Tâm lý học căn bản - Chương 10 - Phần 5

2. Các khảo hướng
căn cứ vào phương thức xử lý thông tin

Nếu như hiện tượng
phát triển trí tuệ không tiến triển theo cung cách trải qua các giai đoạn tách
biệt như Piaget chủ trương, thì yếu tố nào làm nền tảng cho sự tăng trưởng lớn
lao và rõ rệt về năng lực trí tuệ của trẻ đến mức người có kiến thức bình
thường nhất cũng thấy được? Đới với nhiều nhà TLPT thì nhân tố căn bản ấy chính
là các chuyển biến về phương thức xử lý thông tin (information processing), tức
là cách chuyển biến về mặt tiếp nhận, sử dụng, và lưu trữ thông tin của con
người.

Theo khảo hướng
này, nhằm tìm hiểu các khía cạnh trí tuệ thuộc hành vi ứng xử của con người mà
chúng ta đã thảo luận ở chương 7, các chuyển biến về mặt số lượng diễn ra đối
với khả năng tổ chức và vận dụng thông tin về ngoại giới của trẻ. Từ quan điểm
này, trẻ được xem là ngày càng thông thạo cách xử lý thông tin hơn, tương tự
như trường hợp một chương trình điện toán ngày càng tinh vi hơn nhờ người lập
trình dựa vào kinh nghiệm để cải tiến nó vậy. Khảo hướng xử lý thông tin tìm
hiểu các loại “chương trình trí tuệ” mà trẻ vận dụng để tìm cách giải các bài
toán.

Người ta ghi nhận
được một số chuyển biến quan trọng về năng lực xử lý thông tin của trẻ. Một
mặt, tốc độ xử lý gia tăng theo tuổi tác khi một số năng khiếu ngày càng tự
động hơn. Tốc độ tiếp thu, nhận hiểu, và so sánh kích thích này với các kích
thích khác gia tăng theo tuổi tác. Khoảng thời gian tập trung chú ý cũng kéo
dài hơn; khi tuổi tác ngày càng lớn lên, khả năng tập trung vào chú ý các đối tượng
nhận thức của trẻ ngày càng vững bền hơn và mức độ sao nhãng cũng giảm bớt đi.

Mặt khác, ký ức
cũng cải thiện đáng kể theo tuổi tác. Có lẽ bạn còn nhớ ở chương 6 rằng người
trưởng thành cũng có thể lưu giữ từ 5 đến 9 mẫu thông tin trong ký ức ngắn hạn.
Ngược lại trẻ chưa đến tuổi đi học chỉ có thể lưu giữ 2 hoặc 3 mẫu thông tin;
trẻ 5 tuổi có thể lưu giữ được 4 mẫu; và trẻ lên 7 có thể lưu giữ tối đa 5 mẫu.
Kích cỡ các mẫu thông tin ghi nhớ cũng tăng trưởng theo tuổi tác, mức độ tinh
vi và cách tổ chức các kiến thức lưu giữ trong ký ức cũng vậy.

Cuối cùng, sự cải
thiện phương thức xử lý thông tin liên hệ chặt chẽ với các tiến bộ về trí tuệ
siêu nghiệm (metacognition), tức là các tiến bộ về khả năng nhận định và tìm
hiểu các tiến trình trí tuệ của bản thân. Trí tuệ siêu nghiệm bao gồm việc
hoạch định, theo dõi, và hiệu chính các tiến trình vận dụng trí tuệ của bản
thân. Vì thiếu hiểu biết về các tiến trình trí tuệ của bản thân, trẻ ít tuổi
thường không hiểu rõ được tình trạng kém khả năng của mình nên chúng thường
hiểu lầm người khác và thậm chí không nhận thức được các sai lầm của chúng. Chỉ
sau này khi các khả năng thuộc trí tuệ siêu nghiệm đã tinh vi hơn, trẻ mới có
thể biết được rõ lúc nào chúng không hiểu được người khác cũng như các việc làm
của bản thân chúng vậy.

