượng sau này nhớ chú ý một chút là
được.”

“Nhi
thần cũng không thực sự muốn giết Mộng Sinh, chẳng qua chỉ định cho nàng ấy một
bài học rồi sau này điều tra kĩ càng. Ai ngờ nàng ấy lại nông nổi như vậy, nhi
thần cũng thấy vô cùng đáng tiếc.” Nơi khóe mắt thoáng hiện vẻ áy náy, Huyền
Lăng cúi đầu nói tiếp: “Nhi thần xin ghi nhớ kĩ lời dạy bảo của mẫu hậu.”

Thái
hậu khẽ thở dài. “Con phải ghi nhớ cho kĩ mới được, chỉ nói miệng thôi thì
không ích gì đâu.”

Chiếc
áo màu ngó sen của Huyền Lăng bị một cơn gió mát từ ngoài điện thổi vào làm
tung bay lất phất, y tươi cười nói: “Nhi thần đã có một phi tử hiền đức thế này
rồi, những người không ra gì mà mẫu hậu vừa nói tới đều chẳng có gì đáng kể
cả.”

Trò
chuyện thêm mấy câu, thấy thời gian đã không còn sớm nữa, tôi và Huyền Lăng liền
đứng dậy cáo từ rời đi.

Trong
khoảnh khắc xoay người lại, tôi liếc thấy Phương Nhược đứng phía sau rèm đang
khẽ mỉm cười, liền đáp lại bằng một nụ cười hiểu ý.

Nếu
không có Phương Nhược thì sao tôi biết được Thái hậu kỳ thực cũng mang lòng
thương xót Từ Tiệp dư. Mà nếu không có những việc này, sao tôi có thể trở thành
một phi tử hiền đức trong mắt Thái hậu để rồi được bà ta tán dương và thương
yêu như thế.

Cũng
giống như My Trang vậy, có Thái hậu đứng phía sau rồi, sự an toàn và địa vị của
tôi coi như đã tạm thời được đảm bảo.

Nghĩ
tới đây, tôi đưa mắt nhìn bầu trời trong xanh thăm thẳm, khẽ nở một nụ cười thư
thái.

Báo cáo nội dung xấu