Hậu cung Chân Hoàn truyện (Tập 6) - Chương 04 - Phần 1
Chương
4
Báo
ơn
Sáng sớm hôm nay Từ Tiệp dư phái Kết Ngạnh
tới mời, tôi liền biết là nàng ta đã có tính toán, bỗng thấy yên tâm hơn một
chút. Khi tới Ngọc Chiếu cung, tôi thấy Từ Tiệp dư trang điểm nhẹ nhàng, thần
sắc điềm đạm, trên bàn đặt một cuốn Mạnh
Tử đã được mở sẵn, từ trên trang sách tỏa ra mùi mực thơm thoang thoảng rất
hợp với khí chất của nàng ta.
Nàng ta mỉm cười, ôn tồn nói: “Hoàng thượng
nói là sáng nay sẽ tới chỗ tần thiếp ngồi chơi, tần thiếp thầm nghĩ việc mà
nương nương nhờ cứ nên thực hiện càng sớm càng tốt.” Từ Tiệp dư vừa nói vừa chỉ
tay vào một tấm bình phong đặt ở nơi nội đường, cất giọng áy náy: “Phía sau tấm
bình phong đó là nơi thường ngày tần thiếp dùng để thay quần áo, Hoàng thượng
sẽ không lui tới đâu. Phiền nương nương chịu ấm ức một chút mà nấp ở đó, nếu
thấy lời của tần thiếp có sơ hở gì thì sau này còn kịp thời bổ cứu cho chu
toàn.”
Tôi nhìn nàng ta chăm chú, chợt khẽ nở nụ
cười. “Đa tạ Tiệp dư đã suy nghĩ chu toàn như thế.” Sau đó liền gỡ hết những
món đồ trang sức trên đầu xuống, đề phòng chúng phát ra tiếng động. Vừa mới làm
xong tôi đã nghe thấy bên ngoài vang lên tiếng thông báo Hoàng thượng giá đáo,
bèn vội nấp vào phía sau tấm bình phong.
Từ Tiệp dư bám vào tay Kết Ngạnh bước ra
ngoài nghênh đón, hơi khom người hành lễ và hé miệng cười tươi. “Hoàng thượng
tới rồi!” Nàng ta hôm nay mặc một chiếc váy lụa rộng màu trắng ngà trang nhã,
duy có nơi tà váy là thêu một bông lan quân tử màu vàng nhạt.
Huyền Lăng ngắm nghía nàng ta một chút rồi
cũng khẽ cười. “Trông khí sắc nàng hôm nay đã tốt hơn một chút rồi đấy!”
Nàng ta nhoẻn miệng cười, nói: “Đều là nhờ
phúc của Hoàng thượng.”
Huyền Lăng khẽ “ừm” một tiếng, nhẹ nhàng
nắm lấy bàn tay nàng ta. “Quãng thời gian trước nàng đổ bệnh, giờ cũng nên tĩnh
dưỡng cho tốt rồi, trẫm thấy Kết Ngạnh và Xích Thược hầu hạ nàng rất chu đáo
đấy.” Nói rồi lại “ồ” lên một tiếng, nhìn quanh hỏi: “Sao không thấy Xích Thược
ở bên nàng thế?”
Để đề phòng Xích Thược gây chuyện, tôi sớm
đã kêu Hoán Bích kéo thị tới phủ Nội vụ cùng chọn vải mới. Đó vốn là một công
việc rất hời, thị tất nhiên sẽ không từ chối.
Trên đôi hàng lông mày của Từ Tiệp dư thấp
thoáng một nét sầu không sao giấu được, thế nhưng ở trước mặt Huyền Lăng, nét
sầu ấy của nàng ta giống hệt như là đang mỉm cười. “Xích Thược bận giúp thần
thiếp đi lĩnh vải để may quần áo mùa thu rồi.”
Huyền Lăng khẽ “ồ” một tiếng, cũng nhận ra
là mình có chút thất thố, lại thấy trên bàn có đặt cuốn Mạnh Tử đã mở sẵn, bèn khẽ cười hỏi: “Sao nàng tự dưng lại có hứng
thú xem sách này vậy?”