THỪA HƯỞNG THÀNH
QUẢ CỦA TLH: TỐI ĐA HÓA PHÁT TRIỂN TRÍ TUỆ

Phải chăng có các
biện pháp tối đa hóa phát triển trí tuệ của trẻ? Mặc dù việc tìm hiểu vấn đề
bẩm sinh và dưỡng dục giúp chúng ta hiểu rõ rằng cơ sở di truyền đóng vai trò
quyết định trong việc xác định của các giới hạn trí tuệ mà chúng ta sau cùng có
thể vươn đến, nhưng cũng hiển nhiên rằng các yếu tố hoàn cảnh có thể nâng cao
khả năng phát huy tiềm năng của chúng ta. Các cuộc nghiên cứu do các nhà TLPT
tiến hành đã nhận diện được một biện pháp nuôi dạy trẻ tạo thuận lợi cho việc
tối đa hóa phát triển trí tuệ. Các biện pháp quan trọng nhất là:

– Hãy sẵn sàng đáp
ứng với trẻ về mặt tình ảm và tinh thần
: Các bậc cha mẹ có con cái thành tựu cao đều quan tâm đến cuộc sống của
con cái, cỗ vũ và khích lệ các nỗ lực của chúng. Họ luôn luôn nhiệt tình ủng hộ
và đóng vai trò “cố vấn riêng cho trẻ”. Họ chấp nhận sai lầm của trẻ, và luôn
luôn làm chỗ dựa để chúng có cơ hội khắc phục sai lầm.

– Tạo cơ hội tối đa
để trẻ khám phá và tìm hiểu hoàn cảnh chung quanh
: Thí dụ, nếu một căn phòng đã được dọn dẹp an toàn, không
nên hạn chế trẻ trong các lồng gỗ.

– Dùng ngôn ngữ
chính xác và có tính miêu tả cao khi trò chuyện với trẻ:
Tránh dùng “lối nói của trẻ thơ” và hãy nói chuyện với trẻ
chứ đừng nói cho trẻ nghe. Hãy đặt các câu hỏi, rồi lắng nghe trẻ đáp lại, để
tạo cơ hội phản hồi xa hơn.

– Đừng ép trẻ quá
mức:
Mặc dù các
điều kiện khắc nghiệt và các nhu cầu cấp bách của cuộc sống hiện tại, thời thơ
ấu vẫn phải là khoảng thời gian hạnh phúc chứ không nên xem chỉ là giai đoạn
chuẩn bị cho tuổi trưởng thành. Một số nhà tâm lý cho rằng chúng ta đang sáng
tạo xã hội gồm “các đứa trẻ tất bật”, cuộc sống của chúng chỉ quanh quẩn ở các
thời khóa biểu khô khan và bản thân chúng bị ép buộc thành công đến mức thời
thơ ấu của chúng đầy dẫy căng thẳng. Hãy nhớ rằng – giống như trong quãng đời
còn lại – điều quan trọng là phải biết dừng lại để có dịp thiết lập được thứ tự
ưu tiên bao gồm việc làm nào quan trọng nhất và việc làm nào kém cần thiết hơn.

3. Tóm tắt và học
ôn III

A. TÓM TẮT

– Lý thuyết quan
trọng về phát triển trí tuệ – cho rằng phương thức tìm hiểu ngoại giới của trẻ
biển động như là một hàm số của tuổi tác và kinh nghiệm – là lý thuyết của
Piaget. Piaget chủ trương có 4 giai đoạn phát triển chủ yếu là giai đoạn vận
động giác quan, chuẩn bị vận động năng lực tư duy, vận dụng năng lực tư duy
trong bô cảnh cụ thể và vận dụng năng lực tư duy chân chính.

– Mặc dù miêu tả
của Piaget về các diễn biến xảy ra thuộc phạm vi các giai đoạn phát triển trí
tuệ khác biệt nhau nói chung vẫn còn giá trị, nhưng một số lý thuyết gia cho
rằng hiện tượng phát triển diễn ra dần dà và liên tục hơn và do các biến chuyển
số lượng hơn là các biến chuyển tính chất của trí tuệ.

– Các khảo hướng xử
lý thông tin về phát triển trí tuệ chú trọng đến các biến chuyển định lượng xảy
ra đối với phương thức tiếp nhận, sử dụng, và lưu giữ thông tin của con người.
Các biến chuyển quan trọng diễn ra theo tuổi tác là tốc độ xử lý thông tin,
thời gian tập trung chú ý, ký ức, và năng lực trí tuệ siêu nghiệm (meta
cognitive abilities).

B. HỌC ÔN

1/... chủ trương 4
giai đoạn phát triển trí tuệ, và mỗi giai đoạn ấy lệ thuộc vào các yếu tố
trưởng thành và hoàn cảnh.

2/ Cặp đôi giai
đoạn phát triển với kiểu tư duy đặc trưng của giai đoạn ấy.

a. Giai đoạn vận
động giác quan (sensonmotor stage)

b. Giai đoạn vận
dụng năng lực tư duy đối tượng nhận thức chân chính (formal operational stage)

c. Giai đoạn chuẩn
bị vận dụng năng lực tư duy (preoperationa/ stage).

d. Giai đoạn vận
dụng năng lực tư duy trong bối cảnh cụ thể (concrete operational stage)

1... Tư duy quy ngã
(Egocentdc thinking)

2... khả lưu giữ bền vững (object permanence)

3... lý luận trừu
tượng (abstract reasoning)

4... nguyên lý bảo
tồn; nguyên lý nghịch đảo (conservaion; reversibility)

3/ Các cuộc nghiên
cứu đương thời cho rằng hiện tượng phát triển trí tuệ của trẻ sẽ diễn tiến theo
cung cách liên tục, chứ không qua các giai đoạn tách biệt như Piaget quan niệm.
Đúng hay Sai?...

4/ Các lý thuyết...
về hiện tượng phát triển trí tuệ cho rằng phương thức xử lý thông tin là điều
kiện quyết định cho sự phát triển của chúng.

C. CÂU HỎI TỰ VẤN

Theo lý thuyết của
Piaget, trẻ phải vươn đến một mức trưởng thành nhất định trước rồi mới học hỏi
được các loại thông tin đặc biệt. Phải chăng bạn cho rằng trẻ có thể tiến bộ
hơn nếu như chúng định tiếp nhận các thông tin có nội dung phức tạp hơn so với
khả năng tuổi tác của chúng? Lý thuyết xử lý thông tin sẽ nói gì về vấn đề này?

(Giải đáp câu hỏi
học ôn ở cuối chương)

IV. TUỔI VỊ THÀNH
NIÊN: ĐỂ THÀNH NGƯỜI LỚN

Không dễ gì trở
thành một thiếu niên ở bộ lạc Awa. Trước tiên chúng phải nếm qua các trận roi
đòn. Ngồi quanh một đám lửa hồng, các cậu bé bị đánh bằng gậy và những cành cây
đầy gai góc vì các lỗi lầm quá khứ của bản thân chúng lẫn để tỏ lòng tôn kính
các chiến sĩ trận vong của bộ lạc.

Nhưng các trận roi
đòn – kéo dài 2 hay 3 ngày trời – chỉ là khúc dạo đầu trong trường đoạn kế tiếp
của nghi lễ, các bậc trưởng bối đâm mạnh những chiếc que sắc nhọn vào mũi các
cậu bé cho đến khi chúng đổ máu đầm đìa mới chịu ngưng tay. Sau đó, họ dùng cây
dây leo dài khoảng 12,7cm thọc sâu vào cuống họng các cậu bé cho đến chúng nôn
mửa thóc tháo ra mới thôi.