Từ Tiệp dư vốn thoáng có chút lúng túng,
lúc này nghe nhắc tới sách Mạnh Tử
thì có vẻ tự nhiên hơn nhiều. “Cái đạo Khổng Mạnh vốn chứa đầy thâm ý, thần
thiếp hy vọng qua việc xem sách có thể mở mang kiến thức cho mình.”
Huyền Lăng nghe nàng ta nói vậy thì thích
thú hỏi: “Nàng đã thích đọc Mạnh Tử
như vậy, chẳng hay có kiến giải thế nào?”
Từ Tiệp dư nở một nụ cười nhã nhặn, đoạn
khẽ nói: “Thần thiếp đọc Mạnh Tử rồi
mới thấy được sự nông cạn của Chu Hy, Chu Hy tự xưng là phu tử, được người sau
tán tụng hết lời vì “Trình Chu Lý học”, nhưng kỳ thực là chẳng hiểu gì, đi
xuyên tạc cái đạo Khổng Mạnh.”
Huyền Lăng lại càng có hứng thú hơn, hỏi
tiếp: “Tiệp dư cớ sao lại nói như vậy?”
Từ Tiệp dư cười điềm đạm, nói: “Sách Mạnh Tử phần Vạn Chương thượng có nói, “nam nữ kết hôn, ấy là việc tất yếu phải
làm để nhân loại có thể sinh sôi”, sách Lễ
ký phần Lễ vận cũng có nói, “ăn
uống và tình dục, ấy là nhu cầu bình thường nhất của mỗi một con người”, vậy mà
đến miệng Chu Hy thì lại thành “tồn Thiên lý, diệt nhân dục”, thực chẳng thông
gì cả.” Rồi nàng ta lại ngoảnh đầu qua nhìn Huyền Lăng. “Triều ta từ xưa tới
nay vẫn luôn coi đạo Khổng Mạnh là chính tông, Chu Hy tuy khá có thành tựu về
Lý học, văn chương cũng viết rất hay, thế nhưng nhân phẩm thì thực là quá kém,
từ việc Nghiêm Nhụy là có thể thấy được phần nào, ông ta vì việc riêng của mình
mà tra tấn đánh đập một nữ tử vô tội, khiến nàng ta thiếu chút nữa thì bỏ mình,
lòng dạ thực lạnh lùng quá mức[5].”
[5]
Tương truyền Nghiêm Nhụy xuất thân bần hàn, từng làm doanh kỹ ở Đài Châu, viên
quan tri châu ở đó là Đường Dữ Chính ra lệnh cho Nghiêm Nhụy làm một bài từ
vịnh hoa bạch đào. Nghiêm Nhụy đâu dám chống lệnh. Nàng lập tức viết xong và ca
một bài từ theo điệu Như mộng lệnh. Đường Dữ Chính rất tán thưởng, ban tặng cho
nàng rất nhiều. Đến đêm Thất tịch, Đường Dữ Chính mở tiệc trong phủ chiêu đãi
bạn bè tân khách. Trong tiệc có một vị hào sĩ tên là Tạ Nguyên Khanh hâm mộ
danh tiếng Nghiêm Nhụy, liền lấy Thất tịch làm đề yêu cầu sáng tác, nàng lập
tức làm một bài từ theo điệu Thước kiều tiên, rất hợp với đêm hoan hội của Ngưu
Lang, Chức Nữ, thể hiện rõ sự thông minh tài trí phi phàm. Tạ Nguyên Khanh say
mê nàng, liền giữ nàng ở nhà nửa năm, không tiếc tiền của tặng nàng. Nào ngờ
sau đó nhà đạo học nổi tiếng của đời Tống là Chu Hy làm quan khâm sai đến Đài
Châu, muốn tra tìm tội lỗi của Đường Dữ Chính, chỉ trích họ Đường có quan hệ
bất chính với doanh kỹ Nghiêm Nhụy và bắt Nghiêm Nhụy tống giam hai tháng. Nàng
bị tra khảo chết đi sống lại nhưng không hề nói một điều gì tổn hại đến Đường
Dữ Chính. Ít lâu sau, Chu Hy được đổi đi làm quan nơi khác, Nhạc Lâm kế nhiệm.