Cuối cùng, những
người đàn ông trong bộ lạc cắt sâu vào dương vật các cậu bé gây ra vết thương
thật nghiêm trọng. Sau đó, các cậu bị thả xuống một dòng suối cho máu chảy ra
hòa vào dòng nước, trong khi người lớn đứng trên bờ chứng kiến, cười đùa và chế
nhạo rồi chọc vào các vết thương làm cho chúng đổ máu nhiều hơn nữa.

Tuy các nghi lễ
đánh dấu tuổi dậy thì của các cậu bé ở bộ lạc Ewa thuộc Tân Guinea đối với
chúng ta thật kinh dị, nhưng cũng chưa sánh bằng ở các nền văn hóa khác, ở đó
các cậu bé phải chịu cắt bao quy đầu trước công chúng (public drcumdion) và quỳ
trên than hồng mà không được tỏ ra đau đớn. Và không phải chỉ nam giới mới phải
trải qua các thử thách như thế, ở một số bộ lạc, các cơ gái phải tung các nùi
bông vải cháy đỏ rực từ tay này sang tay kia và phải để cho hàng trăm con kiến
cắn vào người.

Còn các xã hội
phương Tây tuy không có các nghi thức hình phạt xác thân và tâm lý để tượng
trưng cho ngưỡng cửa bước vào tuổi trưởng thành – hầu hết chúng ta đều thở phào
nhẹ nhõm về sự kiện này – nhưng tuổi vị thành niên, thời kỳ tiếp theo sau tuổi
ấu thơ, vẫn cứ là thời gian quan trọng trong cuộc đời chúng ta. Đối với hầu hết
mọi người, tuổi thanh xuân được đánh dấu bởi các thay đổi sâu sắc, và đôi khi
bởi tình trạng nổi loạn. Sự chuyển biến tâm lý lớn lao đánh dấu tình trạng
trưởng thành về sinh lý và cơ thể của thanh thiếu niên, họ phải đối đầu với các
biến chuyển quan trọng về xã hội tính, tình cảm, và trí tuệ xảy ra khi thanh
thiếu niên khao khát độc lập và tiến đến giai đoạn thành niên.

Thời tuổi vị
thành niên
(adolescence)
nói chung được xem là một giai đoạn phát triển giữa tuổi ấu thơ (childhood) và
giai đoạn trưởng thành (adulthood) là một thời kỳ quyết định trong tiến trình
phát triển của con người. Nếu như thanh thiếu niên phải mất nhiều năm cắp sách
đến trường trước khi gia nhập vào đội ngũ lao động trong xã hội thì giai đoạn
này phải là khá dài, nó bắt đầu ngay trước lứa tuổi choai choai và kết thúc
ngay sau tuổi đôi mươi. Tuy không còn bị xem là trẻ con nữa nhưng xã hội lại
xem họ chưa phải là người trưởng thành hoàn toàn, thanh thiếu niên đối mặt với
một thời kỳ chuyển biến nhanh chóng về thân xác và xã hội tính ảnh hưởng mạnh
mẽ suốt quãng đời còn lại của họ.

1/ Phát triển cơ
thể: Thanh thiếu niên không ngừng thay đổi

Nếu nhắc lại thời
điểm khởi đầu thời vị thành niên của riêng bạn, có lẽ các biến chuyển đầy ấn
tượng nhất mà bạn còn nhớ là sự biến đổi về mặt thể xác. Nói chung các hiện
tượng như chiều cao đột nhiên cao vọt lên (nhổ giò, vú nẩy nở to lên ở các em
gái, giọng nói trầm xuống (vỡ tiếng) ở các em trai, lông tóc phát triển dài ra,
và sự khao khát tình dục phát triển mạnh mẽ đều là nguyên nhân gây ra hiếu kỳ,
quan tâm và đôi khi tình trạng lo âu cho thanh thiếu niên đang bước vào giai
đoạn vị thành niên.

Các chuyển biến cơ
thể xảy ra ngay từ đầu giai đoạn vị thành niên, phần lớn do nhiều loại hormone
được tiết ra (xem chương 2), tác động toàn diện mọi khía cạnh trong cuộc sống
của thanh thiếu niên. Kể từ giai đoạn ấu thơ đến lúc này tiến trình phát triển
chưa bao giờ gây ấn tượng đến như vậy (xem hình 10–7). Thể trọng và chiều cao
tăng lên nhanh chóng; sự tăng trưởng đột ngột này bắt đầu vào khoảng tuổi lên
10 đối với các em gái và tuổi 12 đối với các em trai. Chiều cao của thanh thiếu
niên có thể tăng khoảng 10,7cm mỗi năm.

Tuổi dậy thì (puberty) là thời kỳ xuất hiện tình trạng trưởng thành
ở các bộ phận sinh dục (sexual organs), khởi đầu vào khoảng tuổi 11 hay 12 đối
với các em gái và tuổi 13 hay 14 đối với các em trai. Tuy nhiên cũng có các dị
biệt rất lớn, không hiếm các em gái bắt đầu hành kinh (memarche) – dấu hiệu đầu
tiên về tình trạng trưởng thành tình dục ở nữ giới – sớm nhất vào những tuổi
lên 8 hoặc 9 và trễ nhất vào tuổi khoảng 16. Ngoài ra, cũng có dị biệt về mặt
văn hóa trong việc xác định thời điểm hành kinh lần đầu. Thí dụ, trung bình các
thiếu nữ bộ lạc Lumi ở Tân Guine chỉ bắt đầu thời kỳ hành kinh vào tuổi 18.

* Hành kinh
lần đầu:
Khởi đầu
thời kỳ có kinh nguyệt (mernarche period). Lần đầu hành kinh này xảy ra vào
khoảng thời gian từ 10 đến 17 tuổi ở các em nữ (theo Từ điển Y học)

Ở các nền văn hóa
phương Tây, tuổi trung bình bắt đầu trưởng thành về tình dục của thanh thiếu
niên ngày càng giảm dần trong suốt thế kỷ qua, phần lớn có lẽ là do các điều
kiện dinh dưỡng và y tế tiến bộ khả quan hơn. Sự chuyển biến thời điểm khởi đầu
tuổi dậy thì là một minh chứng vững chắc về tình hình tương tác giữa yếu tố
hoàn cảnh với yếu tố di truyền trong tiến trình phát triển của con người.

Thời điểm khởi đầu
tuổi dậy thì có ý nghĩ lớn lao đối với cách cảm nghĩ về bản thân của thanh
thiếu niên – cũng như về cách cư xử của người khác đối với chúng. Các cậu bé
trưởng thành sớm có ưu thế trội hơn các em trưởng thành muộn: chúng giỏi về các
môn điền kinh hơn, và nói chung chúng dễ hòa đồng với mọi người hơn và nhận
thức về bản thân tích cực hơn. Ngược lại, chúng hay gặp rắc rối ở học đường và
dễ dàng dính líu vào các khinh tội (minor delinquency, tội vi cảnh và tiểu
hình). Nguyên nhân dường như các cậu bé sớm trưởng thành có khuynh hướng kết
bạn với các bạn bè lớn tuổi hơn chúng, và chính bạn bè nhiều ảnh hưởng này dẫn
dắt chúng vào những sinh hoạt không phù hợp với tuổi tác của chúng. Dù vậy, để
cân bằng các hậu quả của hiện tượng sớm trưởng thành lại rất có lợi cho thanh
thiếu niên; thanh thiếu niên sớm trưởng thành thường sẽ có tinh thần trách
nhiệm và cộng tác hơn trong cuộc sống sau này của chúng.

Hình 10–7: Các thanh ngang minh họa khoảng tuổi phát sinh các biến
chuyển sinh dục trong thời kỳ thanh xuân.