Ông này thông cảm với cảnh ngộ của Nghiêm Nhụy, nhân một buổi lễ, Nhạc Lâm ra
lệnh cho Nghiêm Nhụy làm một bài từ bày tỏ nỗi oan khuất của mình. Nghiêm Nhụy
ứng khẩu ca luôn bài từ Bốc toán tử. Nhạc Lâm lập tức ra lệnh cho nàng hoàn
lương.
Huyền Lăng khẽ mỉm cười, búng ngón tay,
nói: “Chu Hy quả thực cũng có những hành vi không được hợp tình hợp lý cho
lắm.”
Từ Tiệp dư ngồi nghiêm trang ngay ngắn,
khóe miệng hơi nhếch lên: “Dạ phải, chỉ riêng câu “tồn thiên lý, diệt nhân dục”
kia thần thiếp đã cảm thấy hoàn toàn không thông rồi.” Nàng ta bất giác hơi đỏ
mặt. “Nếu trong cung mà cũng như vậy, thần thiếp làm sao có thể sinh con đẻ cái
cho Hoàng thượng được đây, cho nên người nói ra lời này nhất định là một kẻ vô
tình, rõ ràng đã đi ngược lại với cái đức khoan dung của hoàng gia.”
Những tia nắng thu vàng ấm áp như một làn
sương mù mỏng manh bao quanh Không Thúy đường, bầu không khí toát ra một vẻ
thanh bình tĩnh lặng khó tả. Trong mắt Từ Tiệp dư bừng lên những nét dịu dàng
mơ mộng, tựa như một sợi dây yếu đuối mỏng manh đang níu giữ một cánh diều, mà
cánh diều ấy không phải ai khác chính là Huyền Lăng đang trầm ngâm suy nghĩ.
Một lát sau y mới khẽ cười bình thản, nhưng
ánh mắt thì lại thấp thoáng một tia lạnh lùng khó có thể xua tan. “Thật thế
sao?” Y nhìn Từ Tiệp dư lúc này đang cúi đầu e thẹn, hờ hững hỏi: “Tiệp dư gần
đây đã nghe người nào đó nói gì ư?”
Từ Tiệp dư gắng gượng nhích người qua bên
cạnh một chút, cười nói: “Đừng nói là thần thiếp bây giờ không đi lại được, dù
thần thiếp có chịu ra ngoài, Hoàng thượng cũng biết tính thần thiếp rồi đấy,
chưa từng trò chuyện sau lưng người khác việc gì, càng chẳng bao giờ quản đến
việc của người khác.”
Huyền Lăng hơi ngẩn ra một chút, sau đó
liền bật cười thư thái. “Đúng thế, trẫm vốn luôn thấy đây là ưu điểm lớn nhất
của nàng, không bao giờ nhiều lời lắm miệng như người khác.” Lúc này y đã lộ ra
vài phần tin tưởng. “Vậy trẫm có việc này muốn nghe ý kiến của Tiệp dư. Nàng là
người ngoài cuộc, chắc hẳn sẽ có thể nhìn sự việc một cách thấu đáo.”
“Thần thiếp tuy kiến thức ít ỏi nhưng vẫn
rất sẵn lòng phân ưu với Hoàng thượng.”
Huyền Lăng hơi trầm ngâm một chút rồi mới
nói: “Hiện giờ trong cung đang sục sôi chuyện giữa Lý Trường và Thôi Cận Tịch,
Hoàng hậu chủ trương phạt nặng, Kính Phi không tỏ thái độ gì, Đoan Phi lộ vẻ
bất nhẫn, Hoàn Phi thì không tiện mở lời, chẳng hay nàng có cái nhìn ra sao?”
Từ Tiệp dư dịu dàng cười, nói: “Hoàng
thượng có còn nhớ cảnh hoa đào ngày xuân không? Vừa rồi nhắc tới Nghiêm Nhụy,
thần thiếp xin được dùng bài Như mộng
lệnh của Nghiêm Nhụy để trả lời.” Rồi nàng ta cất giọng trong trẻo vui tai:
“Hồng mà, đâu phải hạnh hoa. Trắng mà, cũng chẳng phải là hoa lê. Hồng hồng
trắng trắng ngoài kia, đã từng lắm kẻ say mê đêm ngày. Tình riêng gửi gió đông
rày, nhớ nghe hoa ấy, tình này Vũ Lăng[6].”