Đối với các em gái,
bức tranh miêu tả lại khác hẳn. Mặc dù các bé gái sớm trưởng thành thường dễ
được bạn trai hò hẹn và có nhận thức về bản thân vượt trội hơn các bé gái muộn
trưởng thành, nhưng một số hậu quả của tình trạng sớm trưởng thành thể xác có
thể có bất lợi cho chúng. Thí dụ, sự phát triển các đặc điểm dễ thấy như vú nở
to lên chẳng hạn có thể khiến các em bị cách biệt với các bạn đồng trang lứa,
và thậm chí có thể là một nguyên nhân khiến các em bị chế nhạo nữa.

Ngược lại, thanh
thiếu niên muộn trưởng thành có thể gánh chịu các hậu quả tâm lý do tình trạng
chậm trễ này. Các em trai sẽ nhỏ con hơn và thấp vai kém lứa hơn các bạn đồng
tuổi, chúng thường bị chế nhạo, bị xem là kém lôi cuốn, và có thể đến mức có
quan niệm bản thân thua sút các bạn. Các hậu quả của tình trạng muộn trưởng
thành có thể kéo dài đến tuổi ba mươi ở nam giới. Tương tự, thiếu nữ muộn
trưởng thành bị thua thiệt ở các lớp thuộc bậc trung học. Các em thường bị xem
thường trong các quan hệ xã hội, có thể không được bạn trai hẹn hò và không
được tham dự vào các sinh hoạt nam nữ khác.

Hiển nhiên, mỗi
chuyển biến trong giai đoạn thanh xuân ảnh hưởng lớn lao đến quan điểm của
người khác đối với thanh thiếu niên cũng như đến quan điểm của chính họ đối với
bản thân nữa. Tuy nhiên, cũng quan trọng ngang với các biến chuyển cơ thể là
các chuyển biến về tâm lý và xã hội tính diễn ra trong suốt giai đoạn này.

2. Phát triển trí
tuệ và nhận thức luân lý: Phân biệt thị phi, phải – trái, đúng – sai

Ở Âu Châu có một
phụ nữ sắp chết vì một loại bệnh ung thư đặc biệt. Loại thuốc duy nhất mà các
bác sĩ tin có thể cứu được tính mệnh bà là một loại hóa chất bức xạ do một dược
sĩ trong tỉnh vừa mới phát minh được. Loại thuốc này phải tốn nhiều tiền mới chế
tạo được, và người dược sĩ ấy tính giá đắt gấp 10 lần vốn liếng bỏ ra, tức
khoảng 2000 đô la cho một liều nhỏ. Chồng của người đàn bà bị bệnh kia là
Heinz, đã đến khắp mọi người quen biết để vay tiền. nhưng ông ta chỉ gom được
khoảng 1.000 đô la. Ông bảo người dược sĩ rằng vợ ông sắp chết và yêu cầu bán
thuốc rẻ hơn hoặc cho ông nợ lại khoản còn thiếu. Người dược sĩ nói “Không, tôi
phát minh loại thuốc này và dự tính hốt bạc nhờ nó.” Heinz tuyệt vọng và toan
tính đột nhập vào cửa hàng của ông ta để trộm thuốc về cứu vợ.

Bạn khuyên Heinz
nên làm gì?

Theo quan điểm nhà
tâm lý Lawrence Kolhberg, lời khuyên của bạn dành cho Heinz là phản ánh mức độ
phát triển nhận thức luân lý của bạn. Theo Kohlberg, con người trải qua một
loạt các giai đoạn tiến hóa về khái niệm công lý và phương thức lý luận mà họ
vận dụng để thẩm định về mặt luân lý. Phần lớn do nhiều khiếm khuyết về mặt trí
tuệ như Piaget miêu tả, trẻ vị thành niên thường hay suy nghĩ hoặc theo các
nguyên tắc cụ thể và bất di bất dịch (như: “Trộm cắp luôn luôn là hành vi sai
trái.” hay “Nếu trộm cắp tôi sẽ bị trừng phạt.” chẳng hạn); học do các nguyên
tắc xã hội đặt ra (như: “Người lương thiện không bao giờ trộm cắp.” hay “Điều
gì sẽ xảy ra nếu mọi người đều trộm cắp?” chẳng hạn.)