[6]
Đây là toàn bài Như mộng lệnh của Nghiêm Nhụy, dịch thơ Lê Văn Đình, Ngô Như
Sâm. Nguyên văn Hán Việt: Đạo thị lê hoa bất thị, đạo thị hạnh hoa bất thị.
Bạch bạch dữ hồng hồng, biệt thị đông phong tình vị. Tằng ký, tằng ký, nhân tại
vũ lăng vi túy - ND.
“Tiệp dư nói vậy là ý làm sao?”
Từ Tiệp dư đang đeo một sợi dây chuyền bạc
trên cổ, ở chính giữa là mặt dây hình hoa đào năm cánh được điêu khắc thành từ
một viên pha lê màu hồng, thực rất hợp với những lời nói của nàng ta lúc này:
“Hồng mà, đâu phải hạnh hoa. Trắng mà, cũng chẳng phải là hoa lê. Tưởng đúng mà
lại sai, hồng hồng trắng trắng, ấy chính là hoa đào, người yêu thích thì nói là
hoa đào rực rỡ, làm đẹp muôn nhà, người không thích thì lại chê nó mỏng manh,
nhạt nhẽo, theo nước lênh đênh. Kỳ thực bất kể là hoa gì, tốt hay xấu đều bởi
lòng người mà ra cả. Trong mắt Chu Hy, Nghiêm Nhụy là một kỹ nữ hèn hạ, chết
không đáng tiếc. Nhưng muôn đời sau, mọi người đều tán tụng Nghiêm Nhụy là một nữ
tử hiệp nghĩa, dù bị tra khảo dã man vẫn không vu cáo người trong sạch. Cũng
giống như hoa đào trong bài thơ này vậy, có lẽ với Chu Hy mà nói thì nó chỉ là
vật mỏng manh trôi theo dòng nước mà thôi, nhưng ông ta đâu hay hoa đào còn là
loài hoa đại biểu cho chốn Đào Nguyên ở đất Vũ Lăng nữa. Nói tới việc trong
cung hiện giờ, Hoàng hậu cho là có liên quan tới kỷ cương nề nếp, nhưng thần
thiếp thì lại nghĩ họ chưa từng gây ra tai họa gì, chẳng qua là thái giám cung
nữ vỗ về, an ủi lẫn nhau mà thôi. Những kẻ làm nô làm tỳ như họ một khi vào
cung là phải cô độc đến già, thê lương xiết mấy, muốn tìm lấy một người bạn
cũng là lẽ thường, thần thiếp tự đặt mình vào tình cảnh đó mà xét, cảm thấy hết
sức xót thương.”
Nghe Từ Tiệp dư chậm rãi nói ra những lời
này, tôi đứng sau bình phong không kìm được ngấm ngầm tán thưởng, nữ tử này quả
đúng là tâm tư tinh tế, nói năng xảo diệu, mấy ai có thể so sánh được.
Vẻ lạnh lùng trong mắt đã tan hẳn, Huyền
Lăng ôn tồn hỏi: “Vậy theo Tiệp dư thì nên xử trí thế nào mới tốt đây?”
Từ Tiệp dư cất giọng dịu dàng: “Hoàng
thượng đã từng nghe qua câu nói “không si không ngốc, không làm chủ nhà” chưa?
Thăng Bình Công chúa của Đường Đại Tông bị Phò mã là Quách Ái say rượu đánh,
Đại Tông chẳng qua chỉ nói vài câu rồi cho qua chuyện, việc thái giám cung nữ
đối thực chẳng hề nghiêm trọng này so ra thì đáng kể gì. Thực ra nếu Hoàng
thượng không tin thì có thể đến từng cung một kiểm tra, chưa biết chừng chuyện
này nơi nào cũng có, lẽ nào phải lôi hết bọn họ ra mà giết hay sao? Hoàng
thượng là chủ nhân của thiên hạ, chức trách đâu có nhẹ nhàng, đơn giản như một
người chủ nhà, do đó nên thể hiện ra cái dạ dung người, đem chuyện lớn hóa
thành chuyện nhỏ, lại đem chuyện nhỏ hóa thành không có.” Nàng ta nhìn Huyền
Lăng chăm chú, ánh mắt trong veo. “Có lẽ là vì thần thiếp đang có thai, thực
không muốn nghe thấy những chuyện đánh đánh giết giết chút nào, thành ra mềm
lòng quá mức, xin Hoàng thượng thứ tội.”
Trong mắt Huyền Lăng ánh lên nét cười dịu
dàng cùng một tia an ủi. “Đúng thế, bây giờ trong cung không chỉ có nàng mang
thai, chắc cả Thẩm Thục viện và Hoàn Hoàn cũng đều không muốn thấy những chuyện
giết chóc.” Tới lúc này Huyền Lăng chỉ uống trà và trò chuyện vu vơ với Từ Tiệp
dư thêm một lát, lại cẩn thận dặn dò đôi câu, sau đó liền nhẹ nhàng cất bước
trở về Nghi Nguyên điện.
Từ Tiệp dư bám vào tay Kết Ngạnh dõi mắt
nhìn theo bóng dáng dần rời xa của Huyền Lăng, trong mắt tràn ngập vẻ dịu dàng,
lặng im không nói tiếng nào.
Đứng sau tấm bình phong, tôi nhìn ánh mắt
của Từ Tiệp dư mà trong lòng trào dâng muôn vàn cảm xúc phức tạp. Chắc hẳn phải
rất yêu một người nào đó thì mới có thể có một ánh mắt triền miên da diết đến
như thế, có điều Từ Tiệp dư lại chưa từng để lộ ra trước mặt Huyền Lăng. Dường
như nàng ta đã quen rồi, lúc nào cũng chỉ lặng lẽ nhìn y như thế từ phía sau
lưng.
Tôi thầm thở dài một tiếng, chắc tôi không
thể nào nhìn Huyền Lăng bằng ánh mắt như vậy được nữa rồi, người mà tôi muốn
nhìn bằng ánh mắt ấy thì bây giờ lại chẳng thể nào xuất hiện trước mặt tôi được
nữa.
Từ Ngọc Chiếu cung trở về, tâm trạng tôi đã
nhẹ nhàng hơn một chút nhưng đồng thời lại trầm lặng hẳn đi. Tôi ngồi dưới cửa
sổ, như vô tình mà hữu ý đưa tay lướt nhẹ trên bảy sợi dây đàn, mắt nhìn Hoa
Nghi dẫn các cung nữ dọn sạch những chiếc lá sen khô trong ao, làm ao nước trở
nên trong veo, sạch sẽ.
Hoán Bích đứng sau lưng tôi, nhúng chiếc
lược gỗ vào đĩa cao hà thủ ô bồ kết rồi chải đầu cho tôi hết lần này tới lần
khác, miệng khẽ nói: “Trên đường quay về, nô tỳ thấy tiểu thư cười mấy bận,
chắc là việc lần này đã có mấy phần nắm chắc rồi.”
Tôi hờ hững nói: “Đâu có nhanh được như
vậy, chẳng qua mới có một chút hy vọng mà thôi, những việc tiếp theo ta còn
chưa biết phải làm thế nào nữa.”
Hoán Bích cười nói: “Có được một chút hy
vọng cũng là tốt lắm rồi, qua đó đủ thấy Từ Tiệp dư đúng là hết sức thông
minh.” Dừng một chút muội ấy mới nói tiếp: “Có điều Từ Tiệp dư với tiểu thư chỉ
có thể nói là thân quen mà thôi, tình cảm đâu có được như tiểu thư và Thẩm Thục
viện, cớ gì mà tiểu thư lại giao phó việc này cho nàng ta chứ không phải là
Thẩm Thục viện?”