Thế nhưng, thanh
thiếu niên có năng lực lý luận ở bình diện cao hơn, và nói chung họ đã vươn đến
giai đoạn vận dụng tư duy chân chính trong tiến trình phát triển trí tuệ theo
quan điểm của Piaget. Nhờ đủ sức am hiểu các nguyên tắc luân lý phổ quát thanh
thiếu niên hiểu được rằng luân lý (morality) không luôn luôn minh bạch và rằng
xung đột có thể xảy ra giữa 2 nhóm tiêu chuẩn được xã hội thừa nhận.

Kohlberg (1984) cho
rằng tiến trình phát triển nhận thức luân lý diễn biến theo một chuỗi gồm 3
trình đô, và 3 trình độ này lại bao gồm 6 giai đoạn. Các trình độ và giai đoạn
này, cùng với mẫu mực lý luận của các đối tượng trả lời câu hỏi trong trường
hợp điển hình nêu trên, được trình bày ở bảng 10 – 3 dưới đây. Ghi chú rằng các
lập luận hoặc bênh vực hoặc phản đối hành vi trộm thuốc có thể được phân loại
để xếp vào cùng một giai đoạn nhận thức luân lý. Chính bản chất và sự tinh tế
của lập luận đưa ra xác định trình độ nhận thức luân lý của đối tượng.

Hệ thống xếp hạng
của Kohlberg giả định rằng con người trải qua 6 giai đoạn theo một trình tự cố
định, và rằng khoảng tuổi 13 người ta không đủ sức vươn đến giai đoạn cao nhất
– chủ yếu do thiếu sót trong quá trình tiến triển trí tuệ trước độ tuổi ấy chưa
được khắc phục. Tuy nhiên, nhiều người không bao giờ vươn đến được trình độ
nhận thức luân lý cao nhất. Kohlberg cho rằng vào khoảng 25% tổng số người
trưởng thành phát triển cao hơn giai đoạn 4 trong mô hình của ông.

Đến nay các cuộc
nghiên cứu sâu rộng đều cho thấy rằng các giai đoạn xác định bởi Kohlberg phản
ánh hợp lý tiến trình phát triển nhận thức luân lý. Tuy vậy, các nghiên cứu ấy
cũng nêu ra một số vấn đề về mặt phương pháp luận trong lý thuyết của Kohlberg.
Một nghi vấn quan trọng là phương pháp của Kohlberg nhằm đánh giá các phán
đoán/thẩm định (Judgments) chứ không phải các hành vi (behaviors) luân lý. Mặc
dù nói chung lý thuyết của Kohlberg dường như là một lý giải chính xác về diễn
biến phát triển các phán đoán luận lý, nhưng một số nghiên cứu lại khám phá
được rằng các thẩm định ấy không luôn luôn liên quan đến hành vi luân lý. Ngược
lại, các nhà điều tra khác lại cho rằng có mối quan hệ giữa thẩm định luân lý
và hành vi luân lý. Thí dụ, một cuộc khảo cứu đã phát hiện rằng các sinh viên
dễ có hành vi phản kháng để tranh đấu cho dân quyền là những người có trình độ
thẩm định luân lý cao nhất. Dù sao, các chứng cứ vẫn chưa dứt khoát về vấn đề
này. Phân biệt được thị phi – đúng sai – phải trái không có nghĩa là chúng ta
sẽ luôn luôn hành động phù hợp với phán đoán của chúng ta.

Báo cáo nội dung xấu