Tôi kéo nhẹ chiếc khăn choàng thêu hình hoa
đào trên vai mình một chút, ngoảnh đầu qua nhìn bụi hoa cúc màu hồng tên gọi
“Phật kiến tiếu” đang nở rộ dưới hành lang: “Chính vì My Trang tỷ tỷ gần gũi
với ta, do đó mới không thể để tỷ ấy nói ra những lời này. Từ Tiệp dư vốn khá
có tài năng, xưa nay lại chẳng bị cuốn vào những chuyện thị phi bao giờ, một
khi nói ra những lời này Hoàng thượng ắt sẽ chịu nghe. Có điều...” Trong lòng
tôi lại trào lên một nỗi ưu lo khác, Từ Tiệp dư học rộng biết nhiều, tất nhiên
chẳng phải hạng người nông cạn, nếu như tâm tư trong sáng thì còn tốt, nhưng
một khi có mưu đồ gì, ắt sẽ trở thành một cường địch khác của tôi.
Hoán Bích đã ở bên tôi lâu ngày, tất nhiên
hiểu rõ suy nghĩ của tôi, bèn thấp giọng nói: “Từ Tiệp dư gia thế bình bình,
càng quan trọng hơn là xưa nay vốn không đắc sủng lắm, dù có sinh hạ Hoàng tử,
được phong làm Quý tần thì cùng lắm cũng chỉ ngang với Cẩn Phi ngày trước, tiểu
thư vị tất phải lo lắng việc nàng ta tranh sủng làm gì.”
Tôi hết nhìn hình ảnh trời xanh mây trắng
đổ bóng xuống ao nước trong veo, lại ngoảnh đầu nhìn Hoán Bích. “Nếu nàng ta
muốn tranh sủng thì việc gì phải đợi đến sau này, nàng ta chẳng qua là không
thèm giành lấy chút sự sủng ái đó mà thôi... Huống chi nếu xét về gia thế, ta
chỉ là con gái của tội thần, chẳng có ai mà nương tựa, lấy cái gì để so sánh
với người ta đây?”
Hoán Bích nghe vậy liền cụp mắt xuống, khẽ
nói: “Gia thế của chúng ta tất nhiên không thể so với người khác, may mà mấy
hôm trước Ôn đại nhân tới đây nói là sức khỏe của công tử đã khá hơn nhiều rồi,
đầu óc cũng tỉnh táo hơn một chút, thực là đáng mừng.”
“Nói gì thì nói quan trọng nhất vẫn là mọi
người được bình an, biết tin ca ca đã khỏe hơn, lòng ta cũng dễ chịu phần nào.”
Tôi khẽ cười, nói tiếp: “Cũng tại ta cả nghĩ quá, sau khi về cung việc gì cũng
lo trước lo sau. Kỳ thực Từ Tiệp dư tính tình rất tốt, bằng không My Trang tỷ
tỷ và Kính Phi đã chẳng thèm qua lại với nàng ta.”
Nói tới Kính Phi, trái tim tôi bỗng nảy lên
một cái, bất giác trở nên lạnh ngắt. Đang lúc trầm ngâm suy nghĩ, tôi chợt nghe
thấy tiếng cười vui vẻ của Huyền Lăng vang lên: “Sao lại đi chải đầu vào lúc
này thế?”
Tôi cả kinh, vội vàng đứng dậy, cười nói:
“Sao Hoàng thượng lại đột ngột tới đây thế? Làm người ta sợ giật nảy mình. Giờ
thần thiếp đang áo quần xốc xếch, xin Hoàng thượng hãy để thần thiếp vào trong
thay xiêm y một chút đã rồi lại ra đây gặp mặt.”
Huyền Lăng chắp tay sau lưng, trên khuôn
mặt thấp thoáng nét mừng vui và dịu dàng rất mực, khẽ nói: “Trước song hiên,
tựa đài trang, thì ra là một quang cảnh thanh bình yên tĩnh thế này.”
Nghe y buột miệng nói ra câu “trước song
hiên, tựa đài trang” đó, tôi bất giác cảm thấy có chút chẳng lành, bèn mỉm cười
nói: “Hoàng thượng thực đáng phạt, đang yên đang lành lại nói tới bài Giang thành tử của Tô Thức, nghe mà xiết
nỗi thê lương.”
Huyền Lăng ngẩn ra, trong mắt chậm rãi dâng
lên một nỗi niềm thương cảm, nhưng ngoài mặt thì vẫn là nụ cười ung dung, bình
thản như vừa rồi: “Đó là bài từ Tô Đông Pha viết cho vong thê Vương Phất, trẫm
quả đã lỡ lời rồi.”